Chương 2
Đêm qua Corey nhắn tin cho tôi hẹn gặp hôm nay sau nhiều tháng không liên hệ. Lúc đó tôi đang ngồi trước máy tính và quan sát một con kiến bò qua ngón chân cái.
Con kiến đơn độc bò sang trái và phải, lên và xuống. Không biết nó đi tìm thức ăn hay tìm bạn bè. Nó bối rối vì cô đơn. Hoặc vui sướng vì tự do. Tại sao nó chỉ có một mình? Kiến thường đi bầy đàn.
Tôi cần phải ra khỏi nhà. Tôi sợ sau thời gian dài nhốt mình trong nhà, tôi sẽ mất phương hướng như con kiến đó. Không biết bên trái, bên phải, ở trong, hay ở ngoài. Không bạn bè, không công việc.
Con kiến bò khỏi chân tôi ra sàn nhà. Ngay khi nó biến mất ở chân tường, tôi nhận được tin nhắn của Corey.
Khi chúng tôi chấm dứt quan hệ tình dục cách đây vài tháng, cách liên lạc thích hợp nhất giữa người đại diện và nhà văn là qua tin nhắn.
Anh ấy nhắn: Gặp anh sáng mai lúc chín giờ tại tòa nhà Pantem Press, tầng 14. Có thể chúng ta sẽ kiếm được một hợp đồng.
Anh ấy không hề hỏi thăm mẹ tôi. Tôi không ngạc nhiên. Sự thờ ơ của anh ấy đối với mọi thứ, ngoài trừ công việc và bản thân anh ấy, là lý do chúng tôi chia tay. Tôi không chấp nhận sự vô cảm của anh ấy. Tôi đâu có yêu cầu gì nhiều, chỉ cần anh ấy biết quan tâm.
Tôi không nhắn tin trả lời ngay mà đặt điện thoại xuống và tìm vết nứt ở chân tường, nơi con kiến biến mất. Không biết nó đã tìm thấy những bạn kiến khác hay vẫn cô độc. Hay giống tôi, nó không thích bạn kiến khác.
Có lẽ mẹ tôi đã khiến tôi mắc căn bệnh sợ giao tiếp.
Nếu nói là căn bệnh có thể hơi quá. Nhưng từ nhỏ mẹ đã gói gọn thế giới của tôi. Bà không cho tôi nói chuyện với bất cứ ai ngoài giờ học, chỉ vì tôi mắc chứng mộng du. Tình trạng kéo dài cho đến khi tôi trưởng thành, trở thành thói quen. Một người cô độc. Rất ít bạn bè và không thích giao du.
Ngày đầu tiên ra khỏi nhà, tôi định đến những nơi yêu thích như công viên hay hiệu sách.
Tôi không nghĩ mình sẽ đứng xếp hàng trong sảnh chờ của một công ty phát hành sách. Sau khi cuộc họp kết thúc, hoặc tôi sẽ trở thành một người vô gia cư, hoặc kiếm được một hợp đồng và tìm thuê một căn hộ mới.
Tôi cố vuốt chiếc áo sơ mi trắng của Jeremy cho phẳng phiu. Hy vọng trông tôi không quá lố bịch. Hy vọng chiếc áo sơ mi nam thùng thình gấp đôi cỡ người có vẻ là một xu hướng thời trang.
“Áo đẹp đấy”, giọng Jeremy vang lên từ phía sau.
Tôi sửng sốt quay lại.
Có phải anh đi theo tôi?
Đã đến lượt tôi, tôi đưa giấy phép lái xe cho người nhân viên bảo vệ rồi nhìn chiếc áo mới Jeremy đang mặc. “Anh có áo sơ mi dự phòng à?”
“Tôi ở khách sạn gần đây. Tôi mới tạt về thay áo”.
Thì ra anh ở khách sạn. Nếu vậy anh không làm việc ở đây. Và nếu anh không làm việc ở đây, anh không làm trong công ty phát hành sách này. Tôi không muốn anh làm trong ngành xuất bản. Tôi không biết cuộc hẹn sắp tới với ai, và tôi mong nó không liên quan gì đến anh sau những gì chúng tôi đã trải qua. “Có nghĩa là anh không làm ở tòa nhà này?”
Anh rút giấy tờ đưa cho nhân viên bảo vệ. “Không, tôi không làm việc ở đây. Tôi có một cuộc hẹn ở tầng mười bốn”.
“Tôi cũng vậy”.
Một nụ cười thoáng qua môi anh rồi nhanh chóng biến mất. “Có thể chúng ta có cùng điểm đến”. Người bảo vệ trả lại giấy tờ cho anh rồi chỉ chúng tôi hướng thang máy.
“Tôi không biết”, tôi nói. “Tôi không biết gì về cuộc hẹn”. Chúng tôi bước vào thang máy, anh nhấn nút tầng mười bốn và rút cà vạt khỏi túi đeo vào.
Tôi không thể rời mắt khỏi chiếc nhẫn cưới anh đeo.
“Cô có phải là nhà văn không?” anh hỏi.
Tôi gật đầu. “Còn anh?”
“Không. Là vợ tôi”. Anh chỉnh lại cà vạt. “Không biết tôi đã đọc quyển nào của cô chưa?”
“Chắc là không. Không ai đọc sách của tôi”.
Anh khẽ cười. “Không có nhiều tác giả tên Lowen trên thế giới. Tôi chắc chắn sẽ tìm ra sách của cô”.
Tại sao? Anh thực sự muốn đọc sách của tôi ư? Anh bắt đầu bấm điện thoại.
“Tôi không bao giờ ký tên thật”.
Anh tiếp tục bấm điện thoại đến khi cửa thang máy mở. Anh bước ra và quay lại giơ chiếc điện thoại lên. “Cô không dùng bút danh. Cô lấy tên là Lowen Ashleigh và thật trùng hợp, đó chính là người tôi hẹn gặp lúc chín giờ ba mươi”.
Anh nở nụ cười tuyệt đẹp, nhưng tôi không thấy thoải mái chút nào.
Anh đã tra Google về tôi. Và mặc dù cuộc hẹn của tôi lúc chín giờ chứ không phải chín giờ ba mươi, anh dường như có liên quan. Việc chúng tôi tình cờ gặp gỡ trên phố sáng nay thật khó tin. Tuy nhiên khả năng chúng tôi ở cùng một nơi, cùng thời điểm và chứng kiến vụ tai nạn là hoàn toàn có thể vì cả hai có cùng điểm đến.
“Hẹn gặp lại cô sau”.
Tim tôi đập mạnh, mặc dù tôi không biết gì về anh cả.
Tôi mỉm cười với anh trước khi anh rẽ ở hành lang. “Vâng, hẹn gặp lại anh”.
Anh cười. “Tạm biệt”.
Tôi dựa người vào tường.
Corey thình lình xuất hiện khiến tôi giật mình. Anh hôn nhẹ lên má tôi.
“Em đến đúng giờ. Em không bao giờ đúng giờ mà?”
“Đáng lẽ em đến sớm hơn, nhưng vì…” Tôi bỏ dở câu nói. Không cần giải thích gì vì anh ấy không nghe tôi nói mà đi vội theo hướng Jeremy lúc nãy.
“Thực ra cuộc họp lúc chín giờ ba mươi, nhưng anh sợ em trễ nên báo chín giờ”.
Tôi bực tức nhìn anh ấy. Cái quái gì, Corey? Nếu anh ấy báo chín giờ ba mươi chứ không phải chín, tôi sẽ không phải chứng kiến vụ tai nạn trên đường. Tôi sẽ không cần sự giúp đỡ của người lạ.
“Em vào đi”. Corey nhìn tôi.
Tôi nén bực dọc. Tôi thường như vậy trước anh ấy.
Chúng tôi bước vào phòng họp vắng lặng. Corey đóng cửa lại. Tôi ngồi vào đầu bàn, anh ấy ngồi bên cạnh. Tôi cố tỏ thái độ bình thường. Anh ấy không thay đổi, vẫn rất sạch sẽ và chải chuốt với cà vạt, cặp kính màu và nụ cười thường trực trên môi. Luôn trái ngược với tôi.
“Trông anh tệ quá”. Tôi nói vậy vì anh ấy không tệ chút nào. Anh ấy không bao giờ tệ và anh ấy biết điều đó.
“Em có vẻ khỏe và đẹp mê hồn”. Anh ấy nói điều đó vì tôi không bao giờ khỏe và đẹp cả. Tôi luôn có vẻ mệt mỏi và buồn tẻ. Người ta hay nói một người có khuôn mặt cau có, còn tôi hẳn là một khuôn mặt buồn tẻ.
“Mẹ em sao rồi?”
“Bà mất tuần trước”.
Anh ấy bị bất ngờ. Anh ngả mạnh người ra ghế. “Sao em không nói với anh?”
Anh đâu có bận tâm chứ? Tôi nhún vai. “Em tự thu xếp được rồi”.
Tôi đón bà về nhà chăm sóc suốt chín tháng kể từ khi bà chẩn đoán bị ung thư đại trực tràng giai đoạn bốn. Bà mất hôm thứ tư tuần trước sau ba tháng bệnh trở nặng. Tôi ít khi rời khỏi nhà vì phải lo cho bà từ việc ăn uống đến vệ sinh. Từ khi bệnh bà nặng hơn, tôi hoàn toàn không bước chân ra khỏi nhà. Nhờ Wi-Fi và thẻ tín dụng, tất cả mọi thứ được đặt hàng và giao tận nơi.
Manhattan là thiên đường cho những người thích cuộc sống khép kín.
“Em không sao chứ?” Corey hỏi.
Tôi mỉm cười xã giao vì biết sự quan tâm của anh ấy chỉ là hình thức. “Em ổn. Bác sĩ đã tiên liệu”. Không biết anh ấy sẽ phản ứng như thế nào nếu tôi nói thật là mình nhẹ nhõm khi mẹ mất. Mẹ tôi lúc nào cũng khiến tôi cảm thấy mình phạm lỗi.
Corey đi đến chiếc quầy để đồ ăn nhẹ, nước và bình pha cà phê. “Em có đói không? Uống nước nhé?”
“Làm ơn cho em nước”.
Anh lấy hai chai nước và đưa cho tôi một rồi quay về chỗ ngồi. “Em có cần gì không? Edward có thể giúp”.
Edward là luật sư của Corey. Vì ít việc nên Edward thường xử lý luôn những việc linh tinh. Riêng tôi ít khi nhờ vả anh ấy. Năm ngoái khi tôi ký hợp đồng thuê căn hộ hai phòng ngủ mà tôi đang ở, Corey đã cảnh báo rằng tôi sẽ không đủ khả năng chi trả. Nhưng mẹ tôi muốn trị bệnh tại nhà. Không phải nhà dưỡng lão. Không ở trong bệnh viện. Không phải căn hộ một phòng ngủ cũ của tôi. Bà muốn có phòng ngủ riêng.
Bà nói với tôi sau khi bà mất, số tiền còn lại trong tài khoản của bà sẽ đủ bù lại cho tôi trong thời gian tạm dừng việc viết lách để chăm sóc bà. Suốt năm qua chúng tôi sống nhờ vào khoản tạm ứng còn lại từ hợp đồng xuất bản cuối cùng. Nhưng giờ tiền đã hết, và tiền của mẹ tôi thì cũng không có. Đó là một trong những điều cuối cùng bà nói với tôi trước khi ra đi. Tôi sẽ chăm sóc bà bất kể bà có tiền hay không. Bà là mẹ tôi. Việc bà nói dối để tôi chăm sóc bà chứng tỏ chúng tôi không bao giờ thật sự gần gũi nhau.
Tôi nhấp một ngụm nước rồi lắc đầu. “Cảm ơn anh vì lời đề nghị, nhưng em không cần luật sư. Tất cả những gì bà để lại cho em là nợ nần”.
Corey mím môi. Anh ấy biết rõ tình hình tài chính của tôi. Là người đại diện của tôi, anh ấy quản lý mọi khoản tiền nhuận bút của tôi. Anh ấy an ủi, “em sắp có tiền rồi”, như thể tôi không biết mình sẽ không có xu nào trong sáu tháng tới.
“Em biết. Em sẽ ổn thôi”. Tôi không muốn bàn về vấn đề tài chính của mình với Corey. Với bất cứ ai.
Corey nhún vai, chỉnh lại cà vạt. “Hy vọng chúng ta sẽ ký được hợp đồng này”, anh nói.
Tôi mừng vì anh chuyển chủ đề. “Tại sao chúng ta phải trực tiếp gặp nhà xuất bản? Em thích làm việc qua email hơn”.
“Hôm qua họ yêu cầu gặp trực tiếp. Họ nói muốn thảo luận công việc với em và không nói chi tiết qua điện thoại”.
“Em tưởng anh đang thương lượng hợp đồng tiếp với nhà xuất bản trước của em”.
“Sách của em ổn, nhưng em phải đầu tư thời gian công sức để có thể ký được hợp đồng tiếp theo. Em phải tương tác các mạng xã hội, gặp gỡ người đọc, đi quảng bá sách, xây dựng hội người hâm mộ. Nếu chỉ bán sách thôi là chưa đủ trong tình hình thị trường hiện nay”.
Đây là việc tôi đã lo. Hy vọng duy nhất của tôi là hợp đồng được gia hạn. Tiền nhuận bút từ những cuốn sách trước đó không còn nữa. Trong năm qua hầu như tôi không viết gì cả.
“Anh không biết hợp đồng của Pantem là gì và em có đồng ý hay không” Corey nói. “Chúng ta sẽ phải ký thỏa thuận bảo mật trước khi họ đưa ra hợp đồng. Nó làm anh rất thắc mắc. Nhưng nhiều khả năng chúng ta sẽ ký được hợp đồng. Chúng ta rất cần nó”.
Anh ấy nói chúng ta bởi vì anh ấy sẽ nhận được mười lăm phần trăm. Đó là tỉ lệ thỏa thuận giữa đại diện – tác giả. Cái không phải là thỏa thuận giữa người đại diện - tác giả là sáu tháng yêu nhau và hai năm quan hệ sau khi chia tay.
Chúng tôi vẫn tiếp tục quan hệ tình dục vì anh ấy chưa có mối quan hệ nghiêm túc nào khác và tôi cũng vậy. Nó ổn cho đến khi không còn chấp nhận được nữa. Cuộc tình của chúng tôi kết thúc nhanh chóng vì anh ấy yêu người khác.
Người khác đó cũng chính là tôi.
Yêu tác giả của nhân vật trong tiểu thuyết. Nhiều người đồng nhất nhân vật hư cấu trong truyện và tác giả tạo ra nhân vật đó. Ngạc nhiên thay Corey là một trong những người đó dù anh đã làm công việc đại diện lâu năm. Anh đã yêu nữ nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết đầu tiên của tôi, Không Giới Hạn, trước khi gặp tôi. Anh ấy cho rằng tính cách nhân vật cũng là tính cách của tôi, trong khi thực tế hoàn toàn trái ngược.
Sau khi tôi gởi bản thảo Không Giới Hạn, Corey là người duy nhất trả lời. Anh ấy chỉ email vài câu nhưng cũng đủ nhen nhóm lên trong tôi niềm hy vọng.
Tôi đã đọc bản thảo Không Giới Hạn của cô. Tôi rất thích. Nếu cô vẫn cần người đại diện, hãy gọi cho tôi.
Email đến vào sáng thứ năm. Hai tiếng sau chúng tôi nói chuyện qua điện thoại. Sang chiều thứ sáu, chúng tôi gặp nhau uống cà phê và ký hợp đồng.
Đến tối thứ bảy, chúng tôi đã quan hệ với nhau ba lần.
Mối quan hệ đi ngược với những nguyên tắc đạo đức của tôi bắt đầu và kết thúc rất nhanh chóng. Corey sớm nhận ra chúng tôi không hợp nhau vì tôi không giống nhân vật trong truyện một chút nào. Tôi không can trường. Tôi không giản dị. Tôi rất khó tính. Tôi là một thách thức mà anh ấy không thể giải quyết.
Nhưng quan hệ công việc của chúng tôi thì rất tốt đẹp, anh ấy chuyên nghiệp và khách quan. Vì vậy tôi không thay đổi người đại diện sau khi chia tay.
“Trông em hơi mệt”, Corey phá vỡ dòng suy nghĩ của tôi. “Em căng thẳng à?”
Tôi gật đầu cho qua chuyện vì không muốn giải thích. Mới hai tiếng trôi qua từ khi tôi ra đường nhưng thời gian dài như cả thế kỷ. Tôi nhìn bàn tay, cánh tay mình xem còn dính máu không. Không còn, nhưng tôi vẫn cảm nhận được nó. Ngửi thấy nó.
Tôi giấu hai tay dưới gầm bàn. Đáng lẽ tôi không nên đến đây. Tôi không lấy được hợp đồng này. Tôi phải làm bất cứ việc gì khác để kiếm tiền. Và tôi sẽ không còn thời gian viết lách.
Corey rút chiếc khăn khỏi túi lau mồ hôi trán. Anh ấy luôn đổ mồ hôi khi lo lắng. Tôi cũng bồn chồn không kém. “Em sẽ ra hiệu cho anh biết nếu em không muốn ký hợp đồng đó nhé”, anh dặn.
“Cứ để họ nói trước rồi có gì chúng ta xin hội ý sau”.
Corey bấm chiếc bút bi, ngồi thẳng lưng như sắp lâm trận. “Cứ để anh nói chuyện với họ”.
Tôi cũng nghĩ như vậy. Anh ấy lôi cuốn và quyến rũ. Tốt nhất là tôi ngồi yên lắng nghe.
“Em mặc đồ gì kỳ vậy?” Corey ngạc nhiên nhìn áo tôi.
Tôi hoàn toàn quên mất chiếc áo. “Em làm đổ cà phê lên áo nên thay đại cái khác”.
“Áo của ai vậy?”
Tôi nhún vai. “Chắc của anh. Em lấy trong tủ quần áo”.
“Em mặc áo này ra đường ư? Em không có cái nào khác sao?”
“Nó không được thời trang lắm”.
Anh nhăn mặt. “Không”
Anh ấy là một tên khốn. Nhưng rất tuyệt trên giường, như mọi tên khốn khác.
Tôi thở phào nhẹ nhõm khi cửa phòng bật mở và một người phụ nữ bước vào. Theo sau là một người đàn ông lớn tuổi, anh ta theo sát đến nỗi gần như va vào lưng cô ấy khi cô ấy dừng lại.
“Khỉ gió, Barron”, cô ấy càu nhàu.
Tôi cười thầm. Từ giờ anh ta sẽ là Barron khỉ gió.
Jeremy bước vào sau cùng. Không ai chú ý thấy anh khẽ gật đầu với tôi.
Trang phục người phụ nữ đang mặc đẹp hơn bộ đồ đẹp nhất của tôi, mái tóc đen cắt ngắn và son môi quá đỏ. Cô ấy lần lượt bắt tay Corey và tôi trong khi Barron khỉ gió đứng yên quan sát.
“Amanda Thomas”, cô ấy tự giới thiệu. “Tôi là biên tập viên của Pantem Press. Đây là Barron Stephens, luật sư của chúng tôi và Jeremy Crawford, khách hàng của chúng tôi”.
Jeremy và tôi bắt tay nhau, anh làm như chúng tôi không quen và ngồi xuống ghế đối diện. Tôi cố tránh nhìn anh nhưng ánh mắt cứ bị hút về phía đó. Tôi tò mò về anh còn hơn mục đích cuộc họp này.
Amanda rút một tập hồ sơ ra khỏi cặp để trước mặt Corey và tôi.
“Cảm ơn quý vị đã đến gặp chúng tôi”, cô ấy nói. “Tôi sẽ đi thẳng vào vấn đề để khỏi mất thời gian của quý vị. Một trong những tác giả của chúng tôi không thể tiếp tục hợp đồng vì lý do sức khỏe, do đó chúng tôi muốn tìm một tác giả cùng thể loại để viết tiếp ba tập cuối trong sê ri sách của cô ấy”.
Tôi liếc sang Jeremy nhưng anh không có biểu hiện gì để tôi có thể đoán ra vai trò của anh trong cuộc họp này.
“Tác giả là ai?” Corey hỏi.
“Quý vị phải ký vào thỏa thuận bảo mật trước khi chúng tôi đi vào chi tiết. Chúng tôi không muốn tiết lộ với giới truyền thông”.
“Đồng ý”, Corey nói.
Chúng tôi xem qua thỏa thuận và ký tên. Corey đưa lại cho Amanda.
“Đó là Verity Crawford”, cô ấy nói. “Chắc quý vị không lạ gì cô ấy”.
Corey sững người khi nghe đến tên Verity. Tất nhiên chúng tôi biết sách của cô ấy. Tất cả mọi người đều biết. Tôi liếc nhìn Jeremy. Cô ấy là vợ của anh sao? Cô ấy cùng họ với anh. Anh đã nói vợ anh là nhà văn.
“Dĩ nhiên chúng tôi biết cô ấy”, Corey nói.
“Sê ri sách của Verity rất nổi tiếng và chúng tôi muốn tiếp tục đến tập cuối”, Amanda nói. “Chúng tôi muốn tìm một tác giả viết tiếp bộ sách, đi giới thiệu sách, thực hiện các thông cáo báo chí và các hoạt động khác thay thế Verity. Chúng tôi sẽ đăng báo giới thiệu đồng tác giả với Verity”.
Đi giới thiệu sách? Thông cáo báo chí?
Corey nhìn tôi chờ đợi. Anh ấy biết tôi không muốn làm những việc này. Nhiều tác giả thoải mái khi tương tác với độc giả nhưng tôi thì khác. Tôi sợ một khi gặp tôi, họ sẽ không đọc sách của tôi nữa. Tôi chỉ mới tổ chức một buổi ký tặng sách, và tôi mất ngủ cả tuần trước đó vì sợ mình không biết nói gì với độc giả. Ngay hôm sau tôi nhận được một email mắng tôi là kẻ đần độn nhưng tưởng mình giỏi nhất, và rằng cô ta sẽ không bao giờ đọc sách của tôi nữa.
Đó là lý do tôi chỉ thích ở nhà viết sách.
Corey mở tập hồ sơ Amanda đưa. “Số tiền trả cho ba tập cuối là bao nhiêu?”
Barron khỉ gió đằng hắng. “Các điều khoản trong hợp đồng với nhà xuất bản của Verity vẫn giữ nguyên và không tiết lộ. Verity sẽ nhận tất cả tiền bản quyền. Khách hàng của chúng tôi, Jeremy Crawford, sẽ trả một khoản tiền cố định là bảy mươi lăm ngàn đô la cho mỗi tập sách”.
Bụng tôi thắt lại khi nghe đến số tiền, nhưng liền đó là nỗi thất vọng trước nhiệm vụ bất khả thi. Một nhà văn không tên tuổi không thể bỗng chốc trở thành đồng tác giả với một người nổi tiếng.
Corey bình thản khoanh tay trước bàn. “Tôi nghĩ chúng ta cần thương lượng số tiền”.
Tôi cố ra hiệu để Corey chú ý. Tôi không muốn anh ấy đàm phán nữa. Tôi không thể viết tiếp bộ sách.
Barron khỉ gió ngồi thẳng lên. “Verity Crawford đã mất mười ba năm để làm nên tên tuổi. Khoản tiền cho ba tập sách cuối là bảy mươi lăm ngàn mỗi tập, tổng cộng là hai trăm hai mươi lăm ngàn đô la là mức giá hợp lý”.
Corey thả rơi cây bút xuống bàn, ngả người ra ghế. “Thời hạn hoàn thành như thế nào?”
“Hợp đồng đã bị trễ, vì vậy chúng tôi muốn có tập đầu tiên sáu tháng sau khi ký hợp đồng”.
Tôi nhìn chằm chằm vào vệt son đỏ lem trên răng cô ấy.
“Hai tập còn lại sẽ thảo luận sau. Tốt nhất là hợp đồng hoàn thành trong hai mươi bốn tháng tới”.
Tôi biết bài toán Corey đang nhẩm tính trong đầu. Phần anh là mười lăm phần trăm, gần ba mươi bốn ngàn đô la vì là người đại diện của tôi. Một nửa trả cho thuế. Tôi chỉ còn dưới một trăm ngàn. Năm mươi ngàn mỗi năm.
Nhiều gấp đôi số tiền mà tôi nhận được từ trước đến giờ, nhưng chưa đủ để tôi đồng ý gắn mình dưới một cái bóng quá lớn. Tôi phải từ chối ngay. Khi Amanda rút bản hợp đồng ra, tôi hắng giọng lên tiếng.
“Tôi rất cảm ơn vì được tin tưởng”. Tôi nhìn Jeremy. “Nhưng tôi nghĩ có nhiều tác giả khác phù hợp hơn tôi”.
Jeremy không nói gì, chỉ nhìn tôi dò hỏi. Tôi đứng dậy tỏ ý chấm dứt cuộc họp. Ngày đầu tiên xuất hành của tôi như vậy là không may mắn, tôi cần về nhà và đi tắm.
“Tôi muốn nói chuyện riêng với cô ấy một lát”, Corey nói và đứng dậy.
Amanda gật đầu đứng dậy đóng cặp lại. “Chúng tôi ra ngoài”, cô ấy nói. “Chi tiết hợp đồng trong hồ sơ. Chúng tôi có hai tác giả khác thay thế trong trường hợp cô không đồng ý, cô hãy suy nghĩ và trả lời trước chiều mai”.
Jeremy vẫn ngồi yên. Anh chưa nói gì từ đầu đến giờ. Amanda bắt tay tôi. “Nếu cô cần gì cứ liên hệ với tôi. Tôi rất sẵn lòng”.
“Cảm ơn cô”, tôi nói. Amanda và Barron khỉ gió ra khỏi phòng. Corey nhìn Jeremy chờ đợi.
“Chúng ta nói chuyện một chút được không?” Jeremy hỏi tôi. Anh nhìn Corey hàm ý yêu cầu hơn là xin phép.
Corey ngạc nhiên hết nhìn Jeremy rồi nhìn tôi. Anh ấy muốn tôi từ chối nhưng không thấy tôi nói gì nên đành lên tiếng “Em thấy sao?”
Tôi không muốn gì hơn là được ở một mình với Jeremy. Tôi muốn tất cả bọn họ ra ngoài, đặc biệt là Corey, vì tôi có rất nhiều câu hỏi dành cho Jeremy. Về vợ anh, vì sao họ liên hệ với tôi, vì sao cô ấy không thể hoàn thành sê ri sách.
“Được ạ”, tôi nói với Corey.
Anh ấy không giấu được sự bực bội, quai hàm bạnh ra, nhưng cuối cùng anh kìm lại và đi ra ngoài.
Chỉ còn lại Jeremy và tôi.
Thêm một lần nữa.
Tính luôn lần trong thang máy, đây là lần thứ ba chúng tôi ở cùng nhau. Nhưng lần này tôi bối rối hơn cả. Chỉ mình tôi. Jeremy trông cực kỳ bình tĩnh.
Jeremy ngả người vào ghế. “Lạy chúa”, anh lẩm bẩm. “Họp với nhà xuất bản lúc nào cũng mệt như vậy ư?”
Tôi khẽ cười. “Tôi không biết. Tôi thường làm việc với họ qua email”.
“Tôi biết lý do”. Anh đứng dậy lấy một chai nước. Không biết có phải vì đang ngồi nên tôi thấy anh rất cao, trước đó tôi không hề có cảm giác mình nhỏ bé trước anh. Việc anh là chồng Verity Crawford khiến tôi cảm thấy e ngại còn hơn cả khi tôi đứng trước mặt anh với váy và áo ngực.
Anh đứng dựa vào quầy, chân bắt chéo. “Cô không sao chứ? Cô đã không có nhiều thời gian chuẩn bị cho cuộc họp này”.
“Anh cũng vậy thôi”.
“Tôi không sao. Chắc cô có rất nhiều câu hỏi cho tôi”.
“Hàng tá”, tôi thừa nhận.
“Câu hỏi đầu tiên là gì?”
“Tại sao vợ anh không thể hoàn thành sê ri sách?”
“Cô ấy bị tai nạn xe hơi”, giọng anh đều đều không cảm xúc.
“Tôi rất tiếc. Tôi không hề nghe tin gì hết”. Tôi đổi tư thế ngồi, không biết nói gì khác hơn.
“Lúc đầu không ai nghĩ phải nhờ người viết tiếp sê ri sách. Chúng tôi đều hy vọng cô ấy bình phục. Nhưng.. “, anh ngừng lại. “Giờ chúng ta đang bàn về chuyện này”.
Giọng anh u uất đau khổ, do vợ anh bị tai nạn, do con gái anh mất. Gánh nặng anh mang quá lớn. “Tôi rất tiếc”.
Anh gật đầu, không nói gì thêm và quay về chỗ ngồi. Tôi không muốn lãng phí thêm thời gian của anh. “Tôi rất cảm ơn về lời đề nghị, Jeremy, nhưng thành thật mà nói, tôi không thể làm được. Tôi không có khả năng. Tôi không hiểu vì sao nhà xuất bản lại chọn tôi”.
“Không Giới Hạn”, Jeremy nói.
Một trong những cuốn sách của tôi.
“Verity rất thích nó”.
“Vợ anh đọc sách của tôi ư?”
“Cô ấy nói cô sẽ nổi tiếng. Tôi đã nêu tên cô với nhà xuất bản vì Verity cho rằng phong cách viết của hai người khá giống nhau. Nếu phải nhờ một tác giả khác tiếp tục sê ri sách, tốt nhất đó là người mà cô ấy muốn”.
Tôi lắc đầu. “Tôi rất vinh hạnh, nhưng tôi không thể”.
Jeremy im lặng quan sát tôi, có lẽ anh lấy làm lạ tại sao tôi không phản ứng như những người khác khi đứng trước một cơ hội lớn như vậy. Tôi không thích vòng vo với anh.
Jeremy chống tay lên bàn đứng dậy. Tôi nghĩ cuộc họp kết thúc và cũng đứng lên, nhưng Jeremy không đi ra cửa. Anh đi đến bức tường trang trí rất nhiều bằng khen đóng khung, vì vậy tôi lại ngồi xuống. Anh lướt ngón tay trên một cái và tôi nhận ra đó là giải thưởng của vợ anh.
“Cô có biết có những người luôn gặp phải bi kịch không?”, anh hỏi.
Tôi lắc đầu.
“Tôi nghĩ Verity là một trường hợp. Sau khi các con chúng tôi mất, cô ấy đã nói cuộc đời chúng tôi là chuỗi bi kịch. Cái sau nối tiếp cái trước”.
Tôi cố hiểu những lời anh vừa nói. Anh đã nói rằng anh mất một đứa con, nhưng bây giờ anh dùng số nhiều. “Các con ư?”
Anh thở dài. “Vâng. Sinh đôi. Chúng tôi mất Chastin sáu tháng trước khi Harper qua đời. Mọi việc…”. Anh không còn giữ được vẻ trầm tĩnh. Anh đưa tay ôm mặt, quay lại ghế ngồi. “Nhiều gia đình may mắn không phải trải qua một bi kịch nào. Nhưng chúng tôi lại liên tiếp đối mặt với những bi kịch. Mọi việc ngày càng tệ hơn”.
Anh vừa xoay chai nước trên bàn theo vòng tròn vừa suy nghĩ mông lung. Có lẽ mục đích anh ở lại trong phòng với tôi không phải để làm tôi đổi ý định ký hợp đồng. Anh không muốn ngồi đó nghe mọi người bàn về những việc liên quan đến vợ mình. Anh chỉ muốn một mình. Ở cùng tôi cũng giống như ở một mình.
Anh cô đơn. Tôi nhớ lại người hàng xóm trước đây.
“Tôi lớn lên ở Richmon”, tôi nói. “Người hàng xóm của tôi có ba người thân mất trong vòng hai năm. Người con trai mất trong chiến trận. Sáu tháng sau vợ ông ấy qua đời vì ung thư. Rồi con gái ông mất vì tai nạn xe hơi”.
Jeremy ngừng quay chai nước. “Bây giờ ông ấy ở đâu?”
Tôi cứng họng không biết phải trả lời anh như thế nào.
Ông ấy không chịu đựng nổi và tự sát vài tháng sau khi con gái ông mất, nhưng nếu nói điều đó với Jeremy thì thật tàn nhẫn.
“Ông ấy vẫn sống ở thị trấn, đã tái hôn, có thêm vài đứa con và có cháu”.
Biểu hiện của Jeremy khiến tôi nghĩ anh biết tôi nói dối, nhưng anh vẫn tỏ vẻ biết ơn.
“Cô phải đến xem phòng làm việc của Verity. Cô ấy giữ nhiều ghi chép, những thứ mà tôi không bao giờ hiểu nổi”.
Tôi lắc đầu. Không lẽ anh vẫn nghĩ tôi đồng ý? “Jeremy, tôi đã nói với anh là tôi không thể…”
“Tay luật sư đã ép giá cô. Hãy nói với người đại diện của cô yêu cầu nửa triệu. Và không họp báo, dùng bút danh và không tiết lộ thông tin. Cô không cần làm những gì cô không muốn”.
Tôi muốn thú thật với anh là tôi chỉ muốn che giấu sự vụng về của mình, nhưng anh đã đi ra cửa.
“Chúng tôi sống ở Vermont”, anh tiếp tục. “Tôi sẽ báo cho cô địa chỉ sau khi cô ký hợp đồng. Cô muốn đến xem phòng làm việc của cô ấy lúc nào cũng được”.
Anh để tay lên tay nắm cửa. Tôi muốn phản đối nhưng miệng chỉ thốt ra được mỗi một từ “Vâng”.
Anh định nói thêm gì đó nhưng thôi. “Tốt rồi”.
Anh mở cửa đi ra, Corey đang đứng đợi bên ngoài lập tức vào phòng và đóng cửa.
Tôi bối rối nhìn xuống bàn. Số tiền quá lớn cho công việc mà tôi không chắc có thể làm được. Nửa triệu đô la. Dùng bút danh, không đi quảng bá sách, không thông cáo báo chí. Tại sao tôi có quá nhiều thuận lợi như vậy?
“Anh không thích anh ta”, Corey ngồi phịch xuống ghế. “Anh ta nói gì với em?”
“Anh ấy nói họ ép giá và nói chúng ta yêu cầu nửa triệu và không công khai”.
Tôi nhìn lên đúng lúc miệng Corey há hốc. Anh vớ lấy chai nước của tôi uống một ngụm. “Chết tiệt”.