← Quay lại trang sách

Trận Ban Mê Thuột mở màn

Diễn tiến Trận Ban Mê Thuột thì xin được trích từ lời kể trong bài “ Nhìn lại Trận Ban Mê Thuột” của chính Đại Tá Tỉnh Trưởng Nguyễn Trọng Luật, người trong cuộc, hiện diện tại chỗ.

…..

Khoảng 2 giờ sáng ngày 10 tháng Ba 1975, khi Ban Mê Thuột còn trong giấc điệp, bỗng bị đánh thức dậy bằng tiếng pháo kích inh tai, rợn óc của Cộng quân. Tôi rất bình tĩnh vì đã nếm mùi hỏa tiễn của Cộng quân ở những trận đánh trước Tết Mậu Thân tại Kon Tum, Quãng Ngãi, Đà Nẵng và cả trận đánh Hạ Lào, v.v… Từ lầu hai tôi chạy xuống hầm chỉ huy mà những vị Tiểu Khu Trưởng tiền nhiệm đã xây cất. Đây là một hầm rất kiên cố, làm bằng bê tông cốt sắt, có thể chống được pháo kích. Trong hầm trang bị đầy đủ máy móc truyền tin để có thể liên lạc với các đơn vị trực thuộc cũng như liên lạc với cấp trên, hay cấp trung ương rất dễ dàng. Tôi liên lạc ngay với Thiếu Tá Hy, Trưởng Phòng 3 Tiểu Khu, dưới hầm Trung Tâm Hành Quân (TOC) của Tiểu Khu:

Pháo kích từ hướng nào? Dạ thưa, bắn từ phía Tây tới. Bắn vào vị trí nào? Trình Đại Tá, bắn vào Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu, Đài Truyền Tin ở sân bay L-19, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 BB và kho đạn Mai Hắc Đế. Anh hãy gọi ngay Pháo Binh của mình cũng như Pháo binh Sư Đoàn 23 phản pháo.

Tiếng pháo kích vang rền thị xã Ban Mê Thuột cho tới 4 giờ sáng. Chúng dùng chiến thuật tiền pháo, hậu xung và tấn công kho đạn Mai Hắc Đế ở phía Tây bằng mũi dùi thật mãnh liệt. Đơn vị đồn trú đã chống trả một cách anh dũng và kho đạn vẫn vững vàng. Về phía Bắc, đài truyền tin của Không quân cũng bị tấn công.

Với chiến thuật biển người, và đánh sáp lá cà, chỉ cần nửa tiếng đồng hồ sau, Cộng quân đã tiến tới sát miệng hầm và tung lựu đạn vào miệng hầm. Một số sĩ quan và binh sĩ tử thương và bị thương. Và chỉ 15 phút sau, TOC/TK đã báo cáo với tôi, đài truyền tin đã lọt vào tay giặc.

Về phía trại Mai Hắc Đế, với những tay súng can trường đã bẻ gẫy nhiều đợt tấn quân của Cộng quân. Khoảng 5 giờ sáng, TOC/TK báo cáo Đại Úy Chỉ Huy Trưởng kho đạn (tôi quên tên) bị thương nặng. Kho đạn như rắn mất đầu và chỉ cầm cự đến 5 giờ 30, kho đạn bị tràn ngập. Như vậy mặt trận về phía Bắc và phía Tây đã bỏ ngõ, bây giờ chỉ còn trông cậy vào những đơn vị phía Nam và Đông.

Đạn pháo kích 130 ly vẫn rót đều vào thị xã. Lý do dễ hiểu là Pháo Binh của ta ở phi trường Phụng Dực phản pháo với đạn 105 ly đâu có tầm xa như đạn 130 ly, đang đặt tuốt ở phía Tây.Vì vậy dự phản pháo trở nên vôvọng, không thể khóa họng những khẩu đại pháo của địch. Nhất là Pháo binh ta không có L-19 hướng dẫn, chỉ điểm, điều chỉnh tác xạ cho chính xác.

Đến 7 giờ sáng, địch ngưng pháo kích và cũng ngay lúc này Thiếu Tá Trưởng Ty Cảnh Sát Darlac báo cáo thẳng với tôi:

– Thưa Đại Tá, chiến xa Cộng Sản đã tiến vào thị xã và hiện đang bố trí chung quanh Nhà Thờ Công Giáo thị xã, nằm ngay trung tâm thành phố.

Lúc bấy giờ, vì Tiểu Khu nằm dưới hệ thống chỉ huy của Sư Đoàn 23 và để tiện phối hợp, bàn bạc kế hoạch chống trả nhanh chóng. Tôi liền báo cáo và xin được qua ở chung với Đại Tá Vũ Thế Quang tại Trung Tâm Hành Quân Sư Đoàn 23 BB. Tướng Phú chấp nhận.

Mối lo ngại lớn lao của Đại Tá Quang và tôi là chiến xa Cộng Sản đã lọt vào thị xã. Với kinh nghiệm của một Sĩ Quan Kỵ Binh, tôi hiểu rất rõ hỏa lực tấn công của những con ngựa sắt này.

Tia hy vọng tới, khi trên bầu trời Ban Mê Thuột đã xuất hiện L-19 của Quân Đoàn II gửi tới. Những chiếc phản lực cơ đã vần vũ trong vùng giao tranh để yểm trợ Tiểu Khu Darlac và Sư Đoàn 23 BB. Tinh thần chiến đấu của quân cán chính lên rất cao.Nhưng đoàn chiến xa Cộng Sản từ hướng Bắc tiến về phía Nam đã bị chận lại. Sự tiến quân của Cộng Sản trở nên rất chậm chạp.

9 giờ, tin vui đem tới: Ta hạ được 2 chiến xa T 54 địch và hiện đang bốc cháy trước Câu Lạc Bộ Sĩ Quan trên đường Thống Nhất. Sự chênh lệch về lực lượng của ta và địch đã quá rõ. Địa Phương Quân phải so tài với quân chính quy Việt Cộng, với sự yểm trợ của chiến xa và pháo binh. Còn bên ta, đội pháo binh tại Phụng Dực, cũng như phi pháo không thể yểm trợ vì dân chúng chưa được di tản. Cộng thêm, hỏa lực phòng không địch rất dày đặc, làm phản lực cơ A-37 của ta không thể xuống thấp để thả bom cho chính xác được.

12 giờ 45, Thiếu Tá Hy, Trưởng Phòng 3 Tiểu Khu báo cáo:

– Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu đã bị pháo kích nặng nề. Một trái bom đã đánh trúng hầm TOC/TK làm nhiều người chết và bị thương.Trong số đó có Trung Úy Năm, Trưởng Phòng 5 Tiểu Khu đã đền nợ nước. Hệ thống và máy truyền tin chỉ huy đã hư hại nặng.

Thiếu Tá Hy xin phép được di chuyển Bộ Tham Mưu ra khỏi vị trí. Tôi chấp thuận ngay.

13 giờ 30, Thiếu Tá Hy báo cáo: Địch quân đã tập trung bắn vào Bộ Chỉ Huy, sau đó chiến xa và bộ binh tràn ngập vào hệ thống phòng thủ.

14 giờ, BCH/TK/Darlac coi như thất thủ hoàn toàn. Tôi liền báo cáo cho Tướng Phú. Tướng Phú ra lệnh cho trực thăng vận Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân xuống Ban Mê Thuột để tái chiếm BCH/TK/Darlac.

Mãi đến 16 giờ chiều tôi mới nhận được tin của Quân Đoàn II rằng LĐ 21 BĐQ đang được trực thăng vận xuống Ban Mê Thuột để chiếm lại Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu.

17 giờ, đoàn trực thăng đã đến gần thị xã Ban Mê Thuột nhưng không đáp được vì phòng không Cộng Sản bắn quá rát. Mãi đến 18 giờ Quân Đoàn II mới quyết định cho thả Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân xuống Bộ Chỉ Huy Buôn Hô, rồi đi bộ tiến vào thị xã Ban Mê Thuột.

Tôi liên lạc với Trung Tá Dậu, Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân, hối thúc Trung Tá Dậu phải cho quân tiến nhanh vào thị xã để tái chiếm lại Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu. Mãi đến 11 giờ khuya (23 giờ), Trung Tá Dậu cho tôi biết rằng đã tới ven thị xã Ban Mê Thuột mà không tiến vào được vì bị VC chặn đánh. Tướng Phú ra lệnh cho Trung Tá Dậu, với bất cứ giá nào đêm nay Liên Đoàn phải tái chiếm Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu.

Sau khi Việt Cộng chiếm được Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Darlac là tiếng súng Pháo binh cũng như súng trường đều im lặng ở khắp mọi nơi. Tôi báo cáo lên Tướng Phú kết quả trong ngày là Tiểu Khu bắn cháy 7 chiến xa T-54 CS và rất nhiều xác VC. Tướng Phú rất vui, ngợi khen Tiểu Khu Darlac. Tôi theo dõi cuộc tiến quân của Liên Đoàn 21 BĐQ từng phút. Cứ 15 đến 20 phút là tôi liên lạc với Trung Tá Dậu, hỏi coi đã tiến đến đâu rồi. Vẫn những câu trả lời ngắn gọn:

– Đang tiến, nhưng gặp nhiều ổ kháng cự.

Ở trong hầm TOC/Sư Đoàn 23 BB suốt đêm, tôi và Đại Tá Vũ Thế Quang không nghe một tiếng súng nổ nào của địch và bạn cả. Tôi ra lệnh cho ông Phó Tỉnh Trưởng Nguyễn Ngọc Vy và Trung Úy Dzi hiện là Tùy Viên của tôi, nhưng trước là Sĩ Quan Chiến Tranh Chính Trị của Tiểu Khu, viết bài kêu gọi dân chúng yên tâm, ngày mai Quân Đoàn II sẽ chiếm lại Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu. Tôi đọc, ghi vào băng và phát ra cho dân trong thị xã Ban Mê Thuột nghe lúc 1 giờ sáng ngày 11/3/1975.

Đúng 7 giờ sáng ngày 11/3/1975. Cộng Sản Bắc Việt bắt đầu nã đạn Pháo Binh vào Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 BB, chiếc xe Jeep của tôi đậu gần TOC cũng bị trúng pháo nổ tung ra.Tôi đoán chắc rằng Cộng Sản Bắc Việt đang cho Pháo binh bắn vào vị trí Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 BB để chuẩn bị cho Chiến xa và Bộ binh của chúng tấn công. Tôi bèn nói với Đại Tá Vũ Thế Quang:

– Lúc này là lúc nguy ngập, sắp cận chiến, nếu không có cấp chỉ huy đứng cạnh ngay binh sĩ để chỉ huy, thì binh sĩ sẽ bỏ chạy ngay khi địch quân xung phong.

Đại Tá Quang đồng ý. Tôi nói với Đại Tá Quang:

– Vì ở trước cổng Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn có 1 chiếc M-113, nên để tôi trấn giữ mặt đó, còn Đại Tá Quang thì trấn giữ phía Tây Nam.

Lúc này khoảng 7 giờ 30 sáng, tôi liền đi thẳng ra cửa Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn, đến chiếc Thiết Vận Xa M-113 đang bố trí tại cổng, dưới các loạt pháo kích 130 ly của Cộng Sản gây nên một vùng khói lửa mịt mù. Tôi nhảy lên trên chiếc Thiết Vận Xa để quan sát thì thấy ngay ngoài cổng, cách độ 300 thước, đầy chiến xa T-54 đã bao vây xung quanh Bộ Tư Lệnh. Đồng thời trong lúc này, Trung Úy Hoành đặc trách phòng thủ tư dinh Tỉnh Trưởng với một Trung Đội Địa Phương Quân, báo cáo tư dinh đang bị chiến xa tấn công và bắn trực xạ vào lầu tư dinh, đã bị sụp đổ. Trung Đội phòng thủ đã hạ được 2 chiến xa bằng súng M 72. Tôi động viên tinh thần, hết sức khen ngợi Trung Úy Hoành cố gắng chống trả.

Tôi cũng biết Việt Cộng tấn công xong tư dinh là sẽ tấn công Sư Đoàn 23 BB. Các chiến xa T-54 đậu xung quanh Bộ Tư Lệnh ngạo nghễ khinh đối phương, không cần phải ẩn núp, ngụy trang chi cả, vì chúng biết bên ta không có một chiến xa nào để đương đầu, hay có thể tiêu diệt chiến xa của chúng. Trung Úy Hoành báo cáo chiến xa Cộng Sản đã ủi sập cổng tư dinh và tấn công vào phía trước.Và báo cáo có một số bị tử thương và bị thương, không thể chống giữ với đợt tấn công bằng chiến xa của địch, nên binh sĩ rất nao núng và xin phép tôi được rút khỏi tư dinh.Tôi chấp thuận.

Trong khi chiến xa CS tấn công, với đại bác trên chiến xa bắn trực xạ vào lầu tư dinh, 3 đứa con trai tôi vẫn còn ở trên lầu. Có một đứa con trai út bị sức ép viên đạn đại bác nổ tung, nó bị hơi đẩy té từ lầu lăn xuống thang, rớt xuống đất, bị thương ở ngực và chân.

Trung Úy Hoành hướng dẫn Trung Đội Địa Phương Quân còn lại thoát ra ngoài. Còn 3 đứa con trai tôi thì được toán phục dịch trong nhà dẫn đi theo Trung Đội.

Tôi biết sau khi thanh toán tư dinh, thì bọn CS sẽ cho lệnh xung phong vào Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 BB. Giờ phút nguy ngập sắp đến, tôi sợ binh sĩ bỏ chạy, liền nhảy xuống M-113 đi một vòng theo hàng rào phòng thủ để kiểm soát binh sĩ và nhất là với mục đích của tôi là cho binh sĩ thấy mặt cấp chỉ huy của mình cùng trực tiếp tham dự vào trận đánh, nên không dám bỏ chạy. Tôi nói với binh sĩ phải can đảm chống giữ Bộ Tư Lệnh vì lực lượng Quân Đoàn II sắp tới. Kiểm soát và ra lệnh xong, tôi liền nhanh chân trở lại chiếc M-113 nhảy phóc lên trên, quan sát lại thì thấy các chiến xa T-54 vẫn còn ở vị trí cũ.

Những phút cuối của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 BB

Khoảng 10 giờ sáng ngày 11/3/1975, pháo địch đã im tiếng. Nếu ai đã ở trong binh nghiệp đều hiểu rõ tâm trạng của những giây phút im lặng này. Nó hoang mang và lo sợ hơn nhiều khi bên tai mình có tiếng súng nổ. Người ta cho là say súng. Mà thật vậy, khi đã làm quen với chiến trận, việc nghe thấy tiếng nổ là mọi người quên chính mình và chỉ còn một cách duy nhất là chiến đấu. Chiến đấu để sống còn và ít ai còn để ý đến thần chết lảng vãng quanh mình. Tôi lại nhảy lên pháo tháp để quan sát và thấy những chuyến xe đang chuyển bánh. Tôi nhảy xuống và la lớn:

– Sẵn sàng ứng chiến.

Tôi đứng cạnh trưởng xa và căn dặn:

Chỉ được bắn khi chúng tới gần 100 mét nhé.

Các anh em đều răm rắp tuân lệnh và chờ đợi khúc phim nghẹt thở bắt đầu.

Chiếc chiến xa địch đi đầu chầm chậm tiến thẳng vào chiếc Thiết Vận Xa M-113. may mà ngụy trang khéo léo nên chúng không thấy. Tôi mừng quá và nói thầm trong bụng “Mầy sẽ chết con ạ”.

Khói đen từ ống thoát tuôn ra mịt mù, chiến xa T-54 địch, chiếc đầu chầm chậm tiến vào. Chúng vẫn chưa biết có chiếc M-113 đang chờ đón nó vào cõi tử vì được ngụy trang kỹ càng như đã nói ở trên.

Tiếng máy kêu ầm ầm và các chiến xa đâm thẳng vào cổng Bộ Tư Lệnh. Những con cua sắt ì ạch tiến gần cổng 250 mét, rồi 200 mét, rồi 100 mét. Thần kinh tôi như giãn ra. Tất cả anh em chúng tôi hồi hộp, giờ sinh tử bắt đầu. Tôi hét lớn “Bắn”.

Thay vì phải nghe tiếng nổ thật lớn của viên đạn vút ra khỏi nòng súng, thì trái lại cây súng chỉ cho chúng tôi nghe một tiếng khô khan, lãng xẹt: “Cóc”.

Trong khi mắt mọi người và tôi dán chặt vào những con cua sắt. Tôi gào lên:

Gì thế? Gì thế?

Xạ thủ trả lời:

Trở ngại tác xạ, Đại Tá.! Mở “Culass” ra xem. Trình Đại Tá, “Percuteur” bị gãy! Có“Percuteur” thay thế không? Thưa ….Không!

Tiếng “ Thưa Không” làm tôi toát mồ hôi, vì đây là hy vọng cuối cùng củ sự cầm cự với Cộng quân để chờ viện binh tới. Cây súng đại bác 106 ly không giựt là phương tiện duy nhất chống trả với T-54 của địch mà thôi. Các loại súng khác chỉ là trò đùa với những con ngựa sắt này.

Bây giờ, bây giờ … tiêu diệt chiến xa địch bằng phương tiện gì đây? Tôi biết tôi phải rất bình tĩnh mới cứu được anh em và chính mình. Trong phút chốc, tôi trấn tĩnh ngay. À phải rồi, chúng ta còn những oanh tạc cơ bay lượn trên không. Những phản lực cơ A-37 sẽ xơi tái chúng một cách dễ dàng. Cũng nên biết là từ ngày hôm qua cho đến sáng nay, phi cơ của ta chỉ có thể thả bom vào các mục tiêu xa ở ngoài thị xã. Trong thị xã còn 50 ngàn thường dân chưa được di tản, vì vậy tôi đã trình với Tướng Phú về việc này và Tướng Phú đã chấp nhận không oanh tạc vào khu đông dân cư. Cũng cần ghi nhận, từ trước đến giờ, chưa bao giờ thị xã bị pháo kích của Cộng Sản hoặc tấn công nên không gia đình nào có hầm chống pháo kích hoặt đào hầm trú ẩn….Nay thì chiến xa đã lọt vào thị xã thì các oanh tạc cơ cũng không có cơ hội nhào xuống thấp để đánh trúng mục tiêu vì phòng không của Cộng quân quá mạnh. Cứ mỗi lần máy bay quan sát L-19 hay oanh tạc cơ bay thấp một chút là phòng không địch bắn lên trời như cảnh đốt pháo bông trong ngày Quốc Khánh.

Tôi liên lạc ngay với L-19 và nói chấp nhận sự nguy hiểm để dùng phản lực cơ A-37 dội bom thẳng vào các chiến xa đang tiến vào Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 BB, và như vậy mới chận đứng cuộc xung phong của Cộng Sản. Trong lúc chờ đợi phi cơ ta làm thịt mấy con “cua sắt”, tôi đi lui đi tới kế cận các chiến sĩ đang ghì tay súng chống trả với địch quân. Thình lình mọi người nghe một tiếng nổ “Ầm” thật khủng khiếp, vang dội cả một góc trời. Cát, đá, bụi tung lên cao hàng cả trăm thước. Thôi hỡi ôi! Trung Tâm Hành Quân Sư Đoàn (TOC), nơi đầu não của mặt trận Ban Mê Thuột để chống lại địch quân đã bị Không quân ta đánh trúng.

Trung Tâm Hành Quân bị sập và các phương tiện truyền tin thiết trí trong TOC đều tiêu tùng theo mây khói. Một số lớn sĩ quan, binh sĩ ở trong Trung Tâm Hành Quân bị chết, bị thương. Ai cũng biết trong trận mạc, truyền tin là huyết mạch chính. Bây giờ không còn để liên lạc với cấp trên và thông tin cho cấp dưới nữa. Không một phút suy nghĩ, tôi chạy về phía sau TOC để gặp Đại Tá Quang. Tôi nói nhanh với Đại Tá Quang nhận định của tôi:

– Chúng ta không thể cố thủ được nữa vì đầu não của chúng ta là Trung Tâm Hành Quân nay đã sụp đổ. Không có truyền tin, không có chiến xa thì làm sao chận đứng được những chiếc T-54 và bộ binh đang tiến vào căn cứ. Trong khi đó chúng ta lại không có viện binh. Tôi đề nghị chúng ta rút ra khỏi vị trí phòng thủ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn ngay để bảo toàn lực lượng còn lại.

Đại Tá Quang đồng ý và ra lệnh rút quân. Chúng tôi vọt ra khỏi hàng rào và hướng về hướng Tây tức “Suối Bà Hoàng”cách Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 250 thước …

Cùng ngày, Đại Tá Nguyễn Trọng Luật và Đại Tá Vũ Thế Quang mang hơn 100 quân còn lại rút được về “Suối Bà Hoàng”, tại đây họ chia thành 2 nhóm tìm đường về Nha Trang. Cả hai vị sau đó bị Cộng quân bắt.

Để theo dõi tiếp diễn tiến sau đó của Trận Ban Mê Thuột, tác giả xin mời quý vị đọc một đoạn trích trong bài kể về trận này của Nhà Báo Lữ Giang:

Số phận của Liên Đoàn 21 BĐQ:

Khi Cộng quân khởi đầu tấn công Ban Mê Thuột, Tướng Phú chỉ ra lệnh cho Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân do Trung Tá Lê Quý Dậu chỉ huy, từ Buôn Hô tiến bằng đường bộ về Ban Mê Thuột – cách Buôn Hô khoảng 30 cây số.

Lúc 17 giờ chiều ngày 10.3.1975, Đại Tá Quang đã bắt liên lạc được với Liên Đoàn 21 đang tiến vào thành phố. Ông liền ra lệnh Trung Tá Dậu cho Tiểu Đoàn 72 chiếm lại Tiểu Khu và Tiểu Đoàn 96 lấy lại Kho đạn Mai Hắc Đế. Địa Phương Quân, Nghĩa Quân và Cảnh sát Dã Chiến đang quần thảo với địch để tranh từng tấc đất.

Liên Đoàn 21 đã vào được thành phố và lập được một số chiến công, nhưng khi cuộc giao chiến đang tiếp tục thì đùng một cái, Chuẩn Tướng Lê Trung Tường ra lệnh cho Trung Tá Dậu điều động Liên Đoàn 21 phối hợp vói Địa Phương Quân còn lại rút về vây quanh sân bay L-19 trong thành phố để ông phái trực thăng đến đón 21 người trong gia đình của ông đang kẹt tại sân bay này.Mặc dù có sự yểm trợ của cả Địa Phương Quân lẫn Liên Đoàn 21, trực thăng của Tướng Tường phái đến cũng không đáp xuống được vì địch pháo kích dữ quá.Cuối cùng, Chuẩn Tướng Tường đã ra lệnh lấy một Thiết Vận Xa M-113 chở toàn bộ gia đình của ông tới Trung Tâm Huấn Luyện cách Thị xã khoảng 3 cây số để trực thăng đến đón. Liên Đoàn 21 và Địa Phương Quân phải rất vất vả mới đưa được gia đình Tướng Tường ra khỏi vùng giao tranh và yểm trợ cho trực thăng tới đón.Khi trực thăng bốc được gia đình Tướng Tường đi rồi thì địch đã chiếm gần như toàn bộ thành phố Ban Mê Thuột. Liên Đoàn 21 tiến về sân bay Phụng Dực để phối hợp tác chiến với một Tiểu đoàn của Trung Đoàn 53 ở căn cứ B–50 thì bị chận đánh phải lui ra khỏi vành đai thành phố và bị vây ở Đạt Lý.

Số phận của Hậu cứ Trung Đoàn 53:

Hậu cứ Trung Đoàn 53 đóng tại căn cứ B-50, gần phi trường Phụng Dực do một tiểu đoàn của Trung Đoàn 53 trấn giữ và một đại đội thám báo của Trung Đoàn 45 tăng cường. Đại đội này rất thiện chiến.

Căn cứ B–50 vốn là một trại lực lượng đặc biệt cũ của Mỹ có chu vi trên 1 cây số, với những công sự được xây cất kiên cố, có tất cả 11 hầm đủ sức chịu đựng được đạn pháo 130 ly, xung quanh có xếp bao cát cao làm thành những ụ chiến đấu cá nhân. Ở xa xa là một vòng đai hàng rào kẽm gai nhiều lớp bao bọc. Tiểu đoàn của Trung Đoàn 53 đóng trong căn cứ, còn Đại Đội Thám Báo do Thiếu Úy Nguyễn Công Phúc chỉ huy đóng trên phi trường Phụng Dực, giữa các ụ bảo vệ phi cơ.

Đêm 10.3.1975, hậu cứ Trung Đoàn 53 và phi trường Phụng Dực bị pháo kích nặng. Đến 5 giờ sáng căn cứ bị địch tấn công từ hai phía đông bắc và đông nam. Địch chiếm được một phần căn cứ. Nhưng đến 8 giờ sáng, quân trú phòng đã phản công, Cộng quân bị đánh dạt sang một bên. Một cánh quân của địch đã chạy qua khu đất trống của phi trường nên bị Đại Đội thám báo bắn tỉa phải chạy vào bìa rừng cao su gần phi đạo, để lại hơn 40 xác chết, một số vũ khí và quân trang, quân dụng. Sau đó, Cộng quân trở lại tấn công nhiều lần, nhưng đều bị đẩy lui.

Tiểu đoàn của Trung Đoàn 53 cầm cự kéo dài đến ngày 18.3.1975 thì phải mở đường máu chạy về hướng Lạc Thiện, sau khi có lệnh rút khỏi Cao Nguyên. Tướng Phú và Bộ Tham Mưu đã lên máy bay đi tìm và bắt được liên lạc, nhưng số tàn quân ở cạnh Trung Tá Ân lúc đó chỉ còn khoảng 20 người.

Đêm 16.3.1975, khi Cộng quân pháo kích như vũ bão vào phi trường, Thiếu Úy Phúc liên lạc với Trung Đoàn 53, nhưng không ai trả lời. Gần sáng, Cộng quân cho xe tăng tấn công căn cứ Trung Đoàn 53 và chiếm căn cứ này, sau đó tiến qua phi trường thanh toán Đại Đội Thám báo còn sót lại. Không có tiếp tế, đạn dược hết, phải dùng AK của địch bỏ lại để chiến đấu, Thiếu Úy Phúc phải xin phi cơ đến oanh tạc để rút ra. Đúng lúc Cộng quân đang tập trung quân, phi cơ được thám báo hưóng dẫn đã đến dội bom xuống đầu địch. Nhờ những trái bom này, Đại Đội Thám Báo còn lại hơn 50 người đã rút chạy vào rừng cao su. Khi vào được trong rừng thì chỉ còn lại khoảng 30 người. Nhưng sau đó, Cộng quân lại đến tấn công. Thiếu Úy Phúc và một y tá thoát khỏi cuộc phục kích, nhưng rồi ngày 22.5.1975 cũng bị bắt khi mò xuống suối uống nước.

Như vậy Trung Đoàn 53 và Đại Đội Thám Báo đã bảo vệ căn cứ B–50 và phi trường Phụng Dực được 18 ngày khiến Cộng quân phải kính nể.

Trung Tá Ngô Văn Xuân, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 44 Sư Đoàn 23 đã kể về cuộc hành quân tái chiếm Ban Mê Thuột như sau:

….

Suốt ngày hôm đó, trực thăng chỉ huy của Tướng Tường bay trên vùng trời Ban Mê Thuột. Mãi đến 7 giờ tối tôi mới nói chuyện được với Thiếu Tá Cẩm qua điện thoại. Tiếng Cẩm xúc động: “Ban Mê Thuột bị tràn ngập rồi, không còn liên lạc được gì với Đại Tá Quang, Tư lịnh phó nữa. Tướng Tường đang ở BTL Quân Đoàn II, họp bàn về lệnh lập kế hoạch giải tỏa”.

Ngay trong thời điểm ấy, tôi không tin là có thể làm gì hơn cho kế hoạch này. Nguyên tắc quân sự cơ bản: “Phòng thủ 1 chống 3, tấn công 3 chọi 1”. Vậy cứ cho là đang có 2 sư đoàn địch chiếm cứ trận địa, làm sao kiếm ra tối thiểu 5 sư đoàn để tái chiếm? Ưu thế hỏa lực không còn, các đơn vị tổng trừ bị hấu như bị cầm chân gần hết tại các chiến trường hỏa tuyến, lực lượng nào để tiếp cứ đây???

Sáng ngày 11, tôi được trực thăng đón ra BTL Sư đoàn họp hành quân. Kế hoạch hành quân do Thiếu Tá Cẩm, Trưởng Phòng 3 Sư đoàn trình bày gồm 2 giai đoạn:

– Giai đoạn 1: Ngày 12, Trung Đoàn 45 được trực thăng bốc đi từ đèo Tử Sĩ, đổ xuống Quận Phước An, di chuyển về thị xã từ hướng Đông, đến chạm tuyến chờ lệnh.

– Giai đoạn 2: Buổi sáng cùng ngày, Liên đoàn 7 Biệt Động Quân đưọc không vận từ Sai Gòn sẽ đến thay thế Trung Đoàn 44 ra tập trung tại căn cứ Hàm Rồng và di chuyển về Ban Mê Thuột bằng trực thăng. Sáng ngày 13, Trung Đoàn 44 sẽ được không vận xuống Phước An, lần theo quốc lộ 21, song song với Trung Đoàn 45, tiến vào thị xã.

Họp hành xong, tôi trở về ngay căn cứ 801 để chờ đơn vị bạn. Mãi đến gần 3 giờ chiều, đoàn xe chở Liên đoàn 7 Biệt Động Quân mới tới nơi. Người bước vào căn cứ đầu tiên là Đại Tá Nguyễn Kim Tây. Cuộc bàn giao vị trí cũng kéo dài tới gần 5 giờ chiều mới hoàn tất. Trung Đoàn 44 lên xe trực chỉ hướng Hàm Rồng.

Trung Đoàn 44 sẵn sàng tại bãi đáp lúc 7 giờ sáng ngày 13/3/1975. Số lượng trực thăng dự trù để di chuyển toàn bộ Trung Đoàn gồm khoảng 50 chiếc đủ loại, trong đó có 8 chiếc Chinook, 30 chiếc HUID và phần còn lại là trực thăng vũ trang. Kế hoạch dự trù di chuyển làm 2 đợt. Đợt đầu gồm Tiểu đoàn 3/44 do Đại úy Trần hữu Lưu làm Tiểu đoàn trưởng, Đại Đội 44 Trinh sát của Đại úy Mạnh, BCH (Bộ Chỉ Huy) Trung Đoàn 44. Quân số tổng cọng khoảng gần 600 người. Đợt thứ hai gồm 2 Tiểu đoàn 1/44 của Thiếu Tá Nguyễn Xuân Hòe, và Tiểu đoàn 2/44 của Đại úy Nguyễn Văn Pho, BCH nhẹ do Trung Tá Vũ Mạnh Cường, Trung Đoàn Phó chỉ huy.

Chuyến không vận đầu tiên cất cánh lúc 9 giờ, đáp xuống khu vực rừng trống trước cửa Chi khu Phước An lúc 10 giờ 15. Tôi vào gặp Tướng Tường tại BCH nhận lệnh. Tôi ra lệnh cho Đại Úy Lưu đưa Tiểu đoàn đi theo hướng Bắc quốc lộ 21 tiến lên ngang tuyến của Trung Đoàn 45 thì dừng lại chờ đợi. Đại Đội 44 Trinh sát được giữ lại để bảo vệ BTL Sư Đoàn. Đoàn trực thăng cất cánh trở lại Hàm Rồng để chở tiếp đợt còn lại.

Đến 2 giờ chiều, vẫn không có tin tức gì của đợt không vận thứ 2. Tôi trở vào Chi khu, nơi BTL Sư Đoàn đang tạm đặt nơi đây, để hỏi tin tức. Trung Tâm hành Quân của Sư Đoàn cũng chẳng biết gì hơn! 4 giờ chiều, Trung Tâm hành Quân của Sư Đoàn cho biết cuộc không vận bị hủy bỏ, số trực thăng ấy đã được xử dụng để chuyên chở các nhân viên BTL Quân Đoàn trở về Nha Trang! 2 Tiểu đoàn của tôi sẽ nhận lệnh trực tiếp của Quân Đoàn. Sau này tôi mới được biết 2 Tiểu đoàn của tôi đã đi theo đoàn quân triệt thoái theo liên tỉnh lộ 7 và bị tan rã hoàn toàn. Trung Tá Trung đoàn phó Vũ Mạnh Cường bị bắt làm tù binh, sau này bị đem về nhốt và bị chết cháy trong conex tại trại giam Hàm Tân. Đại Úy Pho, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2/44 tự sát trước khi bị bắt.

Ngày 14/3/75, chúng tôi kiểm điểm lại và thấy như sau:

Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân, sau khi vào được thị xã Ban Mê Thuột, tiến vào khu vực phi trường L–19 trong thị xã, đã bị đánh bật ra ngoài vòng đai, hiện đang bị vây hãm tại Đạt Lý.

Bộ Chỉ huy Trung đoàn 45 và Tiểu đoàn 3/44 đang bị cầm chân ngoài vòng đai thị xã.

Lực lượng pháo binh yểm trợ trực tiếp (và duy nhất) là trung đội pháo binh diện địa đang đặt tại Chi khu Phước An chỉ có 2 khẩu đại bác 105 ly.

Lực lượng không quân yểm trợ, đánh phá các căn cứ tập trung của địch, trong và ngoài vòng đai thị xã đang bị khốn đốn vì hỏa tiễn tầm nhiệt cầm tay SA–7 của Cộng Sản do Nga chế tạo, lần đầu tiên được xử dụng rộng rãi trên chiến trường Tây Nguyên.

Buổi sáng ngày 14/3/75, trong chuyến bay từ Khánh Dương lên Phước An, máy bay trực thăng của Tướng Tường bị trúng đạn phòng không 12.8 ly của Cộng quân. Tướng Tường và viên co-pilot bị thương nhẹ, phải vào bịnh viện Nha Trang điều trị.

Sáng ngày 15/3/75, Đại tá Phùng Văn Quang, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 45 và tôi, được tin Sư Đoàn có vị Tư Lệnh mới, đó là Đại tá Lê Hữu Đức. Cùng ngày Đại tá Đức ra lịnh hai chúng tôi cho đơn vị di chuyển lui về hướng đồi Chư Cúc lập tuyến phòng thủ tại đây. 5 giờ chiều cùng ngày, trong khi chờ đợi trực thăng của vị tân Tư lệnh đáp xuống đỉnh Chư Cúc để họp thì đoàn chiến xa Cộng quân tràn tới dưới chân đồi. Tiếng Đại Úy Mạnh, Đại Đội Trưởng Đại Đội 44 Trinh sát reo lên trong máy: “ Báo cáo Bá Hòa, chúng tôi đã thiêu sống 1 con cua”. Những tiếng súng nổ ròn rã cách xa hướng chân đồi non cây số, quyện trong khói đen và trắng của chiếc xe thiết giáp địch bị bốc cháy thực sự không còn gây cho tôi một ấn tượng hứng khởi nào nữa.Tiếng Đại Tá tân Tư lịnh nói trong máy cho biết không thể đáp xuống được và yêu cầu Đại Tá Quang cùng tôi phối hợp phòng thủ chờ lệnh! Tôi còn nhớ hình như Đại Tá Quang có buông một tiếng chửi thề và leo lên xe Jeep chạy nhanh xuống chân đồi trở về đơn vị.

Tôi và Đại úy Phan Công Minh, sĩ quan hành quân của Trung Đoàn, lặng lẽ đi bộ về sau. Vừa ra khỏi khúc quanh trên đỉnh đồi, chúng tôi nghe tiếng xích sắt của xe thiết giáp địch xình xịch bên tai. Cả hai anh em không có chọn lựa nào khác là chui qua vòng rào kẽm gai giăng quanh căn cứ, trượt theo sườn dốc xuống chân đồi, nơi có cắm đầy tấm bảng gỗ ngổn ngang, trên có hàng chữ: “Khu tử địa cấm vào!!!”

Dưới chân đồi là một lạch nước nhỏ, hai bên có trồng chuối. Tôi và Minh ngồi lặng lẽ im lặng dưới tầu lá chuối, ngâm chân vào giòng nước lạnh. Trong suốt 15 năm quân ngũ, chưa bao giờ tôi thấy tuyệt vọng như thế, kể cả khi còn là một Đại úy Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 2/11 Sư đoàn 7, khi bị vây hãm 3 ngày 2 đêm ở khu vực bến xe Mỹ Tho, đơn vị chỉ gồm hơn 50 người, trong đó có tới hơn phân nửa là chết và bị thương, đạn dược cạn kiệt và đói khát. Lúc đó tôi vẫn thấy địch sẽ thất bại và chúng tôi sẽ được giải cứu. Bây giờ đây thì không. Tôi không nhìn thấy một cơ may nào để có thể giải cứu Ban Mê Thuột. Ngày 16/3/75 tôi và Minh tìm lại được đơn vị, được trực thăng bốc về Khánh Dương.

Cảm nghĩ về Trận Ban Mê Thuột

Ban Mê Thuột là một trong 2 yếu huyệt của Vùng Cao Nguyên, có thể làm bàn đạp tung quân xuống Vùng Duyên Hải, cắt đôi Miền Nam Tự Do. Mất Ban Mê Thuột tất nhiên là một biến động lớn. Nhưng có lẽ nó sẽ không lớn đến độ khiến dư luận cả nước phải chấn động mạnh nếu sau đó không có quyết định rút bỏ Vùng 2 (và Vùng 1) của Tổng Tư lệnh Nguyễn Văn Thiệu.

Như đã nói ở đoạn trên, Tổng Thống kiêm Tổng Tư lệnh Nguyễn Văn Thiệu đã có ý định bỏ cả hai Vùng này trước khi Bắc Cộng đánh Ban Mê Thuột. Sau khi Ban Mê Thuột mất thì ông chuyển ý định này thành quyết định chính thức. Vai trò của Tổng Thống Thiệu rất “lờ mờ” trong vụ Ban Mê Thuột, không rõ ràng như vụ Phước Long trước đó. Tuy nhiên, cũng đừng quên là ông đã không màng tới việc giải cứu hoặc tái chiếm Phước Long.

Vai trò “lờ mờ” kia chẳng qua là để sau này đổ tội cho các Tướng ở mặt trận. Chuyện này đã xảy ta đúng như vậy, khiến một vị Tướng Vùng 1 Chiến Thuật khi bị buộc phải ngồi viết tờ trình ở Bộ Tổng Tham Mưu đã chịu hết nổi, chửi thề, nói trắng trợn rằng: “Chúng tôi không có tội lỗi mẹ gì cả”!

Sau này chúng ta sẽ còn thấy cái “lờ mờ” kia lại xuất hiện trong vụ đại quân Quân Đoàn II triệt thoái khỏi Cao Nguyên. Cái khó của Tổng Thống Thiệu lúc bấy giờ là tránh “sinh loạn” trong quân đội. Mối nguy cơ bị đảo chánh!.

Và đây là điều mỉa mai lớn cho quốc gia Việt nam Cộng Hòa. Toàn dân thì rúng động khi nghe mất Ban Mê Thuột, nhưng chính sự mất mát này lại là một cái cớ tốt để Tổng Thống dựa vào đó để quyết định rút bỏ Vùng 2 Chiến Thuật. Ông còn cẩn thận hơn đối với vấn đề “sinh loạn” vừa nói trên, bèn vẽ thêm cho cuộc rút quân bỏ Vùng 2 thành …“kế hoạch” tái chiếm Ban Mê Thuột! Một kế hoạch chỉ cần xử dụng toán cộng, toán trừ, đã dư thấy quá vô lý. Ta có 3 cái nhà trên núi, bọn chúng chiếm một cái, ta bèn bỏ hai cái nhà còn lại cho chúng cướp luôn, ta chạy một vòng thật xa xuống bờ biển, rồi tính chuyện quay ngược lại tái chiếm căn nhà đầu tiên bị mất. Trời đất! Vâng. Đúng vậy đó. Người lính Việt nam Cộng Hòa chỉ còn biết kêu trời kêu đất mà thôi.

Với người Mỹ, như đã nói, quân đội Việt nam Cộng Hòa buông súng đầu hàng quân Bắc Cộng khi súng hết đạn, tiếp liệu không còn, thì cả thế giới sẽ phỉ nhổ siêu cường Hoa Kỳ. Chỉ có cách là làm sao cho quân đội này phải thua trận trên chiến trường thì người Mỹ mới có thể đạt được …. hòa bình trong danh dự!

Trận Ban Mê Thuột đã cung cấp được cho người Mỹ thứ “danh dự” lấm lem đó, bởi trận này dẫn đầu cho một loạt các cuộc tan hàng nhanh chóng về sau.

Nhưng dù bởi cái gì đi nữa, Tướng làm mất thành là Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn Phạm Văn Phú phải chịu trách nhiệm đầu tiên. Tuy vậy, bây giờ không phải là thời kỳ hễ bại tướng thì cứ “trảm” một phát, đầu rơi xuống đất là xong. Sự công bình đối với Thiếu Tướng Phạm Văn Phú cần phải đặt thành quan trọng, nhất là với vị Tướng đã chứng minh mình không tham sống, vô trách nhiệm.

Vào lúc xẩy ra Trận Ban Mê Thuột thì Tướng Phú làm Tư Lệnh Quân Đoàn II được khoảng năm tháng. Mặc dù từng hoạt động ở Vùng 1, cũng là vùng núi rừng trùng điệp như Vùng 2, nhưng vẫn không thể nói là ông đã thông suốt được địa thế. Khi Tướng Ngô Quang Trưởng từ Vùng 4 thuyên chuyển ra Vùng 1, còn mang theo vài Sĩ quan tín cẩn có khả năng tham mưu cao, giỏi sách lược như Tướng Nguyễn Duy Hinh, Đại Tá Lê Văn Thân (gốc Phòng 3 Bộ Tham Mưu) giúp Tướng Trưởng soạn thảo kế hoạch tái chiếm Quảng Trị. Vị Sĩ Quan thứ ba Tướng Trưởng mang theo là Trung Tá Trần Kim Đại, đang là Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn 42 Chiến Thuật Biệt Động Quân Biên Phòng (Vùng 4), về nắm Liên Đoàn 1 Biệt Động Quân Tiếp Ứng, đơn vị xung kích của Quân Đoàn I. Sớm muộn gì Trung Tá Đại cũng sẽ được thăng cấp Đại Tá và được giao chỉ huy toàn bộ lực lượng Biệt Động Quân Vùng I. Ngoài phần nhân sự Tướng Trưởng đòi hỏi cho bằng được quyền xử dụng hai Sư Đoàn Tổng Trừ Bị duy nhất và thiện chiến nhất quân đội Việt nam Cộng Hòa để hoàn thành nhiệm vụ được giao phó (Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến).

Trái lại, Tướng Phạm Văn Phú đến Vùng 2 một mình.

Ngay sau đó, chức vụ Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II lại do Trung Tướng Đồng Văn Khuyên ở Bộ Tổng Tham Mưu ép buộc, Tướng Phú phải nhận Đại Tá Lê Khắc Lý. Mặc dù trước đó chính Đại Tá Lý đã trực tiếp thỉnh cầu Tướng Phú và đã bị Tướng Phú từ chối. Đây có lẽ là một trường hợp can thiệp quá trắng trợn có một không hai trong lịch sử quân đội Việt nam Cộng Hòa! Và có lẽ chỉ có Tướng Phú mới chấp nhận như thế.

Chúng ta có thể tưởng tượng được rằngTư Lệnh Phạm Văn Phú lúc đó là một vị Tư Lệnh “chân ướt chân ráo” và cô đơn.Ông ta không có một Bộ Tham Mưu do chính mình biết rõ khả năng và bổ nhiệm để có thể tín cẩn, thoải mái bàn công việc. Tuy vậy, thay vì cứ làm như vị Tư Lệnh Quân Đoàn khác, đi thẳng với Dinh Độc Lập, với Tổng Thống Thiệu, không cần đếm xỉa tới Trung Tướng Đồng Văn Khuyên là người đang nắm thực quyền tại Bộ Tổng Tham Mưu (Đại Tướng Cao Văn Viên bận Thiền), vẫn một mực làm theo hệ thống chỉ huy, vốn đã không còn là hệ thống đúng nghĩa nữa. Chẳng những vậy, là một cấp trên mới đến và cô đơn, thay vì dùng uy của những ngôi sao trên cổ áo để buộc thuộc cấp phải đâu vào đấy ngay lập tức, Tướng Phú lại chỉ dùng sự khiêm nhường và tình cảm. Ổng thường đưa thuộc cấp về nhà dùng cơm tối, bàn bạc công chuyện trong sự thân mật, để rồi sau này có vị thuộc cấp lôi cả chuyện nhà ông ra thản nhiên kể thành chuyện xấu (và không ai phản bác vì không có nhân chứng).

Thật ra, theo tác giả, cách làm việc của Tướng Phú rồi cũng sẽ có kết quả, lần hồi rồi ông sẽ giải quyết được vụ Tướng Khuyên, và sẽ lập được một Bộ Tham Mưu theo đúng ý mình. Nhưng tiếc cho ông, Tướng Phú không còn có thời gian nữa.

Tuy không còn muốn nhắc đến Đại Tá Trịnh Tiếu nữa, nhưng không nhắc cũng không được. Mỗi đơn vị đều có cuộc họp tham mưu hàng ngày, cấp Quân Đoàn vốn có nhiều đơn vị thống thuộc lại càng phải tuân thủ lệ này.Vậy nếu Đại Tá Trịnh Tiếu đã thuyết trình kiên quyết nhận định Ban Mê Thuột chính là mục tiêu của quân Bắc Cộng, thì chúng ta cần có thêm câu hỏi tại sao những cuộc tường trình về tình báo chính xác của ông lại không dẫn đến một cuộc họp khẩn cấp về Ban Mê Thuột với đầy đủ các vị Tư Lệnh Phó Quân Đoàn, Tư Lệnh Phó Quân Khu, Tham Mưu Trưởng, Trưỏng Phòng thuộc Bộ Tham Mưu, Tư Lệnh các đại đơn vị, và các vị Tiểu Khu Trưởng (Tỉnh Trưởng) liên hệ? Nhưng chúng ta có thể tự trả lời, vì đã đọc những phần ở trên: Chính Đại Tá Tỉnh Trưởng Nguyễn Trọng Luật chỉ một ngày trước khi Ban Mê Thuột bị quân Bắc Cộng tấn công vẫn còn tin tưởng ở lời nói của Đại Tá Trịnh Tiếu là quân và xe tăng Bắc Cộng đang tụ tập xung quanh Kon Tum, Pleiku!

Phía tình báo chiến trường người Mỹ còn tệ hơn nữa. Khi khổng khi không, cơ quan tình báo của họ bỗng dưng tệ một cách bất ngờ, bất thường! Tác giả Michael Maclear nêu thắc mắc trong cuốn “The Ten Thousand Days War – Vietnam: 1945 – 1975” rằng có Sư Đoàn Bắc Cộng cùng hàng trăm xe tăng tập trung áp sát vào Ban Mê Thuột chưa đầy 20 dặm. Nhưng không thám Mỹ nhất định không tìm ra.

Thiếu Tướng Phạm Văn Phú có tội đã tin vào tình báo của Mỹ và của …mình. Nhưng không tin vào họ thì tin vào đâu??!

Mất Ban Mê Thuột rồi thì mất luôn Miền Nam Tự Do nhanh như một cái chớp mắt, chuyện đúng – sai, công – tội trong vụ Ban Mê Thuột không ai có thời gian hay lòng dạ nào mà thảo uận. Mãi sau khi các cộng đồng người gốc Việt bắt đầu hình thành tại Hoa Kỳ và ở các quốc gia khác trên thế giới, những câu chuyện cũ bắt đầu được khơi lại. Khi có chính sách đón tiếp quân nhân – công chức Việt nam Cộng Hòa từng bị tù Cộng Sản sang Hoa Kỳ định cư, thì những câu chuyện cũ đó ồn ào hẳn lên.

Câu chuyện Thiếu Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn II Phạm Văn Phú lầm kế nghi binh của quân Bắc Cộng làm mất Ban Mê Thuột nóng hẳn lên trong dư luận cộng đồng gốc Việt vào những năm đầu thế kỷ 21. Nòng cốt của nó chính là những bài báo của ….Đại Tá Trịnh Tiếu, Trưởng Phòng 2 Quân Đoàn II năm xưa. Thật đáng ngạc nhiên, từ hoạt động của vài cá nhân nó bỗng biến thành như một “phong trào”. Chính cả người Mỹ cũng nhập cuộc, xử dụng tài liệu của Đại Tá Tiếu vào sách vở của họ, kể cả những tài liệu huấn luyện quân sự nữa.

Với tình trạng như vậy, nếu từ đây cho đến ngày không còn một người lính Việt nam Cộng Hòa nào hiện diện trên cõi đời này nữa, lúc đó mà không có ai đưa ra một hướng dư luận khác nhằm đặt lại cho đúng vấn đề ở Vùng 2 Chiến Thuật năm 1975, thì muộn mất rồi. Có lẽ không còn cơ hội nào nữa. Oan khiên sẽ là oan khiên muôn thuở!

Tác giả mạnh mẽ nêu nghi vấn: tướng Phú có lầm “kế nghi binh của địch” trong Trận Ban Mê Thuột hay không?!

Cả hai, Pleiku và Ban Mê Thuột, cùng là hai yếu huyệt của Vùng Cao Nguyên, quân Bắc Cộng nếu chiếm được hai nơi này họ sẽ dàn được quân từ vùng Cao Nguyên kéo tới tận bờ Biển Đông, cắt đôi nước Việt nam Cộng Hòa. Pleiku và Ban Mê Thuột quan trọng như nhau, không thể nói nơi này quan trọng hơn nơi kia. (Tổng Thống Thiệu thì nói Ban Mê Thuột quan trọng hơn vì thành phố này đông dân hơn, lợi tức cao hơn bằng cả Kon Tum và Pleiku cộng lại. Nhưng đây là cách nói nghiêng về chính trị địa dư, không liên quan đến quân sự).

Để giữ cả hai, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú chỉ có Sư Đoàn 23 BB, được tăng phái thêm 2 Liên Đoàn 24 và 25 BĐQ. Nên nhớ, tuy cũng là Biệt Động Quân nhưng Biệt Động Quân Biên Phòng và Biệt Động Quân Tiếp Ứng khác nhau rất xa về quân số, về khả năng chiến đấu, và về kinh nghiệm chiến trường.( Biệt Động Quân cơ hữu của Vùng 2 lúc bấy giờ có 5 Liên Đoàn, trong số này chỉ có một Liên Đoàn Tiếp Ứng). 3 Liên Đoàn BĐQ còn lại thì được gom lại đặt dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Phạm Duy Tất giữ Kon Tum.

Một Sư Đoàn BB cộng 2 Liên Đoàn BĐQ giữ cả hai yếu huyệt Pleiku và Ban Mê Thuột. Khi tình hình có vẻ dồn dập hơn, Bộ Tổng Tham Mưu có tăng phái cho Vùng 2 thêm 3 Liên Đoàn Biệt Động Quân Tổng Trừ Bị. Nhưng lần lượt gửi lên từng Liên Đoàn một, riêng lẻ, thay vì cùng một lần và nếu được là một Binh Đoàn Biệt Động Quân với 3 Liên Đoàn thống thuộc, để thống nhất chỉ huy thì sức chiến đấu sẽ mạnh mẽ hơn và giúp hiệu quả hơn. So với Tướng Trưởng năm 1972 nhận Vùng 1 Chiến Thuật và Tướng Phú năm 1975 khi nhận Vùng 2 Chiến Thuật thì rõ ràng Tướng Phú không đủ “bột để gột nên hồ”. Tướng Phú tiến thối lưỡng nan. Được đằng này thì mất đàng kia, được đàng kia thì mất đàng nọ. Việt Nam mình có câu: “Cái khó bó cái khôn”, Tướng Phú đã không có được cái cần và đủ hầu làm sức bật cho những sáng kiến hay giải quyết khó khăn.

Nên nhớ vào thời điểm này Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Trung Ương đã có sẵn sàng 6 Liên Đoàn Biệt Động Quân Tổng Trừ Bị. Tướng Phú hầu như không biết sự hiện diện của 6 Liên Đoàn này. Không phải chỉ Tướng Phú mà các Tư Lệnh Quân Đoàn khác đều không biết rõ ràng Biệt Động Quân có một lực lượng Tổng Trừ Bị đông đảo như thế. Có lẽ Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng cũng mù mờ khi họp tại Cam Ranh, Tướng Phú yêu cầu tăng quân, Đại Tướng đã thẳng thừng trả lời không còn (thực sự lúc này Biệt Động Quân vẫn còn 3 Liên Đoàn).

Giá mà 6 Liên Đoàn rời rạc này được thành lập thành 2 Binh Đoàn thì các Tư Lệnh Quân Đoàn đều được biết đến. Vì không biết nên Tướng Phú không yêu cầu, mà Bộ Tổng Tham Mưu cũng không chủ động tăng cường cho Quân Khu II, phải đợi cho tới khi mặt trận Ban Mê Thuột bùng nổ thì Bộ Tổng Tham Mưu mới có phản ứng. Quá trễ!

Hãy nhìn cách dàn quân của Bắc Cộng tại Tây Nguyên. Sư Đoàn 320 CSBV bố trí phía Tây quận Thuần Mẫn cách thị xã Pleiku khoảng 14 cây số về phía Nam, giữa Pleiku và Ban Mê Thuột. Sư Đoàn 968 CSBV tấn kích quận Thanh An phía Tây Pleiku.Trung Đoàn 95B CSBV đóng tại vùng Suối Đôi, quận Lê Trung phía Đông Pleiku.

Vùng Ban Mê Thuột quân Bắc Cộng có Sư Đoàn 316 CSBV, Sư Đoàn 10 CSBV, và 1 Trung Đoàn VC Địa Phương.

Như vậy Sư Đoàn 320 CSBV chính là lực lượng Bắc Cộng có thể dùng tới để nhập vào mũi tiến công đối với Ban Mê Thuột hoặc Pleiku chỉ bằng một lệnh chuyển hướng.

Và Tướng VC Văn Tiến Dũng lại còn muốn cho Tướng Phạm Văn Phú thấy rằng họ có khả năng mở hai mặt trận cùng một lúc: cả Pleiku lẫn Ban Mê Thuột. Dĩ nhiên nếu làm vậy họ sẽ chịu nhiều rủi ro hơn. Phía Bắc Cộng còn có ưu thế chuyển quân thoải mái theo ý muốn của họ bất kể lúc nào bởi vì họ không có nơi nào cần phải chống giữ, trong khi phía Việt nam Cộng Hòa thì cả hai Pleiku – Ban Mê Thuột đều là yếu huyệt cả.

Đã không ít lần binh sĩ của Quân Đoàn II nghe được ôngTướng Tư Lệnh của mình nói rằng, Pleiku là đầu não, khi nào đầu não vẫn còn thì Vùng Cao Nguyên không mất.!

Quan niệm của Tướng Phú là vậy chứ không “lầm kế nghi binh” gì cả. Chắc chắn như vậy! Thiếu Tướng Phạm Văn Phú không chấp nhận may rủi, ông đã nhất quyết giữ cho bằng được Pleiku là nơi ông coi là đầu não. Nơi đặt Bộ Tư lệnh Quân Đoàn II.

Pleiku còn, Vùng Cao Nguyên còn!

Tuy nhiên, đó chỉ là quan niệm của riêng ông, mà ông thì chưa phải là người quyết định sau cùng. Sau khi Ban Mê Thuột mất, đối với Tướng Phú thì Vùng Cao Nguyên vẫn còn vì Pleiku vẫn còn đây! Chính Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, với sự phụ họa của Đại Tướng Cao Văn Viên mà tác giả sẽ trình bày ở một phần sau, đã quyết định là Pleiku phải mất, thì lúc đó Vùng Cao Nguyên của Tướng Phú mới bị mất.

Hai vị Tướng thượng cấp của Thiếu Tướng Phạm Văn Phú trong phút chốc đã biến Tướng Phú thành một bại tướng thảm thê. Đây là dư luận công bình mà chúng ta cần phải trả lại cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân Đoàn II.

Dư luận công bình này cũng là một phần của dư luận công bình chung cho toàn thể

quân đội Việt nam Cộng Hòa, một đạo quân bị ám sát!!!

Thử đặt ra một thí dụ, chẳng hạn như Bộ Tổng Tham Mưu đã biết uyển chuyển, đã tổ chức 3 Liên Đoàn Biệt Động Quân thống nhất lại thành một Binh Đoàn Biệt Động Quân thay vì 3 Liên Đoàn Biệt Động Quân riêng rẽ, rời rạc, gửi tăng phái cho Vùng 2 để cho Tướng Phú xử dụng Binh Đoàn Biệt Động Quân này đi giải cứu, tái chiếm Ban Mê Thuột thay vì xử dụng Trung Đoàn 44, 45 của Sư Đoàn 23 BB, thì có gì khá hơn không? Có nhiều phần là phải khá hơn, vì như Trung Tá Trung Đoàn Trưởng Ngô Văn Xuân đã từng kể, gia đình binh sĩ thuộc Trung Đoàn 44 của ông phần đông là ở Phan Thiết, trong khi đó gia đình binh sĩ thuộc Trung Đoàn 45 đa số là ở Ban Mê Thuột vì Trung Đoàn này được thành lập và đặt căn cứ tại đây cho đến khi bị quân Bắc Cộng chiếm giữ. Mặc dù Trung Tá Ngô Văn Xuân không viết ra nhưng chúng ta có thể đoán là khi họ vừa được đỗ xuống Ban Mê Thuột, một số binh sĩ đã rời bỏ hàng ngũ để xông xáo đi lo cho gia đình, thân quyến của họ.

“Binh Đoàn Biệt Động Quân” thì đến từ Sài Gòn, tinh thần của họ sẽ khá hơn vì không phải vướng bận yếu tố gia đình. Vả lại, một đơn vị cấp Binh Đoàn có quân số tương đương với cấp Sư Đoàn, dù thiếu phương tiện hỏa lực yểm trợ cơ hữu, vẫn có khả năng chiến đấu cao hơn 2 Trung Đoàn, mặc dù kết quả có thể là tệ hại vì lúc đó thị xã Ban Mê Thuột đã bị kềm giữ bởi 3 Sư Đoàn Bắc Cộng.

Câu hỏi sau cùng là sau khi Ban Mê Thuột mất, chuyện gì sẽ xảy ra nếu Việt Nam Cộng Hòa không rút bỏ Kon Tum, Pleiku? Quân đội Việt Nam Cộng Hòa có sẽ bị đánh tan hàng ở hai nơi này như không? Câu trả lời là Kon Tum, Pleiku sẽ không như Ban Mê Thuột, bởi vì quan niệm “Pleiku còn Vùng Cao Nguyên còn” của Tướng Phú, giặc muốn hạ thành chắc phải chờ quân Cộng Hòa kéo cờ trắng đầu hàng sau khi đạn dược đã hết, xăng dầu đã cạn. Khi chuyện xẩy ra như vậy thì người Mỹ “đẹp mặt” lắm!

Nếu Việt Nam Cộng Hòa chọn tử thủ Kon Tum –Pleiku, tính cách dễ dàng nhất cho Tướng VC Văn Tiến Dũng lúc bây giờ là sẽ không tiến đánh hai nơi nói trên, cũng không dùng Ban Mê Thuột làm bàn đạp tiến ngang sang hướng Đông đánh chiếm Nha Trang, Khánh Hòa; bởi vì cách tiện nhất mà cũng có lợi nhiều là tiến quân xuống phía Nam chiếm tỉnh Quảng Đức, dùng đường mòn Hồ Chí Minh đã nối từ Khâm Đức (Vùng 1) vào quốc lộ 14 chạy thẳng xuống Phước Long, không còn phải băng qua lãnh thổ Kăm Pu Chia ở Ngã Ba Biên Giới (Tây Nguyên – Kăm Pu Chia – Miền Nam). Nên nhớ lúc này Khờ Me Đỏ đang đòi hỏi quân Bắc Cộng phải ra khỏi lãnh thổ Miên, không cho mượn đường nữa. Bắc Cộng đang hoàn chỉnh con đường nói trên để đưa quân và tiếp liệu áp sát vao uy hiếp thủ đô Sài Gòn.

Dự đoán nói trên không phải là của tác giả. Chính Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu khi lên Ban Mê Thuột ăn Tết năm 1975 với anh em binh sĩ ở đay đã nói như vậy, và cổ động tinh thần anh em.

Vị Tổng Tư Lệnh quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã dự đoán hướng tiến quân Bắc Cộng sẽ như thế, vầy mà sau khi Ban Mê Thuột mất thì ông vội vàng ra lệnh rút bỏ cả vùng Tây Nguyên, tâm thần của Tổng Thống lúc đó có còn vững vàng cho chức vụ Tổng Tư Lệnh nữa không?