← Quay lại trang sách

Tư Lệnh Quân Đoàn cãi lệnh Tổng Tư Lệnh ?

Lại vẫn Đại Tá Trịnh Tiếu. Tác giả không hiểu Tư Lệnh Quân Đoàn II Phạm Văn Phú đã làm gì đối với ông Đại Tá Trưởng Phòng 2 Quân Đoàn Trịnh Tiếu khiến ông Tiếu ở hải ngoại sau này quyết ý tấn công vào uy tín của Tướng Phú bằng mọi giá. Kể cả cái giá dám dựng chuyện không có.

Ngoài việc tố cáo Tướng Phú vì không tin ông ta nên lầm kế nghi binh của Bắc Cộng khiến thất thủ, Đại Tá Trịnh Tiếu còn nhiều lần tố Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn II Phạm Văn Phú cãi lệnh Tổng Thống Tổng Tư Lệnh Nguyễn Văn Thiệu. Đặc biệt là câu chuyện di chuyển Sư Đoàn 23 BB do Chuẩn Tướng Lê Trung Tường làm Tư Lệnh về phòng thủ.

Đại Tá Trịnh Tiếu viết:

Trước Tết 5 ngày, lên Quân Đoàn II để ủy lạo binh sĩ. Tôi đích thân thuyết trình về tình hình cộng quân tại Quân Khu II và khẳng định rằng: Địch sẽ tấn công Ban Mê Thuột thời gian sau Tết. Sau khi nghe thuyết trình xong, Tổng Thống Thiệu thay vì lên Kon Tum vui xuân với Biệt Động Quân, ông thay đổi lộ trình đi thăm Ban Mê Thuột và Quảng Đức. Ông đến ủy lạo nhiều Đơn vị Địa Phương Quân và Nghĩa Quân tại đây và nhắc nhở nhiều Binh Sĩ phải cố gắng chiến đấu đẩy lui cuộc tấn công của cộng quân sắp đến. Trước khi trở lại Sài Gòn, Tổng Thống Thiệu đã chỉ thị Tướng Phú đem Sư Đoàn 23 Bộ Binh về phòng thủ Ban Mê Thuột.

Tướng Phú vẫn nghi ngờ, không chịu thi hành lệnh.

Ngày 1.3.1975, Tướng Phú ra lệnh cho Chuẩn Tướng Lê Trung Tường, Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh, di chuyển toàn bộ Sư Đoàn về phòng thủ Ban Mê Thuột. Đoàn xe Sư Đoàn 23 chuyển bánh hướng về phía Nam, khi đến ranh giới Tỉnh Pleiku và Đắc Lắc, Tướng Phú chỉ thị cho Phòng 3 Quân Đoàn ra lệnh cho đoàn xe phải quay trở lại Pleiku. Lệnh này làm cho cả Bộ Tham Mưu Quân Đoàn phải ngạc nhiên. Tướng Phú giải thích với Tư Lệnh Sư Đoàn 23 và các Trung Đoàn Trưởng: “Địch giả vờ vây Ban Mê Thuột để đánh Pleiku đấy”.

Nhưng, một lần nữa, không phải chỉ có một mình Đại Tá Trịnh Tiếu viết về vụ chuyển quân nay.

Đại Tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh Trưởng Ban Mê Thuột, viết trong bài “Nhìn lại Trận Ban Mê Thuột” như sau:

Với nhiều lần xin quân viện, mãi đến ngày 4/3/1975, Tướng Phú mới bằng lòng cho Trung Đoàn 45 về Ban Mê Thuột. Lệnh di chuyển này đã được ban hành.Hai giờ chiều cùng ngày, toàn thể đơn vị thuộc Trung Đoàn 45 đã ngồi lên GMC để chờ lệnh Tướng Tường là xe chuyển bánh. Không ngờ ngay lúc đó, Cộng quân pháo kích vao thị xã Pleiku, cũng như Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II. Tướng Phú đang ở Nha Trang được báo cáo của Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II về việc pháo kích này, đã không ngần ngại hét vào máy: – Tôi ra lệnh cho Trung Đoàn 45 không di chuyển về Ban Mê Thuột nữa, ở lại Pleiku vì mặt trận Pleiku đã bùng nổ rồi.

Nhà báo Lữ Giang thì viết:

Theo kế hoạch này, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 sẽ di chuyển bằng đường bộ, khi qua khu đèo Tử Sĩ, Trung Đoàn 45 sẽ đi theo tháp tùng. Trung Đoàn 44 đợi một Liên Đoàn Biệt Động Quân đến thay thế trong vòng 3 ngày và sẽ đi sau. Tám giờ sáng ngày 18.2.1975, đoàn quân tập trung tại căn cứ Hàm Rồng để khời hành, nhưng đến 11 giờ Tướng Phú ra lệnh hủy bỏ việc chuyển quân.Ông nói địch sẽ đánh Pleiku và việc địch chuyển quân quanh Ban Mê Thuột chỉ là nghi binh mà thôi. Lệnh của Tướng Phú đã làm cả Quân Đoàn 2 ngạc nhiên.

Chỉ có một mình Đại Tá Trịnh Tiếu “độc diễn” một màn “lâm ly bi đát” rằng quân Sư Đoàn 23 đã được chở tới tận ranh giới Pleiku – Ban Mê Thuột thì Tướng Phú ra lệnh phải quay ngược trở lại. Màn “lâm ly bi đát” này không ngoài mục đích chẳng những tố Tướng Phú cãi lệnh Tổng Thống mà còn nhằm tố rằng Tướng Phú cầm quân không tự tin, đột ngột quyết định ngược lại khi cuộc hành quân bắt đầu.

Cãi lệnh Tổng Thống? Chẳng lẽ ông Đại Tá Trưởng Phòng 2 Quân Đoàn II đòi hỏi ông Tư Lệnh Quân Đoàn phải …. báo cáo cho ông ta biết về nội dung của tất cả cuộc bàn bạc riêng tư giữa Tổng Thống và Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn II Phạm Văn Phú? Chỉ cần biết tự hỏi, tại sao Tổng Thống Thiệu không trừng phạt Tướng Phú sau khi Ban Mê Thuột mất, thì Đại Tá Tiếu sau này đã không cần phải tố vớ vẫn Tướng Phú “cãi lệnh” Tổng Thống!

Thiếu Tướng Phạm Văn Phú là ai mà dám lờ đi lệnh của Tổng Thống Thiệu hồi ông ấy ra thăm Ban Mê Thuột, Quảng Đức dịp Tết 1975? Rồi lại ngang nhiên ra lệnh di chuyển ngược trở lại cả Sư Đoàn mà không xin lệnh từ Dinh Độc Lập? Một Tướng Phú sau trận Ban Mê Thuột đã ngoan ngoãn thi hành lệnh triệt thoái cả Quân Đoàn vô cùng quái đản của Tổng Thống Thiệu.

Không giống Tướng Phú chút nào!

Tâm Thần của Vị Tổng Tư Lệnh

Năm 1974 là một năm bết bát nhất trong đời làm Tổng Thống của ông Nguyễn Văn Thiệu.

Một loạt những biến cố xấu dồn dập xảy tới. Có lẽ tinh thần phải được như cốt sắt thì họa may không suy xuyển, hoảng loạn.

Tổng Thống Nixon phải rời khỏi Tòa Bạch Ốc vì vụ Wartergate. Ông Nixon là tác giả một loạt các lá thư hứa ẩu, hứa cuội, nhằm buộc Tổng Thống Thiệu phải chịu ký vào Hiệp Định “không hòa bình” Paris 1973.

Tổng Thống Thiệu giữ những là thư này rất kỹ, và bí mật, coi chúng như “lá bài tẩy” cho “ván cờ xin viện trợ”. (Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng, người có cơ hội hoạt động kề cận Tổng Thống Thiệu trong giai đoạn này, đã kể lại rất rõ về vụ những lá thư của Nixon trong cuốn “Khi Đồng Minh Tháo Chạy” của ông). Nhưng nay người hứa hẹn đã ra đi nhục nhã.

Ông Ford lên thay, ban đầu còn chịu khó trấn an Tổng Thống Thiệu về việc cắt giảm viện trợ quá mức chịu đựng, sau đó thì lờ luôn. Phó Tổng Thống Ford vốn chỉ được “đôn lên” chức Phó Tổng Thống không qua bầu cử, nay được “đôn lên” chức Tổng Thống cũng không qua bầu cử. Ông không có được phản ứng mạnh mẽ về những vấn đề liên quan đến Việt Nam, mọi chuyện nằm trong tay Ngoại Trưởng Kisinger.

Viện trợ cho tài khóa 1974 –1975 bị cắt chỉ còn 700 triệu đô la. Từ 2,1 tỉ cho tài khóa 1972 –1973 bây giờ chỉ còn 700 triệu, tiền viện trợ bị cắt là 1,4 tỉ đô la.Trong khi đó, Hoa Kỳ đã tăng viện trợ cho Do Thái trong trận đánh chống lại khối Ả Rập tháng 10/1973 là 1,5 tỉ. Chỉ có một trận đánh (trận Yum Kippur)! và Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Henry Kisinger là người Mỹ gốc …Do Thái.

Các phái đoàn sang Hoa Kỳ cầu viện đều thất bại.( Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng đã kể về “ Cái nhục của kẻ đi cầu xin” trong sách của ông).

Bộ Tổng Tham Mưu đưa ra bản ước tính đạn dược và tiếp liệu chỉ còn được xử dụng đến tháng Sáu 1975.

Mất Phước Long, phía Hoa Kỳ chỉ phản ứng ….. bằng mồm.

Cơ quan DAO do Tướng Murray cầm đầu đã đệ trình một báo cáo ví “mất tiền cũng như mất đất”, cùng biểu đồ “tiền và đất” như sau:1/ nếu tiền viện trợ là 1,4 tỷ thì giữ được hết các khu vực đông dân cư khắp bốn Vùng Chiến Thuật.. 2/ Nếu là 1,1 tỷ thì bỏ Vùng 1 cho Bắc Cộng chiếm.3/ Nếu là 900 triệu thì phải bỏ cả hai Vùng 1 và Vùng II hoặc khó đương đầu lại một cuộc tổng tấn công của quân Bắc Cộng. 4/ Nếu dưới 600 triệu thì chỉ còn giữ nổi Sài gòn và Vùng IV.

Theo Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng, lúc đó ông Thiệu đã bắt đầu nói đến “Từng Chiến Lược Cho Từng Mức Viện Trợ” hoặc “Tái Phối Trí”, hay “Đầu Teo Đít To” nói theo kiểu dân dã.

Nếu Tổng Thống Thiệu vì mức viện trợ đã có ý định phải bỏ cả Vùng 1 và Vùng 2 Chiến Thuật trước khi quân Bắc Cộng tiến đánh Ban Mê Thuột, thì Ban Mê Thuột đâu còn quan trọng gì với Tổng Thống nữa.Và có phải vì thế mà Tổng Thống Thiệu bỏ mặc Tướng Phú với Trận Ban Mê Thuột cùng một mớ hổn độn tin tức tình báo chiến trường của cả hai phía Việt Nam Cộng Hòa – Mỹ? Nếu đúng vậy thì mất Ban Mê Thuột chẳng có gì quan trọng đối với vị Tổng Tư lệnh quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Trái lại, Ban Mê Thuột mất lại có thể dùng làm cớ để buộc Quân Đoàn II triệt thoái khỏi cao Nguyên., cho dù nó vô lý.

Câu hỏi nên đặt ra ở đây là Tổng Thống Thiệu bị vấn đề mất viện trợ “hành” đến điên đầu, và ông còn đủ tỉnh táo không để nghiên cứu – hoạch định mưu lược quân sự? (Và trong sự cô đơn, vì chính ông đã tiếm quyền của Bộ Tổng Tham Mưu).

Tương Quan Lực Lượng Phối Trí Quân Vùng Cao Nguyên

Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II lập 3 Mặt Trận bảo vệ vùng Cao Nguyên.

1.– Mặt Trận Kon Tum do Đại Tá Phạm Duy Tất, Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân Quân Khu II với 3 Liên Đoàn Biệt Động Quân (21, 22, 23). Liên Đoàn 21 đóng quân tại Kon Tum và đèo Chu Pao. Liên Đoàn 22 giữ mặt Tây Bắc. Liên Đoàn 23 giữ mặt Bắc.

Về sau được tăng phái thêm Liên Đoàn 6 BĐQ đến tăng cường cho Cao Nguyên với hai Tiểu Đoàn 35 và 36 đóng ở phía Đông và Đông Bắc Kon Tum. Tiểu Đoàn 52 thì được gửi đi tăng cường cho Liên Đoàn 25 BĐQ tại Thanh An, Pleiku.

2.– Mặt Trận Pleiku do Chuẩn Tướng Lê Trung Tường, Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh chịu trách nhiệm với 2 Trung Đoàn (44,45) cùng Liên Đoàn 25 BĐQ tăng phái, Trung Đoàn 44 BB giữ mặt Tây (căn cứ 801). Trung Đoàn 44 BB đóng quân giữa Pleiku – Kon Tum. Liên Đoàn 25 BĐQ cũng giữ mặt Tây đóng tại Thanh An. Sau được tăng phái thêm Liên Đoàn 4 BĐQ, với Tiểu Đoàn 42 đóng phía Đông trên quốc lộ 19, Tiểu Đoàn 43 tại Hàm Rồng, và Tiểu Đoàn 44 tại Pleiku.

Sau khi trận Ban Mê Thuột nổ ra, Liên Đoàn 7 BĐQ được gửi đến tăng phái thêm, thay thế cho 2 Trung Đoàn 44,45 BB hành quân giải cứu thành phố này.

3.– Mặt trận Ban Mê Thuột – Quảng Đức do Đại Tá Vũ Thế Quang, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 23 Bộ Binh chỉ huy. Gồm Trung Đoàn 53 đóng tại Phi trường Phụng Dực và tại Dak Sơn (Quảng Đức), Liên Đoàn 24 BĐQ chịu trách nhiệm giữ Gia Nghĩa và Kiên Đức.

Phía Bắc Cộng xử dụng 4 Sư Đoàn dàn trận đánh Ban Mê Thuột: Sư Đoàn 3 Sao Vàng CSBV đóng ở Bình Định, Sư Đoàn 320 hoạt động trong vùng Pleiku, Sư Đoàn F 10 CSBV vùng Kon Tum, Sư Đoàn 968 CSBV vùng Tam Biên, biên giới Việt – Miên – Lào. Trung Đoàn 25 VC Địa Phương chuyên quấy phá Đắc Lắc, Quảng Đức. Trung Đoàn Đặc Công 95B VC thường quấy phá phía Đông Pleiku.

Trước khi tấn công Ban Mê Thuột, quân Bắc Cộng được tăng cường thêm Sư Đoàn 316 CSBV từ Nghệ Tĩnh kéo thẳng xuống phía Tây Ban Mê Thuột.

Nói chung tại Quân Khu 2, tương quan lực lượng giữa Quân Đoàn II quân Bắc Cộng đã chênh lệch quá xa, phần thiệt thòi nằm về phía Việt Nam Cộng Hòa. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II chọn dàn quân nặng ở Kon Tum – Pleiku, nhẹ tại Ban Mê Thuột, nên khi trận Ban Mê Thuột xảy ra quân đội Việt Nam Cộng Hòa phải chiến đấu với tỉ lệ 1 chọi 5, hỏa lực và xe tăng là 1 chọi 2.

Chuẩn bị đánh chiếm Ban Mê Thuột, cuối tháng Giêng 1975, Bắc Cộng cho phối trí các đơn vị của họ: từ Tam Biên di chuyển về phía tây Pleiku. Nhưng đoàn xe chở Sư Đoàn 968 CSBV bị không thám Việt Nam Cộng Hòa phát hiện, máy bay oanh tạc của 3 Sư đoàn Không Quân (1,2,6) kéo đến oanh kích liên tục 7 giờ đồng hồ. Sư Đoàn 968 CSBV tan nát, chỉ còn lại khoảng hơn 1 Trung Đoàn. Hà Nội phải lập tức điều động Sư Đoàn 316 CSBV đang đóng ở biên giới Lào – Việt vào thay thế.

Sư Đoàn 3 Sao Vàng CSBV từ Bình Định chuyển quân tới đèo An Khê, cắt đứt đường 19, nhằm ngăn chặn Sư Đoàn 22 BB có thể từ Vùng Duyên Hải kéo lên trợ chiến. Sư Đoàn F 10 CSBV từ Kon Tum bí mật tiến xuống phía Tây Ban Mê Thuột, vây quanh quận Đức Lập, cắt đường 14 nối liền Ban Mê Thuột – Đức Lập.

Sư Đoàn 320 CSBV từ Pleiku chuyển quân xuống phía Bắc Ban Mê Thuột, cắt đường 14 nối liền Ban Mê Thuột – Pleiku.

Trung Đoàn 25 VC tiến về phía Đông Ban Mê Thuột cắt đường 21 nối liền Ban Mê Thuột – Khánh Hòa.

Tàn quân Sư Đoàn 968 CSBV kéo phía Tây Pleiku, nhận nhiệm vụ quấy rối cầm chân 2 Trung Đoàn 44, 45 của Sư Đoàn 23 BB.

Trung Đoàn Đặc Công 95B VC nhận trách nhiệm cắt đứt đường 19 nối liền Pleiku – Quy Nhơn.

Sư Đoàn 316 CSBV từ Nghệ Tĩnh kéo vào sẽ là mũi tấn công trực tiếp Ban Mê Thuột, được 1 Tiểu Đoàn của Trung Đoàn Đặc Công dẫn đường.

Bắc Cộng Bắt Đầu Di Chuyển Quân

Ngày 1/3/1975 Sư Đoàn 3 Sao Vàng đưa quân đóng chốt đèo Mang Yang, trên đường 19. Liên Đoàn 4 BĐQ và Thiết Đoàn 2 KB được lệnh phá chốt nhưng không thành công, vì quân Bắc Cộng rất đông núp trong các hốc núi bắn và pháo kích ra dữ dội. Cùng ngày, tàn quân Sư Đoàn 968 hạ hai đồn Địa Phương Quân rồi bao vây quận Thanh An.

Hoạt động của quân Bắc Cộng trong ngày 1/3 này cho thấy có vẻ như Pleiku là mục tiêu tấn công của họ.

Ngày 4/3/1975 Sư Đoàn 3 Sao Vàng lại đóng chốt trên đường 19, khoảng Bình Khê và Suối Đôi. Hai Trung Đoàn 44, 45 BB của Sư Đoàn 23 BB hành quân phá chốt nhưng không thành công.

Ngày 5/3/1975 Trung Đoàn 25 VC đóng chốt đèo Chư Cúc trên đường 21 phía Đông Ban Mê Thuột, một đoàn quân xa Việt Nam Cộng Hòa bị phục kích bắn cháy tại đây, các binh sĩ sống sót bị địch bắt.

Cùng ngày, một Tiểu Đoàn thuộc Sư Đoàn 320 phục kích đánh đoàn quân xa 14 chiếc của Trung Đoàn 45 thuộc Sư Đoàn 23 BB trên đường 14, khoảng phía Bắc quận Thuần Mẫn. Trung Đoàn 45 BB liền tung 1 Tiểu Đoàn lục soát tìm kiếm dấu vết Sư Đoàn 320, nhưng không kết quả.

Ngày 7/3/1975, quân Bắc Cộng chiếm Chư Xê ở Bắc Buôn Hô, cắt đường 14, đồng thời pháo kích vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II ở Pleiku.

Cùng ngày họ đánh mạnh vào Bình Định thuộc trách nhiệm của Vùng Duyên Hải.

Ngày 8/3/1975, Sư Đoàn 320 CSBV tiến chiếm quận Thuần Mẫn, đường 14 lại bị cắt thêm ở đoạn này.

Ngày 9/3/1975, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú bay lên Ban Mê Thuột họp với các Sĩ Quan cao cấp của Sư Đoàn 23, cùng Đại Tá Tỉnh Trưởng Nguyễn Trọng Luật. Buổi tối cùng ngày quận Đức Lập phía Tây Nam Ban Mê Thuột bị Sư Đoàn F 10 CSBV chiếm, quân Bắc Cộng tiến về Ban Mê Thuột.