Đại Tá Biệt Động Quân Phạm Duy Tất Thăng Cấp Chuẩn Tướng.
Trong một cuộc họp ngày 14 Tháng Ba 1975, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú còn có một thỉnh cầu nữa với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Đó là việc thăng cấp Chuẩn Tướng cho Đại Tá Phạm Duy Tất, Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân Quân Khu II.
Kể từ giữa Tháng Năm 1972, nghĩa là Trận Mùa Hè Đỏ Lửa đang đi dần vào giai đoạn chót. Đại Tá Tất từ Vùng 4 Chiến Thuật đã thuyên chuyển lên Vùng 2 Chiến Thuật và phục vụ tại đây cho đến khi Miền Nam Tự Do bị mất vào tay Cộng Sản. Ông đã làm việc dưới quyền của 3 Vị Tư Lệnh Quân Đoàn: Ngô Dzu, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, và Thiếu Tướng Phạm Văn Phú .
Phạm Duy Tất và Phạm Văn Phú biết nhau từ năm 1955. Thiếu Úy Phạm Duy Tất từ Sư Đoàn 1 Bộ Binh, Đại Úy Phạm Văn Phú vừa trở về từ Điện Biên Phủ đã gặp và quen biết nhau trong cùng một khóa Huấn luyện Dẫn Đạo Chỉ Huy tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Năm 1957 Trung Úy Phạm Duy Tất đang là Huấn Luyện Viên Lực Lượng Đặc Biệt, bất ngờ gặp lại Đại Úy Phạm Văn Phú là khóa sinh Lực Lượng Đặc Biệt. Hai gia đình trở nên thân thiết từ đó.Năm 1960, Thiếu Tá Phú sau khi rời chức vụ Quận Trưởng Quận Trà Cú, Tỉnh Vĩnh Bình (Trà Vinh) về giữ chức vụ Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn 77 Lực Lượng Đặc Biệt thì Đại Úy Tất là Chỉ Huy Phó. Mối thân tình càng phát triển và gắn bó hơn.
Tại Vùng II Chiến Thuật, Đại Tá Tất phục vụ dưới quyền Tướng Ngô Du không bao lâu thì đến Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tướng Toàn lập tức giao phó cho Đại Tá Tất trực tiếp chỉ huy Biệt Động Quân hành quân đánh phá chốt của quân Bắc Cộng đang chận tại đèo Chu Pao, khai thông quốc lộ 14 mở đường tiếp vận đường bộ từ Pleiku vào Kon Tum. Sau thắng lợi này, Tướng Toàn giao cho Đại Tá Tất chỉ huy lực lượng Biệt Động Quân gồm 3 Liên Đoàn xử dụng như một Chiến Đoàn Biệt Động Quân trấn giữ Kon Tum thay thế Sư Đoàn 23. Sự kiện này chẳng khác gì Biệt Động Quân Quân Khu 3(Biên Hòa) của Đại Tá Nguyễn Thành Chuẩn đã tổ chức thành Chiến Đoàn vào trấn giữ An Lộc thay thế Sư Đoàn 18.
Theo sự hiểu biết của tác giả thì tổ chức Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Quân Khu được thành lập không có chức năng là một Bộ Chỉ Huy để chỉ huy hành quân, tập trung các đơn vị Biệt Động Quân. Nhưng từ hồi còn Vùng 4, Đại Tá Tất đã khai triển nó để giúp cho Biệt khu 44 có quân xử dụng linh hoạt và hiệu quả. Tướng Toàn tại Vùng II cũng như Tư Lệnh Vùng III đã áp dụng cách thức xử dụng Biệt Động Quân như vậy. Chỉ có ở Quân Khu I vẫn chưa thực hiện được.
Nâm 1973 Biệt Động Quân cải tổ một lần nữa, chính thức thành lập các Liên Đoàn Biệt Động Quân Biên Phòng theo mô hình các Liên Đoàn Biệt Động Quân Chiến Thuật do Đại Tá Tất thành lập từ đầu năm 1971 để thống hợp chỉ huy các Tiểu Đoàn Biên Phòng trong khi tác chiến. Bộ Tổng Tham Mưu giải tán Biệt Động Quân của Quân Khu IV và đưa 2 Liên Đoàn tăng cường cho Biệt Động Quân của Quân Khu II là Liên Đoàn 24 và Liên Đoàn 25.
Biệt Động Quân của Quân Khu II dưới quyền của Đại Tá Phạm Duy Tất lúc đó đã có 5 Liên Đoàn gồm 4 Liên Đoàn Biên Phòng và 1 Liên Đoàn Tiếp Ứng. Tướng Toàn, Tư Lệnh Quân Đoàn II, đã coi lực lượng Biệt Động Quân như một Đại Đơn Vị, tương đương với Sư Đoàn 22, Sư Đoàn 23. Tướng Toàn giao hẳn hai lãnh thổ Kon Tum – Pleiku cho Đại Tá Tất và Biệt Động Quân hành quân an ninh, bình định cũng như Sư Đoàn 22 trách nhiệm tỉnh Bình Định và Phú Yên, Sư Đoàn 23 trách nhiệm tỉnh Darlac và Quảng Đức. Có một lực lượng Biệt Động Quân thống hợp 3 Liên Đoàn, ở Vùng Cao Nguyên Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II đã có thể cơ động hóa Sư Đoàn 23 – một phần của Sư Đoàn 22 – và Liên Đoàn 23 Biệt Động Quân Tiếp Ứng.
Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Quân Khu II đã phải thường xuyên hành quân mở rộng vành đai KonTum. Mở đường diệt chốt tại đèo Chư Pao vì quân Bắc Cộng liên tiếp ngăn chận con đường tiếp tế giữa Pleiku và KonTum. Biệt Động Quân cũng đã phá vỡ nhiều cuộc tấn kích của Quân Bắc Cộng vào Quận Thanh An, phía Tây Pleiku; và yểm trợ giữ vững Căn cứ Pleime.Ngoài ra còn có nhiều lần hành quân diệt pháo của quân Bắc Cộng đặt ở phía Tây Pleiku bắn vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II hay phi trường Cù Hanh.
Trong năm 1973 Liên Đoàn 23 Biệt Động Quân Tiếp Ứng đã thường xuyên tăng cường cho Quân Đoàn I để hành quân vùng Đức Phổ, Mộ Đức, Sa Huỳnh thuộc tỉnh Quãng Ngãi. Tướng Toàn giao cho Đại Tá Tất trực tiếp phối hợp với Quân Đoàn I việc xử dụng Biệt Động Quân. Thỉnh thoảng cũng tăng cường Liên Đoàn Biệt Động Quân cho Tiểu Khu Quảng Đức.
Trung Tướng Toàn đã xử dụng Đại Tá Tất và lực lượng Biệt Động Quân Vùng 2 Chiến Thuật như vậy trong suốt thời gian ông làm Tư Lệnh Quân Đoàn II như một thông lệ. Nhưng phải đến lúc Thiếu Tướng Phạm Văn Phú nắm Tư lệnh Quân Đoàn II thì Đại Tá Tất mới đuợc chính thức bổ nhiệm là Tư Lệnh Mặt Trận KonTum – Pleiku. Thực sự thì vai trò, nhiệm vụ của Đại Tá Tất và Biệt Động Quân Quân Khu II không mảy may thay đổi, nhưng danh xưng mới đã nói lên vai vế, quyền lực của một cấp chỉ huy.
Có một vài tác giả viết ngụ ý rằng việc thăng cấp cho Đại Tá Tất là nhằm chuẩn bị cho ông chỉ huy Cuộc Triệt Thoái Quân Đoàn II. Tướng Tất cho tác giả biết điều này hoàn toàn không đúng. Hồ sơ đề nghị thăng cấp Tướng của ông đã được gửi về Bộ Tổng Tham Mưu từ trước, dựa theo đơn vị, khả năng chỉ huy của ông, và trách nhiệm mà ông đã hoàn thành từ thời Tướng Toàn cho tới lúc đó. Hơn nữa còn phải phù hợp với bảng cấp số của chức Tướng.
Trong bất cứ quân đội nào, một Đại Tá được đề nghị đặc cách lên Tướng thường phải được vị Tướng Tư Lệnh chỉ huy trực tiếp đề bạt, đề nghị cho mình. Việc Thiếu Tướng Phú đề nghị với Tổng Thống Thiệu đặc cách cho Đại Tá Tất được mang lon Tướng chỉ là một tiền lệ mà tất cả các cấp Chỉ huy, Tướng Lãnh trong quân đội mình vẫn làm, tránh được phải chờ đợi những thủ tục tham mưu chậm chạp, để việc thăng thưởng cho thuộc cấp của mình nhanh chóng hơn. Đây cũng là sự biểu hiện trọng lượng tiếng nói, uy tín nặng nhẹ của vị Tư Lệnh đối với Thượng Cấp.
Tác giả cũng nhận thấy, nếu như Đại Tướng Đỗ Cao Trí, Tư Lệnh Quân Đoàn III, không bị tử nạn trực thăng thì có lẽ Đại Tá Nguyễn Thành Chuẩn, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Quân Khu III, cũng đã được thăng lên Tướng, không chừng còn trước cả Tướng Tất.
Từ Cam Ranh trở về Pleiku, Tướng Phú liền triệu tập ngay buổ họp tại Trung Tâm Hành Quân Quân Đoàn gồm Chuẩn Tướng Tư Lệnh Phó Trần Văn Cẩm, Chuẩn Tướng Tư Lệnh Phó Quân Khu Lê Vân Thân, Chuẩn Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn 6 Không Quân Phạm Ngọc Sang, Đại Tá Tư Lệnh Mặt Trận KonTum – Pleiku Phạm Duy Tất, Đại Tá Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn Lê Khắc Lý.
Bắt đầu buổi họp, Tướng Phú tuyên bố Tổng Thống Thiệu đã đặc cách thăng Chuẩn Tướng cho Đại Tá Phạm Duy Tất, tiếp theo là lễ gắn một sao cho ông. Tướng Tất tâm sự, tôi vui chỉ có một mà buồn tới mười. Lòng đau như cắt vì liền đó Tướng Phú thông báo Quân Lệnh rút bỏ Quân Khu II của Tổng Thống.
Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II, Đại Tá Lê Khắc Lý thì kể mọi người hiện diện trong buổi họp đếu sửng sốt trước quân lệnh này, không ai nói nên lời.
Tướng Tất cho biết sau đó ông trở về Bộ Chỉ Huy Hành Quân đóng tại căn cứ Hàm Rồng, lòng buồn rười rượi, ngổn ngang trăm thứ. Liên Đoàn 25 Biệt Động Quân chỉ với 2 Tiểu đoàn đang phải quần thảo ác liệt với Sư Đoàn 968 CSBV. Ông không thiết gọi báo tin mình đã lên Tướng với vợ con đang ở tại Nha Trang.
Sau này ở hải ngoại, khi nhắc lại việc Đại Tá Phạm Duy Tất được đặc cách lên Chuẩn Tướng, một số người viết đã liên kết việc này với Cuộc Triệt Thoái Quân Đoàn II. Vì vậy họ thường nhắc lại một đoạn của Đại Tướng Cao Văn Viên viết kể lại cuộc họp ở Cam Ranh ngày 14 tháng Ba 1975:
“Tôi không quen thân với Đại Tá Tất nhưng được nghe ông là người có khả năng, nhưng làm Tư Lệnh chiến trường thì không có bằng chứng nào chứng minh ông ta có khả năng. Tôi liền phản đối ngay và nói rằng khi nào tái phối trí xong rồi mới nói đến. Tổng Thống Thiệu tỏ ra do dự nhưng thấy tôi nói có lý nên không đồng ý việc thăng cấp. Thế nhưng, Thiếu Tướng Phú khẩn khoản xin cho bằng được. Cuối cùng Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cũng đồng ý thăng cấp Chuẩn Tướng cho Đại Tá Phạm Duy Tất”.
Với đoạn văn nêu trên của Đại Tướng Viên, những người viết ấy đã cho rằng Đại Tướng muốn bác bỏ đề nghị của Tướng Phú, hoặc Đại Tướng có ý cho rằng Đại Tá Tất chưa xứng đáng với đề nghị của Tư Lệnh Quân Đoàn II. Theo tác giả, cách nhận định này không chính xác lắm. Theo đúng nguyên tắc, mỗi khi Tổng Thống nhận được đề nghị thăng Tướng cho một vị Đại Tá, ông luôn luôn hỏi qua ý kiến của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng, tuy nhiên, có rất nhiều trường hợp ý kiến của Đại Tướng sẽ không ảnh hưởng đến chủ định đã có sẵn của Tổng Thống. Truờng hợp của Đại Tá Phạm Duy Tất, ý kiến của Đại Tướng có hai vế, một nửa là khen, nửa kia có tính cách dè dặt thường lệ. Tổng Thống chỉ chờ Tướng Phú tiếp tục mạnh mẽ đề nghị thăng cấp ngay cho thì lập tức đưa ra quyết định tối hậu của ông.
Sở dĩ câu viết Đại Tướng Viên bị “hiểu lầm” là vì … nó rất đáng bị hiểu lầm. Tại sao việc thăng cấp lại có vụ phải “quen thân” trong đó? Đại Tướng còn đòi hỏi “bằng chứng làm tư lệnh chiến trường” của ông Tất khiến tác giả lấy làm tiếc cho các Sĩ Quan cấp Đại tá thuộc binh chủng Biệt Động Quân. Đơn vị tác chiến cao nhất của binh chủng chỉ đến cấp Liên Đoàn, các vị ấy nếu muốn được tiếp tục thăng tiến e rằng con đường duy nhất là phải xuất binh chủng. Bởi vì Bộ Tổng Tham Mưu không tổ chức cho Biệt Động Quân có những đơn vị ở cấp cao hơn như Chiến Đoàn,Binh Đoàn, Sư Đoàn,v.v..Trường hợp của Đại Tá Tất lại cho thấy Bộ Tổng Tham Mưu không hề theo sát diễn biến chiến trường. Ai đã giúp khóa chặt biên giới Việt – Miên Vùng 4 Chiến Thuật, không cho Sư Đoàn 1 CSBV xâm nhập vào vùng đồng bằng sông Cửu Long từ năm 1970 trở về sau bằng 3 trận Cô Tô – Rừng Tràm Trà Tiên – Mộc Hóa? Ai đã chỉ huy chống giữ căn cứ Kampong Trach năm 1972 khiến Sư Đoàn 1 CSBV bị xóa sổ? Ai đã được Tướng Toàn – Tướng Phú giao cho nhiệm vụ Tư Lệnh mặt trận Kon Tum – Pleiku từ năm 1972 đến 1975 (Tướng Toàn khởi đầu – Tướng Phú hợp thức hóa)? Nếu Bộ Tổng Tham Mưu không nhận ra được những thành tích của một Đại Tá Biệt Động Quân chỉ vì quen nghĩ, quen nhớ rằng Biệt Động Quân chỉ có thể đến cấp Liên Đoàn và luôn luôn bị đưa đi tăng phái cho các đơn vị khác thì bất công quá.
Ở đây, tác giả cũng thấy được Tướng Phú là người rất sành tâm lý. Mặc dù hồ sơ đề nghị thăng Tướng cho Đại Tá Tất đã được gửi về Sài Gòn từ lâu, nhưng lợi dụng lúc Tổng Thống đang cần sự “thông cảm” của ông với lệnh buộc triệt thoái Quân Đoàn II mà ông không thể cưỡng, Tướng Phú đã đòi hỏi sự “thông cảm” ngược lại từ Tổng Thống, đề nghị đặc cách ngay cho Đại Tá Tất. Thay vì để cho ông Tất ngồi chờ hồ sơ đề nghị của mình được cứu xét chậm chạp theo thủ tục hành chánh..
Nhưng có điều kẹt cho Tướng Tất là có một số người viết đã không nhìn ra “đòn tâm lý” Tướng Phú xử dụng trong cuộc họp Cam Ranh, rồi tưởng tượng rằng Tướng Phú đã hứa hẹn với Tổng Thống Thiệu là tân Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất sau đó sẽ nhận trách nhiệm “Tổng Chỉ Huy” Cuộc Triệt Thoái Quân Đoàn II. Buồn cười là sự tưởng tượng ấy được lập đi lập lại nhiều lần thì đã …biến thành “sự thật”, mặc dù bài viết của Đại Tướng Viên mà họ trích dẫn cũng không hề đề cập đến việc như thế.
Ngoài việc đạt tiêu chuẩn thăng cấp, ngoài “đòn tâm lý” của Tướng Phú, ở một phần sau độc giả sẽ còn thấy phần “tình nghĩa” giữa Tướng Phú và Tướng Tất: Đại Tá Phú(Tư Lệnh Biệt Khu 44 năm 1970) được Phó Tổng Thống Trần Văn Hương gắn lon Chuẩn Tướng là nhờ chiến thắng trận Rừng Tràm Trà Tiên do Trung Tá Tất gài địch và chỉ huy trận chiến.