← Quay lại trang sách

Trận Pleime (thứ nhì) 1974.

Trại Biên Phòng thời Lực Lượng Đặc Biệt tuy quân là Dân sự Chiến Đấu nhưng nhờ phương tiện đầy đủ, yểm trợ từ Không Quân dồi dào, quân tăng viện sẵn sàng, nên quân Bắc Cộng khó đánh chiếm được. Khi cải tuyển thành Biệt Động Quân Biên Phòng thì các thứ vừa kể coi như giảm xuống tối thiểu nếu không nói là mất hẳn. Trại Biên Phòng bấy giờ, vẫn nằm cô lập ở những nơi đèo heo hút gió, giữa núi rừng trùng điệp, nhất là ở các Vùng 1, 2, 3 Chiến Thuật, vì vậy lâm vào tình trạng hiểm nguy vô cùng. Quân Bắc Cộng có thể dễ dàng đánh chiếm khi họ muốn. Nhưng đóng trại rồi rút bỏ trại đồng nghĩa vói giao đất cho địch, điều mà Chủ trương 4 Không của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cương quyết không chấp nhận, thì không chỉ huy nào muốn giải quyết tận gốc vấn đề hiểm nguy này của các Trại Biên Phòng. Chẳng thà chờ khi nào địch tấn công thì ta cố sức đánh giải tỏa, nếu không được, có bị mất luôn cũng còn... nhẹ tội hơn. Tướng Tất chỉ huy Biệt Động Quân Vùng 2, lại là gốc Lực Lượng Đặc Biệt, chứng kiến các Trại Biên Phòng Vùng 1–2– 3 lần lượt mất hết, ông Tất than thở với tác giả, buồn đứt ruột Đỗ Sơn ơi. Bây giờ Tướng Tất chỉ còn nhớ được hai vụ, Trại Ben Het và Trại Pleime.

Trại Ben Het của Tiểu Đoàn 95 Biệt Động Quân Biên Phòng, vì nằm quá sát đường 14 nên quân Bắc Cộng bỏ qua trong khi họ đang nỗ lực mở rộng con đường, nhưng khi nó đã hoàn thành để họ tải chiến cụ, tiếp liệu thì chắc chắn Trại này sẽ bị thanh toán. Lúc quân Bắc Cộng mở trận tấn công Trại Ben Het, ngày nào Tướng Healey cũng cùng bay lên với Đại Tá Tất để yểm trợ Không Quân cho Trại. Tướng Tất kể, ngày nào Trại cũng bị pháo kích liên miên, CSBV không muốn Trại Ben Het đưa quân ra quấy rối công tác làm đường của họ. Hai chúng tôi trên cao nhìn xuống thấy khẩu pháo đặt bắn vào Trại rất rõ. Khẩu pháo này nguyên là của chúng ta đã bị địch quân lấy vào lúc Tân Cảnh mất, nó vẫn tiếp tục để tại chỗ, dùng súng ta bắn quân ta. Đánh vài phi tuần mà chẳng ăn nhằm gì cả, Tướng Healey nói cần phải dùng tia Laser mới triệt hạ được. Ông ta nói xong gọi ra Hạm Đội 7 xin phi tuần. Tướng Tất nhớ lại, 1 phi tuần gồm 2 Khu trục cơ bay vào, chiếc bay trước chiếu tia Laser vào hướng khẩu pháo, chiếc thứ nhì bắn và ném bom, khẩu pháo nổ tung văng lên trời nhìn thật đã. Đó là thời xưa, bây giờ máy bay trang bị tia Laser vừa chiếu vừa đánh bom rất chính xác.

Nhưng, ông Tất thở dài, việc làm của Tướng Healey chỉ là vì chút cảm tình cuối cùng với Trại Biên Phòng trước khi ông ta vĩnh viễn rời khỏi Việt Nam. Trại đâu có trụ được lâu, đành phải chịu mất thôi. Đối với Pleiku, Trại Biên Phòng Pleime và Quận Thanh An là 2 cái gai trong mắt của Sư Đoàn 320 CSBV. Chiếm được 2 cứ điểm này thì Bắc Cộng mới có được một hậu phương lớn an toàn từ Kontum xuống đến Ban Mê Thuột. Dù hai thị xã Kontum và Pleiku vẫn còn trong tay Việt Nam Cộng Hòa thì cũng không gây khó khăn gì cho họ. Trận Pleime thứ nhì xảy ra trong 2 tháng 7 – 8 năm 1974.

Tác giả: Tôi nhớ Chuẩn Tướng khi mang Thiếu Tá chỉ huy lực lượng Delta đã từng vào giải vây Trại Pleime hồi năm 1965?

Tướng Tất: Đúng vậy, cũng là Sư Đoàn 320, lúc họ mới xâm nhập, bây giờ thì họ quá quen thuộc với Vùng Tây Nguyên, họ đang dốc toàn lực thanh toán Trại Pleime lần nữa. Tôi muốn nói qua một chút về Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 82, đó là Thiếu Tá Vương Mộng Long...

Tác giả: Tôi có nghe đến tên của Thiếu Tá Long.

Tướng Tất: Ừ, đây là một Sĩ quan có duyên với tôi. Khi tôi vừa từ Vùng 4 tới Pleiku thì anh Long đang là Đại Úy thuộc Tiểu Đoàn 11, Liên Đoàn 2 Biệt Động Quân Tiếp Ứng. Đại Úy Long tìm tôi than phiền về người chỉ huy tiền nhiệm. Tôi không muốn tò mò về chuyện này. Tôi biết Long kẹt trong vụ “Phật Giáo Miền Trung”, bị thuyên chuyển lên Pleiku. Nhìn và qua cách nói chuyện tôi nhận xét Long là người nóng nhưng trực tính, nói theo kiểu lính thì hơi gàn gàn. Với tính này, nói năng ngang ngang dễ bị trù dập lắm. Nhưng với tôi thì khác, ngựa chứng thường là ngựa hay, ngựa chiến, tôi thấy ở Đại Úy Long một Sĩ quan sẽ còn tiến xa. Nên tôi kéo Long về làm Trưởng Phòng 2, hướng dẫn cho hoạt động trinh sát theo cách Lực Lượng Đặc Biệt. Đối với anh ta chẳng phải khó khăn gì vì đã từng là trinh sát Biệt Động Quân. Đúng như tôi dự đoán, Đại Úy Vương Mộng Long đã thực hiện được nhiều cuộc hành quân rất xuất sắc, tôi chạy đặc cách cho Long lên Thiếu Tá thực thụ rồi đưa về nắm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân Biên Phòng.

Để tấn công Trại Pleime quân Bắc Cộng xử dụng quân 2 Trung Đoàn 9 và 48 CSBV cộng thêm Trung Đoàn 26 VC của Mặt Trận B3. Vào lúc trận đánh lên cao điểm, Bắc Cộng đưa thêm Trung Đoàn 64 CSBV nhập trận đánh biển người. Họ cũng tổ chức được 12 vị trí đặt súng phòng không xung quanh Pleime để bắn chận các phi vụ tản thương, tiếp tế và đối đầu với các trận không tập.

Phía lực lượng trấn thủ gồm 4 Đại Đội thuộc Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân Biên Phòng của

Thiếu Tá Vương Mộng Long và 1 Đại Đội thuộc Tiểu Đoàn 81. Lực lượng này phải giữ Trại Pleime và hai tiền đồn Chư Hô và Đồi 509. Sau một tuần lễ ác chiến, tiền đồn Chư Hô bị tràn ngập. Một tuần sau tới phiên đồi 509. Bấy giờ, lực lượng đông đảo quân Bắc Cộng tập trung đánh vào trung tâm căn cứ Trại Pleime. Quân trấn thủ kể, Bắc Cộng bắt đầu đánh vào Trại bằng hàng loạt pháo 130 ly, 120 ly, súng cối 82 ly, và súng phòng không đặt từ tiền đồn Chư Hô bắn thẳng xuống Trại. Và còn đạn SKZ tiếng “départ” chưa nghe kịp thì đầu đạn đã nổ ngay sân chính của Tiểu Đoàn. Pháo dồn dập, triền miên. Nhớ câu dặn dò “Tử Thủ” của Đại Tá Tất, lệnh của Thiếu Tá Long là tiết kiệm từng viên đạn, chỉ bắn khi chắc chắn hạ được địch quân. Phía lực lượng trấn thủ trông chờ vào không yểm, nhất là Hỏa Long ban đêm, để buộc địch phải im tiếng pháo. Ngoài vấn đề thiếu đạn đánh địch, kho quân lương cũng bị pháo địch hăm dọa, lại còn vào mùa ngập nước binh sĩ phải tát nước liên miên để... cứu gạo. Đã có lúc Tiểu Đoàn gần như tuyệt vọng, Thiếu Tá Long phải nói với anh em binh sĩ “Nếu không giữ được căn cứ thì chúng ta phải ‘ra đi’ cho thật đẹp”. Câu nói này được thu âm lại để nếu chuyện không may xảy ra thì còn có mà lưu gương bất khuất.

Theo lời thuật của lực lượng trấn thủ Trại Pleime, quân Bắc Cộng thường xuyên tấn đến được sát hàng rào trại, đến nỗi nếu ban ngày phi cơ thả dù tiếp tế lạc ra khỏi trại là đêm đó binh sĩ Biệt Động Quân đành phải “ngửi ké” mùi thuốc lá của ta do địch phì phà. Tướng Tất than rằng minh có tới 5 Liên Đoàn, 4 Biên Phòng và 1 Tiếp Ứng nhưng không được chỉ định hành quân cứu trợ Trại Pleime vì mình đang chịu trách nhiệm phòng thủ Kontum, Thanh An. Có thể Tướng Toàn nghĩ Liên Đoàn Biệt Động Quân không đủ mạnh để đối đầu với Sư Đoàn 320 CSBV, cũng có thể vì Sư Đoàn 22 BB đang hành quân cơ động nên để Sư Đoàn tham chiến. Nếu có diễn tiến phức tạp thì cũng dễ đối phó hơn. Trung Đoàn 42 BB nhận nhiệm vụ này, chủ trương kéo Sư Đoàn 320 CSBV ra để đánh tiêu hao và làm giảm áp lực địch. Vậy mà sau 33 ngày đêm, Trại Pleime vẫn không di tản chiến thuật. Sư Đoàn 320 CSBV với 20 lần tấn công biển người vào căn cứ đều bị đánh bật ngược ra, không một lần thành công. Địch tổn thất khá nặng, vừa nản vừa lo ngại sẽ bị các lực lượng tăng viện bao vây tập kích đành phát lệnh lui binh. Thiếu Tá Long sau khi nhận được tiếp tế, đã dẫn quân tiến chiếm lại hai hai tiền đồn Chư Hô và Đồi 509.

Tướng Tất: Tôi có điều này yêu cầu anh Đỗ Sơn. Khi viết cuốn sách, anh đừng quên những lời nói này của tôi. Trận Pleime 1974 là một trận lớn, một chiến công xuất sắc của Thiếu Tá Vương Mộng Long và Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân Biên Phòng, Thiếu Tá Long xứng đáng được thăng cấp đặc cách Trung Tá. Nhưng tôi đã làm lỡ mất cơ hội này. Tới bây giờ tôi cố gắng nghĩ tại sao có trường hợp xảy ra như thế mà vẫn không thể nhớ. Tôi rất quý mến Long, vẫn coi Long như người em của mình, nói theo giọng lính hồi xưa thì Thiếu Tá Vương Mộng Long là “con gà” của tôi. Vậy mà tôi đã không làm tròn bổn phận của đàn anh, đây là một trong vài chuyện khiến tôi ân hận nhất trong suốt cuộc đời làm lính của mình.

Ngoài ra tôi cũng muốn nói lời cám ơn với Tướng Sang, Tư Lệnh Sư Đoàn 6 Không Quân, và Đại Tá Bút, Không Đoàn Trưởng. Vì biết tôi phải bay thường xuyên và gặp rất nhiều nguy hiểm nên hai vị đã cấp cho tôi một phi công can đảm, dày dạn kinh nghiệm, hằng ngày không thay đổi, là Đại Úy Toàn. Tôi biết đây không phải là cách đối xử thường lệ của Không Quân. Đại Úy Toàn hằng ngày bay vào Pleime với tôi, có lúc đạn phòng không 37 ly và 12 ly 7 bắn lên tua tủa nhưng anh Phi công này đã nhanh nhẹn làm “auto” rớt xuống bay la đà phía trên các ngọn cây tránh đạn. Lại có một ngày tôi muốn đáp thẳng xuống Trại Pleime thăm Thiếu Tá Long và khuyến khích anh em binh sĩ, với sự hướng dẫn của Thiếu Tá Long, Đại Úy Toàn đã lòn lách được xuống Trại. Lại phải bay ra rồi bay vào đón tôi, nguy hiểm không biết dường nào.

Đến đây thì phần “Binh Nghiệp của Vị Tướng Việt Nam Cộng Hòa Cuối Cùng” đã chấm dứt, vì đoạn chót đã được trình bày từ đầu cuốn sách, với “Trận Ban Mê Thuột”, “Cuộc họp Cam Ranh”, “Cuộc Triệt Thoái Quân Đoàn II”, v.v…

Tác giả từng viết rằng giới lãnh đạo quân sự cao cấp người Mỹ nhận định rằng một khi các Sĩ Quan trung cấp Việt Nam Cộng Hòa đã trở thành cấp chỉ huy cao cấp thì thắng lợi sẽ nghiêng về Miền Nam. Vào những năm cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa, một tin đồn rộng rãi khiến giới Sĩ quan trẻ rất phấn khởi: Trung Tướng Ngô Quang Trưởng sắp trở thành Tổng Tham Mưu Trưởng. Khởi đầu từ Ngô Quang Trưởng, tương lai quân đội Việt Nam Cộng Hòa còn có Phạm Văn Phú, Nguyễn Duy Hinh, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Văn Thân, Bùi Thế Lân, Lê Quang Lưỡng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Quang Khôi, Lê Minh Đảo, Trần Văn Nhựt, Lý Tòng Bá, Mạch Văn Trường, Phạm Duy Tất v.v…và các Sĩ quan cấp Tá đang nắm các chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng, Trung Đoàn Trưởng, Liên Đoàn Trưởng …Rất tiếc, giới quân sự Mỹ có thể chờ đợi, nhưng chính phủ của họ thì chỉ muốn ù té chạy cho sớm, dù phải ra tay ám sát quân sự “đồng minh”. Rất tiếc, Chính phủ và giới chỉ huy quân sự cao cấp của Miền Nam thì chỉ duy nhất một tinh thần lệ thuộc Mỹ. Nên mọi hy vọng của phía quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã biến mất chỉ trong vòng 55 ngày ngắn ngủi.

Đêm 30 tháng Tư 1975, ngồi trên tàu đang lênh đênh giữa biển khơi, thình lình chiếc radio của người bạn bên cạnh thoát ra lời kết của đài BBC bén hơn dao nhọn: Cuối cùng thì quân đội Việt Nam Cộng Hòa, một đạo quân thiện chiến nhất Vùng Đông Nam Á, đã phải bại trận trước quân Cộng Sản Bắc Việt! Những giòng nước mắt đầm đìa, những tiếng nấc nghẹn ngào không thể dằn xuống được, đám người ngồi nằm xung quanh chiếc radio nhìn nhau khóc nức nở, những lồng ngực như bị quả đấm ngàn cân vô hình nện vào, một lời thốt ra không nổi. Chỉ còn biết cúi chụm đầu khóc với nhau. Trong nhiều kiếp luân hồi, mỉa mai thay chiến tranh mang lại sự tiến bộ cho loài người, nên có lẽ ai đã từng làm lính, không ai xa lạ với nghề làm lính, từ lúc thuyền nan gậy gộc cho đến tàu buồm gươm đao, rồi tàu ngầm máy bay, súng ống hỏa tiễn, nhưng kinh nghiệm làm lính thất trận phải là thê thảm nhất. Mà chỉ vì bị Ám sát. Trong ba thế lực Ta – Bạn – Thù, quân đội mình bị Ám sát bởi Bạn và Ta, còn Thù chỉ là “kẻ thừa hưởng”, có đau không?!

Viết phần “Binh Nghiệp của Vị Tướng Việt Nam Cộng Hòa Cuối Cùng” đi khá sâu vào chi tiết, tác giả chỉ hy vọng trình bày cho những độc giả không dính líu hoặc sinh sau cuộc chiến tranh Quốc – Cộng thấy được những hy sinh, cố gắng của quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Chúng ta có thể đoan chắc rằng đồng thời với Sĩ Quan Phạm Duy Tất, quân đội Việt Nam Cộng Hòa còn có rất nhiều Sĩ Quan khác tương tự như vậy hay giỏi hơn nữa không chừng. Hiện tại, vị Tướng cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa đã vào tuổi 80 và rất siêng năng đi Nhà Thờ mỗi cuối tuần. Vẫn tuân phục mọi sắp đặt là do Thượng Đế, ta phải vui vẻ chấp nhận thôi sau khi đã cố gắng hết mình. Ông nói với tác giả, tôi thấy hay nhất là anh kết luận cho cuốn sách này: Tất cả đều do Thượng Đế sắp đặt.

Nhưng tác giả không chịu vậy, niềm tin của ông thì tại sao tôi lại phải viết chứ? Vả lại cuốn sách viết về Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất Và Sự Thật Cuộc Triệt Thoái Quân Đoàn II thì Lời Kết phản ảnh trung thực nhất chắc chắn là nên do nhân vật chánh.Vậy xin mời Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất và độc giả …