Quan Niệm Mới Về Biên Phòng Vùng 2 Chiến Thuật
Tác giả: Chuẩn Tướng lại có sáng kiến?
Tướng Tất: Anh Đỗ Sơn cần biết điều này, các đơn vị tôi chỉ huy hồi trước bên Lực Lượng Đặc Biệt, các Đại Đội, Tiểu Đoàn Biệt Cách Dù, Trung Tâm Huấn Luyện – Hành Quân Delta tiền thân của Liên Đoàn Biệt Cách Nhảy Dù; mình gọi gì thì gọi chứ Mỹ thì họ gọi chung là những đơn vị Airborne Ranger. Chữ Ranger đó, mình chuyển dịch là Biệt Động Quân, Biệt Kích, Biệt Cách, đủ thứ danh xưng nhưng mẫu số chung của nó chỉ có một: quan niệm xử dụng. Nếu ta tổ chức tốt, huấn luyện tốt, vận dụng tốt thì chẳng phải đơn vị Biệt Động Quân là một đơn vị hoạt động rất đa dạng, rất linh hoạt, rất thiện chiến hay sao? Đơn vị có khả năng chiến đấu trong mọi tình huống: đánh ngày cũng được mà đánh đêm cũng xong. Đánh cấp nhỏ, du kích, biệt kích thám sát hữu hiệu mà đánh cấp đơn vị tập trung càng hữu hiệu hơn, nhất định không thua kém ai. Hành quân rừng núi là sở trường mà hành quân vùng đồng bằng, trong thành phố, càng được phát huy mạnh. Hãy nhớ lại quan niệm tiên khởi khi thành lập Biệt Động Quân, với những Đại Đội Biệt Động Quân Biệt Lập, không phải là điều tôi từng nói hay sao?
Dù thành lập ở cấp nào: Đại Đội, Tiểu Đoàn, Liên Đoàn, thậm chí Sư Đoàn thì Biệt Động Quân vẫn là một đơn vị thiện chiến, tinh nhuệ, đa năng đa dụng.Theo tôi, các Tư Lệnh Quân Đoàn / Quân Khu đã xử dụng lực lượng này với một quan niệm duy nhất là lực lượng xung kích, mũi nhọn trong vai trò trừ bị của Quân Khu. Để đáp ứng vai trò mới này của Biệt Động Quân nên Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân cũng đi xa dần với mục tiêu lúc ban đầu. Cho dù các Trại Biên Phòng thuộc Vùng 1, 2, 3 không còn, một dãy dài biên giới đã thuộc về CSBV, nhưng nếu lực lượng Biệt Động Quân được xử dụng đúng quan niệm, huấn luyện tốt, ta vẫn có thể gây khốn đốn cho quân Bắc Cộng. Biệt Động Quân có thể phân tán ra, và có thể nhanh chóng tập trung lại, có thể hoạt động lâu hơn trong rừng, ngày cũng như đêm, không cần pháo yểm hay không yểm dồi dào vì các điều này ta không còn, nhưng Biệt Động Quân vẫn đủ khả năng đánh phá con đường Hồ Chí Minh mà CSBV đã nối vào quốc lộ 14. Chúng ta sẽ không để cho họ tự do đi lại dễ dàng, con đường dài muốn bảo vệ hữu hiệu thì họ sẽ phải đổ vào đó bao nhiêu quân? Ta sẽ chốt chận khiến cho họ mất ăn mất ngủ như họ đã chốt chận các trục lộ của chúng ta. Chúng ta phải biết “liệu cơm gắp mắm” nhưng nhất quyết không để CSBV yên ổn như họ mong muốn. Năm 1973 Tổng Tham Mưu bắt đầu tính đến cách giải quyết về lực lượng Tổng Trừ Bị cho quân đội, họ gom các Tiểu Đoàn Biệt Động Quân Biên Phòng lại lập thành các Liên Đoàn Biệt Động Quân Biên Phòng như tôi đã làm một cách không chính thức ở Vùng 4 năm 1970. Ý niệm thành lập các Sư Đoàn Biệt Động Quân như mình đã nói tới nói lui nhiều lần thì đã có, nhưng vẫn tiếp tục là ý niệm đang nằm ở Bộ Tổng Tham Mưu và Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Trung Ương.
Tôi nhận Biệt Động Quân Vùng 2, cao nguyên núi rừng, tôi mang hoài bão, tìm một sáng kiến xây dựng một quan điểm mới khác với những gì tôi đã thực hiện ở Vùng 4. Healey đã khiến cho tôi thấy được tôi phải làm gì, thay đổi gì. Bây giờ tôi đang suy nghĩ tôi có thời gian hay không? Đó là ước nguyện của tôi nếu được mang cấp Tướng. Phải ở cấp Tướng thì tiếng nói mới đủ mạnh để đưa ra quan niệm Biên Phòng và thực hiện nó đối với Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn. Tôi không còn là cấp Tiểu Đoàn Trưởng, Liên Đoàn Trưởng để trực tiếp rèn luyện các Sĩ quan, binh sĩ của mình. Nhưng tôi không có quyền tự chọn lựa các Liên Đoàn Trưởng của mình, và biết rõ mình không dễ dàng gì thuyết phục được cấp trên. Vì vậy trong quá khứ tôi cứ lẳng lặng thực hiện trước. Nhưng lần này quy mô lớn hơn, đơn vị lớn hơn, thời gian lâu dài hơn, khó khăn nhất và cũng là cốt lõi, là quyền tự bổ nhiệm các Liên Đoàn Trưởng, nhưng tôi biết đâu thể vượt qua các nguyên tắc của Tướng Giai ở Bộ Chỉ Huy Trung Ương. Chỉ có những Liên Đoàn Trưởng trẻ, năng động, dám nghĩ dám làm, do tôi bổ nhiệm thì mới tích cực, có nhiều sáng kiến ứng dụng cho quan điểm của tôi. Nhưng vị trí của tôi thì quá nhỏ so với quan niệm tổ chức quá lớn đó, một phần nữa có liên quan tới vị Tư Lệnh Quân Đoàn tôi đang phục vụ dưới quyền. Mặc dù tôi có uy tín với Tướng Toàn, hàng ngày ông đối xử với tôi rất tốt, thân thiện, tử tế, nhưng tôi vẫn không nằm trong “băng” của ông, và thật ra tôi cũng chưa từng cố gắng để được như vậy. Tướng Toàn theo tôi hiểu là một vị chỉ huy luôn muốn thấy kết quả nhanh chóng. Mà thời gian để thực hiện điều tôi muốn, cứ xét theo kinh nghiệm trong quá khứ, đâu phải ngày một ngày hai là thành? Do vậy tôi đành chấp nhận “cuốn theo chiều gió” bằng cách nào có lợi nhất cho lực lượng dưới quyền mình thôi.
Cuối năm 1972 sau khi Trại Ben Het mất thì tôi có thêm Tiểu Đoàn 95, từ đó tôi thành lập thêm Liên Đoàn 22 Chiến Thuật Biệt Động Quân Biên Phòng, theo sau Liên Đoàn 21 của Trung Tá Lang Trọc, đúng theo “sách cũ” của tôi ở Vùng 4. Liên Đoàn 21 đồn trú tại Ban Mê Thuột và Liên Đoàn 22 ở Kontum. Tôi mặc nhiên chịu trách nhiệm giữ Kontum và Pleiku. Bộ Chỉ Huy Hành Quân của tôi khi thì đóng tại Kontum nếu có tin quân Bắc Cộng rục rịch áp sát lấn chiếm. Khi thì đóng tại phía tây Pleiku hành quân chống pháo kích. Lúc lại dời về Thanh An khi địch di chuyển quân muốn đánh chiếm quận lỵ này. Nhìn chung, cũng như 2 Sư Đoàn 22 BB và 23 BB, mặt trận Tây Nguyên và Duyên Hải không có những trận đụng độ lớn trong lúc đó.. Năm 1973, sau Hiệp Định Paris thì các Trại Biên Phòng thuộc Vùng 1, 2, 3 không còn, hệ thống Biên Phòng coi như đã phá sản. Duy chỉ Vùng 4 thì các Trại Biên Phòng vẫn còn nguyên vẹn, nhưng các Trại được duy trì để xử dụng làm doanh trại của đơn vị, 2 Liên Đoàn 41 và 42 Chiến Thuật Biệt Động Quân không còn cần phải hành quân dọc theo biên giới nữa, Quân Đoàn IV đã xử dụng họ như các lực lượng cơ động hành quân khắp Vùng 4 Chiến Thuật. Chính trong thời gian này Bộ Tổng Tham Mưu mới có sáng kiến kết hợp các Tiểu Đoàn lại thành Liên Đoàn Biệt Động Quân Biên Phòng. Tôi tự hỏi tại sao vẫn duy trì hai chữ “Biên Phòng” trong lúc nhiệm vụ trấn giữ biên giới của họ đã không còn? Việc chính thức tổ chức thành Liên Đoàn đã quá chậm, phải mất tới 3 năm Bộ Tổng Tham Mưu mới có thể có sáng kiến này nhưng cũng không thể có thêm sáng kiến bỏ đi hai chữ “Biên Phòng” như tôi vừa nói, để làm rõ nhiệm vụ nới của họ cũng như để tránh sự phân biệt giữa Biệt Động Quân với nhau. Chưa hết, quân số cũng là một vấn đề. Sau khi cải tuyển, các Tiểu Đoàn Biệt Động Quân đóng ở các Trại Biên Phòng mang tính phòng thủ và chỉ hành quân cấp nhỏ nên có bảng cấp số là 500 quân. Có thể chấp nhận được. Nhưng nay họ đã được tập hợp lại thành Liên Đoàn, tham dự hành quân cơ động, mà 1 Liên Đoàn Biên Phòng khi tham chiến chỉ đạt được quân số từ 800 tới 1000 là tối đa, tương đương với 1 Tiểu Đoàn bạn, thì thử hỏi với tình hình chiến sự đã thay đổi, các mặt trận nổ ra đều là trận địa chiến mang tính quy ước phải đối đầu với các Đại đơn vị CSBV, thì các Liên Đoàn Biệt Động Quân Biên Phòng với quân số chỉ tròm trèm như một Tiểu Đoàn Biệt Động Quân Tiếp Ứng thì sẽ cầm cự được bao lâu trước khi bị coi là đã bị loại ra khỏi vòng chiến? Tôi muốn nói tổn thất nhanh chóng khiến phải được rút ra khỏi vòng chiến để bổ sung, tái lập. Nếu việc này lập đi lập lại vài lần, tiếng tăm của Liên Đoàn sẽ bị thiệt hại nặng nề, kéo theo tinh thần binh sĩ. Hệ thống chỉ huy cũng là một vấn đề lớn mà Bộ Tổng Tham Mưu không để ý đến, cả Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Trung Ương cũng không lên tiếng...
Bộ Tổng Tham Mưu có hay không có quan niệm mới về Biên Phòng? Nếu có thì các Tư Lệnh Quân Đoàn / Quân Khu có biết không? Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân Trung Ương có biết không? Nếu còn hai chữ “Biên Phòng” thì chắc Bộ Tổng Tham Mưu đã không thể bỏ trống cả một dải biên giới cho CSBV thao túng.Tôi là Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân
Quân Khu mà chẳng nghe ai quan tâm đến hai chữ“Biên Phòng” này. Biệt Động Quân đang dần dần được xử dụng như những Đại đơn vị Bộ Binh trong trận chiến quy ước. Mà nếu là như vậy thì phải thay đổi tổ chức và cả hệ thống chỉ huy...Chính vì vậy mà Đại Tướng đã chọn bổ nhiệm Tướng Giai trong chức vụ Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân Trung Ương. Tôi biết Trung Ương vẫn đang thảo luận để thay đổi, nhưng thật quá chậm. Chậm đến nỗi cho tới tháng Tư 1975, tháng cuối cùng của miền Nam Tự Do, thì mới xảy ra.
Tác giả: Tại Chuẩn Tướng nghĩ và làm quá xa thôi, chứ nếu họ chỉ nghĩ Biệt Động Quân là để cho tăng phái thôi, một đơn vị phụ thuộc, một thứ “con nuôi” thì suy tính thay đổi hệ thống chỉ huy để làm gì?
Tướng Tất lắc đầu lia lịa: Anh Đỗ Sơn ơi là Đỗ Sơn, bộ không phải chính anh đã nhìn thấy tôi tự thành lập 2 Liên Đoàn 41 và 42 Chiến Thuật Biệt Động Quân Biên Phòng ngay sau khi cải tuyển ở Vùng 4 à? Đại Tá Nguyễn Thành Chuẩn ở Vùng 3 thấy vậy cũng tập trung các Tiểu Đoàn Biên Phòng lại, tự chỉ huy tác chiến đó. Rồi tôi lên Vùng 2 thì cũng lập lại chuyện đã từng làm ở Vùng 4 nên Tướng Toàn mới giao Kontum – Pleiku cho tôi chịu trách nhiệm chứ đâu phải tự nhiên ổng khơi khơi giao đại cho tôi? Tôi buồn bực nói ra đây là vì quý vị ở Sài Gòn phải đợi cho tới khi các Tiểu Đoàn Biên Phòng bị đánh tan tác rồi mới chịu nghĩ tới việc thành lập Liên Đoàn cho họ, anh thấy có quá trễ không? Lúc đó chỉ còn Vùng 1 có 2 Liên Đoàn Biên Phòng, 1 Liên Đoàn Tiếp Ứng nhưng Bộ Chỉ Huy Quân Khu 1 không có chủ trương tự chỉ huy tác chiến nên khi Tướng Trưởng ra đây ông đã có ý và đã làm rồi là thăng cấp Đại Tá cho Trung Tá Trần Kim Đại và bổ nhiệm ông làm Quyền Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân nhằm muốn Biệt Động Quân Vùng 1 sẽ được ông Đại chuyển cải lại như các Vùng kia. Bảng cấp số chỉ định mình không trực tiếp chỉ huy tác chiến, nhưng nếu mình yêu mến binh chủng Biệt Động Quân của mình, cũng là đóng góp cho quân đội mình, thì tại sao mình không tình nguyện đi trước một bước? Ước gì các thượng cấp ở Sài Gòn còn đi trước mình nữa, thì hay biết mấy.
Tướng Tất có cái lý của ông, buồn bực cũng phải thôi. Khóa chặt được biên giới Vùng 4 là một thành công cụ thể, từ thành công này lực lượng Biệt Động Quân không còn cần thiết ở đây nữa, cũng là một chứng minh cụ thể thứ nhì. Liên Đoàn 4 Biệt Động Quân Tiếp Ứng được Bộ Tổng Tham Mưu xung vào lực lượng Tổng Trừ Bị. Đại Tá Tất thì được nhận thêm 2 Liên Đoàn 41 và 42 Chiến Thuật Biệt Động Quân Biên Phòng từ Vùng 4, đổi lại thành Liên Đoàn 24 và 25 do chính ông thành lập nay được đưa lên cao nguyên phục vụ dưới quyền chỉ huy của người xưa. Nói vầy thì tác giả lại nhớ đến cựu Chỉ Huy Trưởng Trần Công Liểu, một vị chỉ huy được coi là giàu khả năng tham mưu, giỏi tổ chức, lại có nhiều sáng kiến cống hiến cho binh chủng Biệt Động Quân. Chính Đại Tá Trần Công Liểu là vị Chỉ Huy Trưởng từ năm 1970 đã nhìn thấy Liên Đoàn 4 Biệt Động Quân Tiếp Ứng có đến 5 Tiểu Đoàn cơ hữu, vì vậy ông lấy bớt Tiểu Đoàn 32, 58 kết hợp với Tiểu Đoàn 85 Biên Phòng để thành lập Liên Đoàn 7 Biệt Động Quân Tổng Trừ Bị do Đại Tá Nguyễn Kim Tây chỉ huy gửi đi tăng phái khắp các chiến trường. Lẽ ra Đại Tá Trần Công Liểu đã lên Tướng, vì quân đội không chỉ cần Sĩ quan giỏi tác chiến mà còn rất cần các vị giỏi tổ chức trong giai đoạn “Việt Nam hóa chiến tranh”, nhưng có lẽ vì... chưa tới số, nên Đại Tá Liểu kẹt vào một tình huống đặc biệt có thể đặt tên là “lên lộn xuồng”, một vấn nạn có thật trong quân đội chúng ta.
Với 5 Liên Đoàn Biệt Động Quân đã được tập họp lại dưới quyền, lực lượng Biệt Động Quân Vùng 2 của Đại Tá Tất trở thành 1 Đại đơn vị tương đương với Sư Đoàn 22 và 23 BB. Có thể nói Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn II Nguyễn Văn Toàn đã giao 1 “Sư Đoàn Biệt Động Quân” đầu tiên cho Đại Tá Phạm Duy Tất chỉ huy. Đồng thời, tương tự như vậy, chẳng giấy tờ lệnh lạc, Tướng Toàn từ lâu đã giao hẳn mặt trận Kontum – Pleiku cho Đại Tá Tất. Đúng ra Bộ Tổng Tham Mưu đã phải nâng cấp và thay đổi hệ thống chỉ huy đủ khả năng hơn, hữu hiệu hơn. Chỉ đến khi Tướng Phú về thay Tướng Toàn thì Đại Tá Tất mới có lệnh chính thức trở thành Tư Lệnh Mặt Trận Kontum – Pleiku, rồi từ chức vụ này Đại Tá Tất mới bước vào hàng ngũ Tướng Lãnh Việt Nam Cộng Hòa. Thật vậy, các cuộc hành quân trong 2 khu vực này đều do lực lượng Biệt Động Quân của Đại Tá Tất đảm nhiệm, nên Tướng Toàn mới có thể cơ động 2 Sư Đoàn 22 và 23 BB. Rất buồn mà nói rằng Bộ Tổng Tham Mưu và Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Trung Ương đã làm việc theo phương pháp tiệm tiến, không có hoặc không dám có hành động đột phá để theo kịp tình hình chiến sự đã và đang nhanh chóng thay đổi.
Tướng Tất: Muốn làm được việc thay đổi như tôi đã trình bày ở trên, tôi không thể lặng lẽ tự mình làm như trước. Tôi phải được cấp trên đồng ý và hỗ trợ cho mình trên nhiều phương diện, yểm trợ nhiều mặt và che chắn cho mình với thượng cấp cao hơn. Phải có được một vị Tư Lệnh Quân Đoàn mà mình có thể dễ dàng trình bày sáng kiến – quan điểm, và ông ấy cũng thoải mái bàn luận với mình mới được. Khi Tướng Phú về Vùng 2, tôi thấy chớm lên một cơ hội, nhưng đã quá trễ. Quá trễ rồi!
Tác giả: Chuẩn Tướng nghĩ vậy quá đúng, tôi thấy việc này khen thưởng thì khó thấy, chớ... tù dễ như chơi. Tôi đâu có ở Vùng 2 mà đi...thăm nuôi Chuẩn Tướng (cười).
Tướng Tất ném về phía tác giả một cái nhìn xa xôi, nhìn người nhưng có lẽ chỉ thấy chập chùng rừng xưa núi cũ. Ông Tướng thở dài thườn thượt...
Tác giả: Khi chúng ta giải tán các Trại Biên Phòng nhưng không có một giải pháp, một kế hoạch thay thế, thì có phải chúng ta đã chấp nhận giao biên giới lại cho quân Bắc Cộng không, thưa Chuẩn Tướng?
Tướng Tất chồm hẳn người dậy, giọng ông sôi nổi trở lại: Thiết lập một chuỗi trại theo chiều dài biên giới, tưởng như đã khóa chặt biên giới trong chủ trương phòng thủ Miền Nam, thực tế cho thấy không ngăn chặn triệt để sự xâm nhập của CSBV, đường mòn HCM vẫn tiếp tục nối dài. Năm 1972, các Trại hoàn toàn không còn, ta tự ý rút bỏ hay bị đánh chiếm. Một dãy dài biên giới đã thuộc về Cộng Sản Bắc Việt. Nhưng cũng vì thế nay quân Bắc Cộng đã có cái phải giữ, phải phòng thủ, vị thế của ta cũng đã đổi khác, ta từ thế thủ chuyển sang thế công. Nếu ta cơ động hóa được lực lượng Biệt Động Quân Biên Phòng, ta sẽ tìm đánh, tiêu diệt địch. Điều trước tiên phải làm là huấn luyện đơn vị, binh sĩ không còn ngại rừng núi, không còn nghĩ rừng núi là thuộc của địch, lợi thế của địch. Tôi muốn nhắc đến việc tôi đã làm ở Vùng 3 trước kia, là đưa một Đại đội Biệt Kích Dân Sự Chiến Đấu trong 3 tuần liền không cần nhận tiếp tế, hành quân xuyên rừng Chiến Khu D và Chiến Khu Dương Minh Châu, nhưng tránh chạm địch, mục đích chỉ để binh sĩ không còn sợ rừng núi, sợ sự cô đơn. Áp dụng phương cách huấn luyện này cho Biệt Động Quân Biên Phòng Vùng 2 Chiến Thuật, tôi tin tưởng ta sẽ đủ khả năng để khuấy động con đường 14 (đường mòn HCM) và những cơ sở tiếp liệu – tiếp vận của địch dọc theo con đường này. Nhưng không cần phải dựa vào pháo yểm, không yểm thì chỉ cần một cách hạn chế. Nếu vậy, chúng ta sẽ giam được một phần lớn lực lượng quân Bắc Cộng vùng Tây Nguyên. Một khi ta thành công về Biên Phòng ở Vùng 2, có lẽ các Vùng khác sẽ thực hiện được như vậy. Tóm lại, Trại Biên Phòng thì giải tán nhưng chủ trương Biên Phòng vẫn tiếp tục, và hiệu quả hơn!