← Quay lại trang sách

Chương 4

Ông giám đốc khu Vườn hoàng gia đã dựng ngôi nhà riêng không xa khu trại của khách là bao. Nhưng những rừng cây cao đã ngăn cách hoàn toàn khu đất sửa sang thành hình trái hạnh nhân đó, trên mảnh đất ấy mọc lên ngôi nhà lợp lá màu nâu. Các bức tường sáng trắng như thể mới quét vôi lại, và ta cũng có cảm giác rằng nước sơn cũng khô trên các cánh cửa sổ màu xanh rất dịu.

Những cánh cửa sổ dọc phía trước nhà đều đóng kín khi tôi từ con đường mòn giữa những bụi cây gai bước ra. Nhưng ở trong nhà hẳn là người ta đang nóng lòng chờ tôi tới, bởi vì ngay trước khi tôi đặt chân tới trước cửa ra vào thì cánh cửa mở và một thiếu phụ còn trẻ, người cao tóc vàng, mặt mang kính râm, hiện ra trước khung cửa. Không đợi tôi có thời giờ chào hỏi, bà ta nói bằng tiếng Anh, giọng hấp tấp líu ríu, hơi hổn hển, có lẽ vì bà ta muốn diễn đạt quá nhiều điều một lúc.

- Tôi xin lỗi, - bà ta nói, - vì đã làm phiền ông quá thế này. Xin mời ông, mời ông vào... Tôi sung sướng được gặp ông không phải chờ đợi chút nào... Và rất biết ơn ông đã không bắt tôi chờ đợi... Xin mời vào, trời nắng khủng khiếp...

Xibin Balit để một bàn tay ngang tầm đôi mắt kính râm bà ta mang và chỉ hạ tay xuống để đẩy đóng cánh cửa lại bằng một cử động vội vã.

Ở rừng rậm chói chang bước vào đây, thấy căn phòng tối hẳn lại. Tôi chỉ thấy lờ mờ những đường nét của người thiếu phụ trẻ lại càng chẳng rõ chút gì về người hầu da đen mới chạy tới.

Xibin Balit nói với anh ta vài tiếng Xoahili với một vẻ kích động. Anh ta bỏ đi và còn lại chúng tôi với nhau.

- Xin mời ông lại đây, mời ông, - bà ta bảo tôi, - ở trong này tối lắm.

Trong gian phòng rộng và sâu dùng làm phòng khách, ánh sáng không lọt vào từ phía cửa mặt đã bị che kín bằng các cánh cửa mà từ những cửa sổ mở ra sân sau, sân ấy cũng bị cây che gần kín. Ánh mặt trời chói chang càng bị làm dịu đi hơn nữa vì những tấm rèm vải sợi bông dày màu xanh đậm.

Khuôn mặt và thân thể người thiếu phụ trẻ chợt dịu đi, như thể bà ta đã tìm được nơi trốn tránh. Vậy mà bà ta vẫn không gỡ cặp kính chống nắng ra.

- Tôi xin lỗi vì quá đường đột, - Xibin Balit nói, lúc này giọng bà ta đã mang một âm sắc hoạt và dịu. - Tôi xin lỗi thực đấy. Bởi vì ông phải hiểu Lidơ đối với tôi là như thế nào.

Thiếu phụ trẻ dừng lại một lát và nhắc lại, rõ ràng chỉ là nhắc lại cho riêng mình thôi, và cũng chỉ vì một niềm vui được nhắc tới cái tên ấy thôi.

- Lidơ... Lidơ Đácboa.

Chợt bà cất tiếng hỏi một cách e dè:

- Ông nghe tôi phát âm còn đúng không?

- Như một người Pháp vậy, - tôi nói (và đúng là như thế). - Điều đó không làm tôi ngạc nhiên sau khi đã đọc thư bà viết.

Đôi má thiều hồng sắc của thiếu phụ trẻ hơi ửng lên. Vì có cặp kính râm che mất đôi mắt bà ta, nên không thể hiểu được chút ửng hồng đó là do thích thú hay do lúng túng.

- Tôi hy vọng rằng viết cho ông bằng tiếng Pháp như vậy khiến ông tới nhanh hơn, - Xibin nói.

Bà ta bước một bước tới phía tôi và nói tiếp:

- Trời hỡi! Không thể nghĩ được rằng mới cách đây non hai tháng ông còn ở gần Lidơ... Chúng tôi cũng có viết thư cho nhau khá đều đấy... Nhất là tôi... Nhưng với một người đã gặp Lidơ, đã trò chuyện cùng Lidơ, thì đó là một chuyện hoàn toàn khác.

Bà ta có một cử chỉ như muốn nắm tay tôi, nhưng lại không nắm, và nói tiếp:

- Ông hãy kể đi, hãy kể đi... Lidơ ra sao? Lidơ làm gì?

Tôi cố nhớ lại cho chính xác những tình tiết về cuộc gặp gỡ đầu tiên của tôi với cô bạn thân của Xibin Balit mà tôi được biết rất ít. Tôi chỉ thấy lại trong ký ức một khuôn mặt khá xinh đẹp, khá vui tươi, nhưng cũng rất giống với khá nhiều người khác, và hơi quá sôi nổi và tự tin. Cô ta liệu đã có những nét hiếm hoi gì, những phẩm chất gì khiến cho có thể được chú ý và thích thú đến thế?

- Thế rồi... Thế rồi sao nữa...? - Xibin Balit hỏi.

- Và, - tôi nói, - Lidơ tiếp tục làm đại diện cho một công ty mỹ phẩm Mỹ tại nước Pháp... Từ khi Lidơ ly hôn, cô sống đàng hoàng với một họa sĩ... Thực ra tôi quen biết anh ấy nhiều hơn.

- Lidơ hạnh phúc, hẳn thế chứ?

- Tôi không rõ lắm, - tôi nói. - Mọi người có cảm giác là Lidơ hơi chán nản, đang trống rỗng, và đôi khi ước ao cuộc sống của bà.

Xibin chậm rãi gật gù, khuôn mặt vẫn che kín bằng cặp kính râm, và từ từ nói:

- Lidơ đã đi phù dâu cho tôi. Chúng tôi cùng tới Kênya với nhau. Tôi đã làm lễ cưới tại ngôi thánh đường trắng nằm giữa Nairôbi và Naivasa. Hẳn ông phải biết ngôi thánh đường ấy.

- Còn ai là không biết thánh đường ấy nữa? - Tôi nói.

Ngôi thánh đường rất nhỏ ấy với đường nét dịu dàng và giản dị, là công trình xây dựng của các tù binh Italia trong những giờ phút rảnh rỗi hồi họ xây dựng đại lộ. Góc khu rừng nơi họ phát hoang đặt địa điểm thánh đường nhìn xuống thung lũng Ríp mênh mông và uy nghi ở xa dưới kia hai ngàn thước tung ra những đợt sóng lặng im, những ngọn sóng đầu khởi nguồn từ trong lòng châu Phi da đen và dừng lại ở những xứ cát bán đảo Xinai.

- Bà có nhiều may mắn lắm, - tôi nói. - Tôi nghĩ rằng, trên đời này chẳng còn có địa điểm nào đẹp hơn thế nữa.

Thay vì đáp lời tôi thiếu phụ trẻ mỉm cười với tất cả vẻ trìu mến mà một kỷ niệm hào hứng nhất có thể gợi ra. Và dường như bà ta muốn đem lại cho nụ cười ấy một biểu đạt trọn vẹn, bà nhấc kính ra với một cử chỉ của người mộng du.

Chẳng biết vì sao bà ta lại che mắt mình đi? Đôi mắt to, hơi thuôn về hai phía thái dương tóc xám đậm lơ thơ những sợi sáng màu hơn, đôi mắt ấy là vẻ đẹp duy nhất thực sự của Xibin, ít ra là khi có nhiều xúc động mãnh liệt làm chúng sáng lên như lúc này đây.

Và chính nhờ ánh sáng, nhờ sự tươi mát, nhờ vẻ thơ ngây của đôi mắt ấy mà tôi chợt thấy, trái hẳn lại, khuôn mặt thiếu phụ trẻ đó đã bị tuổi xuân bỏ ra đi sớm biết bao. Nước da bà nhợt và nhạt, ngay cả mặt trời châu Phi cũng không khiến nó ửng lên nổi. Tóc bà không có sức sống. Những nếp nhăn sâu và khô hằn trên trán, cắt ngang gò má, băm chém vào hai bên mép.

Dường như khuôn mặt kia là của hai người đàn bà khác hẳn nhau. Một người có đôi mắt. Một người có tất cả các thứ còn lại.

Lidơ Đácboa chưa tới ba chục tuổi. Liệu có thể chăng cái khuôn mặt không sắc màu và tàn tạ trước mặt tôi đây cũng có cùng thời gian tồn tại như vậy?

Xibin đem lại cho tôi câu giải đáp một cách vô tình:

- Lidơ và tôi, chúng tôi cùng tuổi, chỉ cách nhau vài tuần thôi, - bà ta nói. - Và chúng tôi đã sống năm năm liền không rời nhau trong một trường nội trú gần Lôđan. Khi hai chúng tôi ở đó thì chiến tranh bùng nổ. Thầy mẹ chị ấy sống ở Pari, còn ông cụ nhà tôi làm việc tại Ấn Độ, các cụ đều muốn chúng tôi ở đó trong những ngày tháng khó khăn.

Xibin cười nói một cách trẻ trung dịu hiền, và nói tiếp:

- Lidơ hẳn đã kể cho ông nghe các chuyện đó, tôi tin chắc là như vậy. Nhưng có điều chị ấy không thể kể ra được, ấy là về sắc đẹp của chị ngay từ hồi đó và chị đã biết cách ăn mặc, biết cách làm đầu tóc hơn hẳn tất cả các cô gái khác. Một cô gái Pari thực thụ từ lúc mới mười lăm tuổi!

Từ kỷ niệm này qua kỷ niệm khác, từ chi tiết này sang chi tiết kia, Xibin Balit kể cho tôi nghe câu chuyện thời đó. Tôi hiểu ngay rằng bà ta đã cho mời tôi lại và sốt lòng chờ tôi tới chẳng phải để nghe chuyện tôi mà để nói cho tôi nghe.

Vì thế mà tôi biết rằng cụ thân sinh ra Xibin, vào thời kỳ cuối chiến tranh, đã được bổ nhiệm một chức quan trọng ở Kenya, và Xibin, khi tới đó tìm cha đã nài nỉ Lidơ Đácboa đi cùng. Bà ta đã gặp Balit ngay khi tới xứ này, và cuộc hạnh ngộ đó đã dẫn họ một buổi sáng tới ngôi thánh đường màu trắng nhìn xuống thung lũng Ríp mênh mông và uy nghi.

- Lidơ sau đó đã ra đi liền, - Xibin kể nốt, - và sau đó chẳng bao lâu ông cụ nhà tôi được bộ Thuộc địa gọi về Luân Đôn rồi cụ mất ở đó mà tôi chẳng được gặp lại nữa.

Bà ta lặng im, Lẽ ra tôi nên cáo từ. Xibin đã nhận được và thậm chí đã nhận trọn vẹn mọi thứ gì bà ta trông chờ ở tôi, và cũng đã tôi lúc tôi bắt đầu viếng thăm khu Bảo tồn. Thế nhưng tôi vẫn nán ngồi lại, mà chẳng hiểu lý do vì sao nữa.

- Ông Balít không có nhà? - Tôi hỏi.

- Ông ấy luôn luôn đi khỏi nhà trước khi tôi thức dậy, và chẳng khi nào ông ấy về nhà đúng giờ cả, - Xibin nói (bà ta phác một cử chỉ mơ hồ). - Có khi nào các con thú để cho ông ấy có thì giờ mà thở.

Chúng tôi lại lặng im càng làm nổi rõ ảnh hưởng của căn phòng chúng tôi đang ngồi. Mỗi màu sắc, mỗi đồ vật đều đem lại một cảm giác yên ổn, dịu dàng: các bức tường màu mật, ánh sáng được làm dịu đi, những tấm chiếu màu sáng trên nền đất, những bức họa lồng trong các khung cổ và những cành cây trĩu nặng những đóa hoa to nở tung trong những bình bằng đồng. Thị hiếu và sự chăm chút hết sức cẩn thận bộc lộ trong từng vật một. Tôi tỏ lời khen điều đó với Xibin. Bà ta nói khẽ:

- Tôi cố tìm cách quên đi rằng trong vòng ba trăm cây số quanh đây không có một thành phố nào và hễ ra khỏi cửa nhà này là có những con thú thuộc loại nguy hiểm đệ nhất.

Đôi mát người thiếu phụ trẻ đưa nhìn từ đồ vật này sang đồ vật kia như từ người bạn thân thiết này sang nguôi bạn thân thiết khác. Có những đồ vật rất đẹp.

- Các cụ bên chồng tôi đã đem chúng tới châu Phi khi các cụ tôi ở hẳn nơi này vào đầu thế kỷ, - Xibin nói. - Đồ đạc của chồng tôi đều là của giòng họ.

Xibin dừng lại như là ngẫu nhiên, để rồi nói thêm với một vẻ giả bộ khinh xuất:

- Một giòng họ rất lâu đời... Ngành trưởng đã mang tước Nam từ thời giòng họ Tuđo[3].

Trong lát giây, trên khuôn mặt người thiếu phụ trẻ biểu lộ một điều khó ăn nhập nhất với những đường nét của bà ta, và với cuộc sống hiện tại của bà ta: một sự thỏa mãn hão huyền, lối tư sản. Phải chăng đó là một phản xạ sâu xa của bản chất bà ta? Hay đó cũng là một phương tiện tự vệ nội tâm cũng như các đồ đạc, các vải vóc trong nhà này?

Bà ta vuốt ve một cách máy móc một chiếc ghế bành nhỏ làm bằng gỗ quý, một thứ đồ chơi thú vị đã được làm từ hồi thế kỷ thứ XVIII bởi một nghệ nhân thiên tài nào đó.

- Chồng tôi đã ngồi cái ghế này khi ông ấy còn bé tí, và cả ông cụ thân sinh, và cả cụ thân sinh ra cụ thân sinh, Xibin nói. Và tôi cũng chứng kiến ghế này con gái tôi dùng.

- Patrixia! - Tôi thốt lên.

Tôi đã hiểu vì sao tôi còn nán ngồi lại.

- Ông biết tên cháu? - Xibin hỏi. - Phải, đúng rồi, dĩ nhiên là thế, Lidơ đã kể ông nghe mà!

Điều đó không đúng. Trong giây lát tôi nghĩ mình sẽ nói ra là đã gặp Patrixia trong trường họp nào. Nhưng một phản xạ mà tôi không hiểu nổi đã khuyên tôi hãy chọn con đường tiện lợi là nói dối mà chính Xibin đã đưa lại cho tôi.

Ông biết tôi mơ ước gì cho Patrixia chứ? - Thiếu phụ trẻ lại nói tiếp một cách khoái hoạt. - Tôi muốn cháu sẽ qua Pháp học tập, ở đó cháu sẽ quen cách ăn mặc, cách chải chuốt, và cách cư xử như thể cháu sinh ra tại Pari vậy. Như là Lidơ từng biết cách làm như vậy.

Trong đôi mắt Xibin một lần nữa lại thấy sáng lên niềm tin và khí sắc của tuổi thơ. Chợt bà ta ngừng nói, rùng mình, và với một cử động mà chắc chắn bà không để ý vì nó đã diễn ra thực nhanh và theo bản năng, bà đeo lại cặp kính râm.

Người da đen tôi nhìn thấy khi đó ở giữa phòng khách đi tới không gây một tiếng động nhẹ, một người đã có tuổi, đã nhăn nheo, chột một mắt, mặc một chiếc quần bó ống bằng lụa dày màu nâu và một chiếc sơ mi rách. Không thể biết người đó cao thấy bao nhiêu, vì bác ta đứng gập người trên đôi xương chậu dị dạng.

Người đó nói vài lời bằng tiếng Xoahili rồi ra đi.

- Kihôrô là người tộc Aokamba, - thiếu phụ trẻ nói với tôi bằng giọng thấp và mệt mỏi. - Bác ta đã hầu hạ chồng tôi từ lâu, vừa làm người dẫn đường vừa làm người đuổi thú. Bác ta không làm công việc gác Vườn được, ông đã thấy đó, bác ta bị thú dữ làm cho thành tàn tật ra sao. Vì thế bác ta có nhiệm vụ trông coi Patrixia. Bác ta đã chứng kiến lúc cháu bé ra đời. Cháu yêu bác ta lắm. Bác ta vừa tới bảo cho tôi biết là bác vừa mang bữa điểm tâm cho cháu.

- Lúc này cháu ở nhà chứ? - Tôi hỏi.

- Cháu mới ngủ dậy, - Xibin nói.

- Vậy ư... Nhưng mà...

Tôi ngừng lại đúng lúc, đủ để người thiếu phụ trẻ hiểu sự ngạc nhiên của tôi theo cách của bà ta.

- Cháu dậy hơi muộn. Tôi biết thế, - bà ta nói. - Nhưng ban ngày Patrixia chạy chơi khiếp lắm kia. Cháu cần được ngủ thật nhiều.

Xibin nhìn tôi một lát qua làn kính râm và nói nốt:

- Tôi sẽ đi gọi cháu. Để rồi ông có thể kể về cháu với Lidơ.

Tôi đi tới bên một cửa sổ, phía các cánh cửa không khép, và vén các tấm rèm. Cửa sổ trông ra một sân trong rộng lớn xung quanh là các phòng ở. Dọc theo các bức tường là một dãy nhà cầu thô sơ lợp lá. Xibin đi dọc khu nhà cầu đó nhưng chẳng thèm chú ý tới những hoa phượng, hoa tử uy, tới những trận mưa rào màu vàng nở rộ thành các bụi tía, thiên thanh và vàng lửa ở bốn góc sân trong. Thế nhưng Xinbin lại không vào ngay phòng của Patrixia và mặc dù có sự sợ hãi bệnh hoạn đối với mặt trời, thiếu phụ trẻ vẫn đi vào giữa khu vực trống trơn không có gì che chở tránh sức nóng và ánh sáng gay gắt. Tới đó, bà ta dừng lại trước một khoảng đất vuông với những luống đất thấp mà đất mùn nhân tạo hẳn đã được đem từ nơi xa tôi và nước tưới thì theo những rãnh nhỏ dẫn từ ngoài về, trên đó mọc lên những hoa cúc Zinnia, hoa dã yên, hoa cẩm chướng nghèo nàn, yếu ớt, nhợt nhạt.

Xibin cúi xuống những loài hoa châu Âu, nắn lại một thân cây, vuốt lại một đài hoa. Các động tác của bà ta không biểu lộ một sự chăm chút dịu dàng. Trong việc bà ta cúi xuống ngẩng lên có một thứ gì như là lời kêu gọi, như là lời cầu nguyện. Phải chăng chỉ để tránh cô đơn?

Tôi được dứt ra khỏi các ý nghĩ đó vì tiếng động của một chiếc xe hơi phóng thật nhanh và hãm kít lại trước cửa nhà, ở phía các cánh cửa sổ hạ xuống che kín cả bức tường.

[3] Dòng họ lớn nước Anh đã có năm đời vua từ năm 1485 đến 1603: Hăngri VII, Hãngri VIII, Eđua VI, Mari và Elidabct (ND chú thích).