Chương 3
Lúc ấy tôi cảm thấy một nỗi lo sợ cảnh cô đơn khủng khiếp đến nỗi tôi cố tình không tin có chuyện đó khi nó xảy ra. Nỗi tuyệt vọng ấy thực quả rất vô lý. Nó không thể có thực cho được, không thể có một ý nghĩa, không thể có một bản chất cho được. Tôi là người từng có nhiều bạn, có những người bạn trung thành, tin cậy và chọn lọc, từng được thử thách suốt một cuộc đời đã dài rồi. Sắp tới đây, tôi sẽ kể cho họ nghe chuyện viễn du châu Phi của tôi. Còn họ, họ sẽ kể cho tôi nghe những niềm vui và những nỗi sầu muộn đã xảy tới với họ vào thời gian tôi vắng nhà. Mọi thói quen cũ đang đợi tôi tại một ngôi nhà đã được tạo dựng cho phù hợp với tính khí tôi. Và còn công việc của tôi nữa, nó cũng đủ để đem lại cho tôi vô số bạn bè và người thân thuộc.
Tôi gom góp những lý lẽ và những trụ đỡ cho cuộc đời mình, nhưng vô vọng. Không có gì có thể thay thế được sự sung mãn kỳ diệu tôi vừa trải qua vài giây trước đây khi đám cư dân trong khi rừng thưa dường như còn muốn đánh bạn với tôi. Giờ đây tôi cô đơn, và lạc lõng, và bị bỏ rơi, bị chối từ, bị vứt bỏ vô hy vọng, không lối thoát cho tới những ngày cuối đời mình.
Patrixia đã nhường lại cho tôi nỗi giày vò đau khổ của em.
“Mình phải đi theo em mới được, tôi tự bảo thế. Phải che chở cho em mới được”.
Nhưng tôi vẫn chẳng làm gì. Tôi chợt thấy lại tuổi tác mình, lại có ý thức về sự nặng nề thân xác mình, các cử động chậm chạp vụng về của mình, và thân phận con người văn minh của mình.
Một lần nữa tôi lại lý sự.
Che chở cho Patrixia! Trong đám cỏ trơn, trong đám nước quanh co, giữa đám thú rừng nhanh nhẹ, câm lặng, với các giác quan sắc bén và dữ tợn, lao vào đó ư để đi theo một em bé gái quen sống giữa rừng rậm và thú rừng như một nữ thủy thần sống dưới đáy nước sâu, như một khí thần sống trên ngọn cây cao?
Thôi đi, cần phải trở lại với thiên lương chứ.
Người cai quản khu Bảo tồn này, người canh giữ các thú hoang và người chủ của chúng, người đó chính là cha của Patrixia. Những giấc mơ thao thức của con gái ông, chính ông có trách nhiệm chứ. Đó chẳng phải công việc của một người xa lạ, một người đi ngang đường.
Tôi quay lưng lại khu rừng thưa và rời bỏ nó, đi về phía khu trại dành cho những khách thăm khu Vườn hoàng gia.
Khu trại đó đã được thiết kế nhằm không làm thay đổi phong cách tự nhiên. Được che giấu sau những cây gai lớn, một chục gian lều tròn với những bức vách bằng bùn trát vôi và những mái tròn lợp lá, nom giống hệt một xóm nhỏ của dân bản địa.
Khu trại khi ấy vắng người: không phải mùa du lịch, hơn nữa, khi ấy cả nước Kênya còn đang sống trong nỗi kinh hoàng vì nạn Mô-Mô[2].
Khi trở về chỗ nghỉ mà chiểu sẩm hôm qua tôi đã tình cờ trú chân, con khỉ tí xíu đợi tôi ở hàng hiên. Nó vẫn mang chiếc mặt nạ bằng satanh đen, và đôi mắt nó vẫn giữ nguyên vẻ khôn ngoan sầu muộn dường như hỏi tôi: “Thấy chưa, đã chẳng nói trước cho biết là gì?”
Nhưng thay vì tan biến trong không gian, như sáng nay lúc bình minh nó đã xử sự như vậy, lúc này nó lại nhảy lên vai tôi.
Khi ấy tôi nhớ tới cái tên Patrixia đã đặt cho nó, và tôi nói khẽ:
- Nicôla... Nicôla...
Nó giã giã vào gáy tôi.
Tôi mở rộng bàn tay, chìa ra cho nó. Nó leo vào ngồi giữa lòng bàn tay. Nó nặng bằng một cuộn len. Mơn man bộ lông ngắn của nó thật thích thú. Nhưng mà, được thuần hóa đến mức ấy và nhanh đến thế, nó chẳng hơn gì một bạn tù dịu hiền chung xiềng với bạn tù khác.
Tôi đặt nó lên bao lơn chạy dọc hàng hiên và nhìn vội về phía khu rừng thưa mặc dù tôi không có ý định đó. Cả ở đó nữa cũng đã hết những cái duyên hấp dẫn rồi.
Mặt trời đã rực nóng khiến cho mặt đất đã mất hết những bóng, những hình, những màu. Tất cả đã trở nên khô khan và tỏ nét, bằng lặng và buồn. Thế giới đã mất đi cái bề sâu. Lửa rực trắng của tuyết trên núi Kilimanjarô đã tắt. Các bầy thú hoang bắt đầu vắng đi, tan đi.
Patrixia lúc này ở đâu, làm gì?
Tôi đi vào trong lều.
Lều gồm có một phòng ăn và một buồng ngủ, đồ đạc hết sức đơn sơ nhưng hoàn toàn thích hợp với cuộc sống trong khu trại. Từ khu nhà chính này có một hành lang, phía trên chẳng có gì che và hai bên viền dày cành lá, dẫn tôi tới một gian lều nhỏ hơn. Ở đó có nhà bếp và một phòng tắm. Nước nóng được dẫn từ một nồi hình trụ bằng tôn nằm bên ngoài và kê trên những hòn đá bọt, Lửa hừng hực dưới nồi do một người da đen phục dịch đun. Hẳn chính anh hầu đó là người đã kể cho Patrixia biết rằng chiều tối qua tôi đã từ chối những chăm sóc của anh.
“Patrixia... Lại nghĩ đến nó rồi.. tôi tự nhủ. Cần phải bỏ qua nỗi ám ảnh đó đi, và nghĩ tới công việc chính của ta thôi.”
Trong đám giấy tờ của tôi có những thư giới thiệu. Một lá thư có tính chất chính thức phủ toàn quyền Nairôbi trao cho tôi để đưa cho Jôn Blit, giám đốc khu Bảo tồn này. Một thư nữa là thư riêng tư để gửi cho vợ ông ta. Thư đó của một trong các chị bạn học bà ta tình cờ gặp trước khi rời nước Pháp.
Trước lều, tôi thấy Bôgô, anh lái xe của tôi: anh tới xem tôi có ra lệnh gì không. Bộ quần áo bằng lụa dày, đồng phục của hãng thuê xe anh làm phát cho, với hàng khuy dệt bằng kim loại trắng, anh mặc lõng thõng trên tấm thân gầy guộc. Khuôn mặt không rõ tuổi, màu đen xỉn, dưới vầng trán cạo nhẵn và làn da nhăn nheo, nom giống đầu một con rùa.
Khi trao các lá thư cho Bôgô, tôi nghĩ rằng cái con người cực kì lầm lì kia, hơn thế nữa một con người tỏ ra dè dặt dữ tợn đối với người da trắng, thế mà lại bộc lộ mọi chuyện với Patrixia. Tôi đã sắp định hỏi anh duyên cớ vì sao. Nhưng tôi chợt nhận ra đúng lúc rằng, suốt hai tháng sống chung với anh trên những lộ trình gian nan, tôi chưa từng một lần lập được với Bôgô một mối quan hệ không dính dáng ngặt nghèo tới các nhiệm vụ của anh là điều anh thực hiện hết sức xuất sắc.
Khi anh đi rồi, tôi lại nhìn ra khu rừng thưa một lần nữa. Ở đó đã vắng mọi vật. Lúc ấy tôi cảm thấy mình tự do đến mức lạ kỳ và bỗng nhận ra rằng mình đói quá, khát quá.
Bôgô đã đem thùng đựng đồ ăn thức uống của chúng tôi gửi vào nhà bếp. Nhưng cái lò than củi và những xoong nồi treo trên tường tôi chẳng cần. Một bình thủy đầy nước chè, một bình nữa đầy cà phê, vài chai bia, một ve rượu uýt-ki, bánh khô và đồ hộp, tôi còn cần gì thêm nữa trong một cuộc dừng chân ngắn ngủi đến thế?
Tôi ngồi ăn trên hàng hiên. Con khỉ nhỏ và con linh dương bé tí đến với tôi. Con khỉ vớ lấy miếng vả khô. Con linh dương nhận một miếng đường. Núi Kilimanjarô phủ đầy hơi nóng bốc thành những đám mây nhỏ. Tôi đã lấy lại được sự bình tâm.
Bôgô trở lại với một phong bì thư.
- Của bà ấy gửi, - anh nói.
Trong lá thư viết chữ nghiêng, cao và mảnh, và viết bằng tiếng Pháp. Xibin Balit yêu cầu tôi tới thăm bà càng sớm càng tốt. Có thể tới ngay nếu tôi vui lòng.
[2] Mau-Mau: Tên gọi tổ chức bí mật của người da đen Kikuyu nước Kenya để giành động lập (1948). Lãnh tụ là Fômô Kênyata năm 1953 trở thành nguyên thủ nước này. (N.D)