Chương 9
Gian lều tôi trọ rất gần đó, thế mà tôi chẳng biết. Khu làng mọi và khu trại của du khách được các cây gai ngăn ra và che khuất nhau rất khéo, khiến cho mỗi bên tạo thành một dinh cơ kín, hai bên không trông thấy nhau và tưởng như không tới được với nhau.
Đến trước bậc thềm gỗ nhà tôi ở, tôi hỏi Balit:
- Ông uống uýt-ki nhé?
Rồi chẳng đội câu trả lời, cũng như lần trước ở nhà ông ta ông chẳng đợi tôi trà lời, tôi liền mở nút chai.
Đã gần giữa trưa. Ánh sáng chiếu thẳng đứng trắng loá như tấm giấy thiếc trước hàng hiên. Bóng cây cối chẳng còn có chút tác dụng gì nữa.
Chúng tôi im lặng uống, một cái im lặng đậm đà, hiền hoà. Giữa một thế giới nóng bỏng gần như sắp tan rã ra, có hai người đàn ông cùng được chở che dưới một mái nhà, cùng bị cái nóng săn đuổi, cùng sung sướng trong một cảnh trễ nải như nhau, và trong mồm, trong máu, có cùng chất rượu dịu dàng. Hai con người hoàn toàn hòa hợp về mặt thể chất, hai người cùng thấy tình bạn ngày càng nảy nở tự nhiên.
- Tiếc thật... ông ra đi vội quá... tiếc thật, - Balit nói (Tiếng ông ta chỉ hơi khẽ vang lên). - Thực tình ông không thể ở lại thêm nữa sao?
Tôi trả lời, đôi môi chỉ khẽ mấp máy:
- Không thể... chỗ máy bay đã giữ rồi.
Balit thở dài:
- Đúng vào một lần tôi có được một khách thăm tử tế.
Ông ta uống nốt rượu và ngắm chiếc cốc. Tôi rót đầy cốc cho ông ta.
- Bọn khách du lịch... Ông không biết được cái hạng ấy, - Balit nói.
Chầm chậm, từng ngụm từng ngụm một, ông ta kể về người đàn bà đã đến được tận chân núi Kilimanjarô mà vẫn cần đeo đồ trang sức, và chính người ấy một sớm mai kia đã thấy đồ trang sức của bà ta bốc bay khỏi cái bàn, theo chân một con khỉ. Ông kể cho tôi nghe về những người tỏ ra khổ sở vì các gian lều trong trại không có máy lạnh. Và ông kể về những người trái ngược với những người kia, đã cho mang giường ra nằm ngoài nhà, chỉ vì họ bị ám ảnh vì ý thích được phiêu lưu. Và cả những người hy vọng tìm thấy ở khu Bảo tồn những cái sàn xây dựng trên cao, để từ chỗ ấy đêm đêm họ có thể vừa xem các con thú dưới ánh đèn chiếu vừa uống rượu vang vùng Săngpanho, hệt như khi họ sống tại khách sạn nổi tiếng Tritopx ở Niêri vậy... Và những cặp nam nữ âu yếm tặng nhau những tên thú hoang.
- Ấy thê mà, - Balit kết thúc câu chuyện với vẻ sôi nổi thêm một chút, - khi một trong những vị ấy, vì ngu dốt, vì ì ạch nặng nề, hoặc vì huênh hoang không biết ngượng đã vi phạm quy tắc, và chính vì thế đã bị một con thú cao quý tiến công, thì chính tôi và lính bảo vệ lại phải nhận trách nhiệm giết con thú.
- Vậy ông sẽ làm gì, - tôi hỏi, - nếu đó không phải là một nhiệm vụ?
- Khía cạnh đúng đắn duy nhất của nhiệm vụ, chính là làm cho mọi rắc rối có thể xảy ra không xảy ra được, - Balit nói.
Tôi muốn đáp lại, nhưng đột nhiên ông ra hiệu cho tôi ngồi im. Rồi làm một hiệu khác, ông bảo tôi nhìn lên cao theo hướng ngón tay ông chỉ.
Cách bao lan hàng hiên vài bước, vượt lên trên các cành cây keo và dường như mắc vào những cành keo ấy, một cái đầu thon dài với cái mõm bẹt và thơ ngây đang khẽ đung đưa, cái đầu loang lổ những đốm màu vàng đậm, với đôi tai thành hai hình tam giác rất thẳng, với những lông mi dài, rậm, khêu gợi, màu đen mịn như nhung tựa như của đàn bà A-rập. Một con hươu cao cổ non, duyên dáng và thận trọng, đang đi tìm ăn trong đám gai. Một con nữa xuất hiện phía sau con này bộ to lớn hơn nhiều.
- Con mẹ, - Balit nói trong một hơi thở.
Con mẹ này có một cái cổ cao không cùng, óng ánh như lụa, khẽ đu đưa. Con mẹ tới rúc tìm vào ngọn cây sát con hươu non, đặt lên trên cái đầu con nhỏ một cái đầu cũng hệt như thế: mỏm đốm, tai nhọn, lông mi rậm và tưởng như lông mi giả. Tôi ngắm nghía sửng sốt con quái vật hiền hậu hai đầu ấy.
Hai cái đầu chồng lên nhau khẽ khàng dịch chuyển từ cành này qua cành kia và cuối cùng biến mất.
- Ông thấy đó, ở đây các con thú sống tin cậy và hạnh phúc, - Balit nói. - Những con hươu cao cổ này thuộc loại nhút nhát bậc nhất. Vậy mà chúng cũng dám tới sát lều.
Balit tựa cằm vào nắm tay ông ta. Cái nắm tay hình như khổng lồ hơn cái cằm hình như vuông hơn nữa. Mới uống rượu vào, các vết vằn đỏ trong mắt ông càng nhiều và càng nổi rõ. Thế nhưng, trên cái mõm hung đỏ và dữ dằn thấy hiện ra một ao ước đã thành hình. Điều khó mà tin được.
- Ông thấy tôi ra sao? Với một vú em nuôi các thú hoang, cái mõm tôi thật tức cười, phải thế không? - Ông bạn đồng hành hỏi tôi.
- Thực ra thì, - tôi nói, - mọi người ở Nairobi không nói về một chàng Balit-Bò tót vĩ đại như thể này đâu.
- Balit-Bò tót hử? - Ông chủ của khu Vườn hoàng gia nói dằn từng lời.
Cái cằm của ông ta càng đè nặng hơn nữa lên nắm tay. Vẻ mặt ông trở lại kín như bưng.
- Balit-Bò tót, - ông ta nhắc lại. - Lâu rồi tôi chưa nghe cái tên hiệu ấy[5].
- Tên hiệu ấy thực ra rất hợp với ông, - tôi nói.
Ổng bạn tôi từ từ ngẩng cái đầu hung đỏ to tướng lên.
- Chao ơi, tôi biết, - ông ta nói. - Và tôi đã làm mọi cách có thể được để cho tên đó nổi danh... Balit-Bò tót, kẻ săn trộm ngà voi và sừng tê giác. Balit-Bò tót, tên thợ săn chuyên nghiệp, tay súng bắn thuê, kẻ tiêu diệt muông thú lớn trong nhiều tỉnh.
Tôi nói:
- Khắp vùng đông Phi châu, sự tích của ông đúng là như thế đấy.
- Sự thật là như vậy, - Balit nói.
Ông ta đứng lên sừng sững, lao sầm sầm ra ngoài hiên rồi lấy tay nắm gọn bao lơn. Bao lơn rung lên và rền rĩ dưới những ngón tay ông ta.
- Tôi biết làm thế nào trước những lời đồn đại ấy? - Balit hỏi.
Dường như ông ta không hỏi tôi mà đang hỏi cánh rừng thưa, hỏi khu vực thú uống nước và hỏi ngọn Kilimanjarô lặng im và tái nhợt dưới ánh sáng lặng im và tái nhợt.
Ông ta quay trở lại ngồi bên bàn và nói:
- Ngày trước, để khuyến khích tôi học chữ, người ta đã cho tôi một khẩu súng nhẹ. Chưa đầy mười tuổi cha tôi đã dẫn tôi đi săn. Lạy Chúa tôi, người ta đã ru tôi, nuôi dưỡng tôi, nhồi nhét tôi bằng những chuyện săn bắn và những khẩu súng lừng danh. Người ta đã dạy tôi làn theo dấu vết những con thú giỏi ngang một người bản xứ, dạy tôi bắn trúng giữa hai mắt, trúng huyệt vai, trúng giữa tim. Thế rồi khi tôi muốn dùng súng săn hành nghề, thì cha tôi đột nhiên lại nổi điên lên. Ông cụ đã đòi bằng được, hoàn toàn là thế, đòi bằng được đưa tôi về nước Anh trọ học.
Cho tới khi đó Balit vẫn chi nói với riêng mình. Sau rồi ông ta lấy tôi làm người chứng.
- Ông có thể hình dung chuyện đó không, ông ấy? Nhà ngủ, nhà ăn, lớp học, bài học, thay cho lửa trại, thay cho mặt trời trong rừng rậm, thay cho những con thú sống tự do... Tôi chỉ còn một con đường để theo, và tôi đã theo con đường ấy. Tôi đã bỏ nhà ra đi với khẩu súng và đạn dược để sống bằng những thú đó. Và tôi đã sống bằng những thứ đó, sống tốt nữa là khác.
Giọng Balit khi nói những lời cuối cùng đó đã đượm một nỗi buồn kín đáo. Ông ngồi im, trên nét mặt biểu lộ nét mơ màng, khoan dung và hoài nghi của một người già - thế nhưng Balit vẫn chưa tới bốn mươi - khi người đó nhìn lại những niềm vui và những điều ngông cuồng thời trai trẻ, tưởng đâu như là chuyện của kẻ khác vậy.Tôi thấy chẳng khó khăn gì trong việc dõi theo các kỷ niệm của người bạn đồng hành dạn dầy ấy. Quá khứ lăn lộn nơi rừng rậm của ông được khắp nơi biết đến từ bờ biển Ấn Độ Dương cho tới những vùng hồ lớn châu Phi. Tại các tửu quán ở Nairôbi, tại các khách sạn của Uganda, tại các đồn điền ở Tanganyika và Kivu, ở đâu cũng sẵn người kể cho bạn nghe về Balit - Bò tót vào thời thịnh trị của ông ta. Người thì nói về sức khoẻ và sức chịu đựng của ông ta, người khác lại kể về tính kiên trì không thể tưởng tượng được của ông ta, người khác nữa về tính táo tợn của ông ta, người khác nữa về tài đánh hơi và tài bắn chính xác của ông ta. Mỗi người đều chứng minh cho lời mình nói ít nhất bằng một thí dụ lạ kỳ.
Những bầy voi bị tiêu diệt để lấy ngà đem bán cho cánh buôn lậu người Ấn, những đàn trâu bị tàn sát để làm thịt sấy bán cho dân bản địa, những đàn thú bị hạ sát chỉ vì bộ da chúng bán đắt. Rồi những đặc nhiệm chính phủ trao cho Balit tiêu diệt các con thú hoang ở những vùng nào đó vì chúng quá đông. Vô vàn chuyến săn rình để giải thoát cho nhiều làng bị ám ảnh hãi hùng vì những con sư tử - phù thủy và những con báo - mà bằng cách tiêu diệt những con vật ăn thịt người và hiểm nguy, tất thảy đều dính dáng tới cuộc sống động vật, tới rừng rậm không cùng, tới những chòm sao đêm Phi châu... Tôi cảm thấy đó là những hình ảnh hẳn phải tái hiện trong ký ức Balit. Tôi thấy mình chắc đúng khi nghe ông ta nói như trong mơ:
- Kihôrô nhớ đủ mọi chuyện đó.
Âm thanh tiếng nói của chính ông ta khiến ông ý thức được thực tại và thời hiện tại. Nhưng cũng chỉ nhận thức được nửa chừng thôi, vì ông còn hỏi tôi:
- Làm sao lại có thể như thế được nhỉ?
Và khi thấy rõ tôi không hiểu hết nội dung câu hỏi ông nêu ra, ông đã tiếp tục nói một cách hấp tấp:
- Thực ra thì đơn giản vô cùng. Muốn giết thú được nhiều thì phải hiểu biết chúng đầy đủ. Muốn hiểu biết chúng thì phải yêu chúng, và càng yêu chúng người ta càng giết chúng nhiều hơn. Trong thực tế, còn tồi tệ hơn thế nữa. Chính là càng yêu chúng người ta càng thấy nhu cầu và niềm vui được giết chúng. Khi đó, người ta giết bất kể vì người ta đói hay không đói, bất kể vì có lãi hay không hoặc có bán được đắt hay không, có phép bắn hay không, trên vùng cho phép bắn hay vùng cấm, bất kể con thú nguy hiểm hay không có gì tự vệ hết. Nếu đó là con thú đẹp, đường bệ hoặc duyên dáng, nếu con thú làm cho anh rung động sâu xa vì sức mạnh hoặc vì cái duyên của nó, thế là cứ giết, cứ giết... Vì sao?
- Tôi không rõ, - tôi nói. - Rất có thể là, vào cái thời điểm anh hạ sát con thú, đó cũng là thời điểm duy nhất anh cảm thấy con thú thực sự thuộc về anh.
- Có thể, - Balit nói và nhún vai.
Một bầy linh dương đi ngang giữa khu rừng thưa, in bóng lên nền núi Kilimanjarô. Sừng chúng rất mỏng manh và vươn dài ra phía sau, gần như nằm ngang, nom tựa như cái cánh cong cong.
Balit dõi mắt nhìn theo chúng và nói:
- Giờ đây, tâm hồn tôi tràn đầy niềm vui vì được nhìn thấy chúng, đơn giản chỉ vì được nhìn thấy chúng thôi. Nhưng trước đây thì tôi phải chọn con to nhất đàn, con nhanh nhất, với bộ lông đẹp nhất, và không khi nào tôi để con đó thoát.
- Hôn nhân đã làm ông thay đổi hết chăng? - Tôi hỏi.
- Không, - Balit nói. - Tình trạng đó đã xảy ra trước khi tôi gặp Xibin. Chuyện đó cũng không lý giải nhiều hơn được nữa. Một ngày nào đó, ta nổ súng và con thú ngã xuống như mọi ngày. Nhưng ta chợt thấy chuyện đó khiến ta dửng dưng. Niềm vui máu me, xưa kia mạnh hơn hết thảy mọi niềm vui khác, thì nay không còn nữa. (Balit đưa lòng bàn tay to rộng lên xoa bộ lông đỏ phủ kín bộ ngực phanh trần). Theo lệ thường, ta vẫn tiếp tục cho tới một ngày ta không thể cứ làm như vậy được nữa. Ta yêu thú vì muốn thấy chúng sống chứ không nhằm làm cho chúng chết.
Balit đi ra bậc thềm, ngắm nhìn phong cảnh mênh mông ngập tràn hơi nóng bốc mù mù.
- Tôi không phải trường hợp duy nhất như vậy, - ông ta nói. - Các người đứng đầu Vườn hoàng gia vốn xưa đều là tay săn nhà nghề, tất cả đều là những kẻ sát sinh cải đạo. (Ông nở một nụ cười không vui vẻ). Nhưng do chỗ tôi đi xa hơn họ quá nhiều trong nghề giết thú, nên tôi cũng đi xa hơn họ quá theo hướng ngược lại. Vấn đề tư chất, tôi nghĩ vậy… Vả chăng còn là…
Không nói hết câu, Balit hướng mắt nhìn về cuối khu rừng thưa, nơi đó vào lúc này đám nước chỉ còn như một tấm gương xỉn màu. Ông hỏi tôi:
- Đúng là Patrixia đi đến với các con thú ở chỗ kia chứ?
- Đúng chỗ ấy, - tôi nói. - Không nhìn thấy cảnh đó, không thể tin được.
- Khi ta vô hại với chúng, các con thú biết ngay. - Balit nói.
Ông ta quay lại tôi và dường như muốn tìm trên nét mặt tôi, như nhiều lần ông đã làm như vậy, một lời lý giải ông chưa chộp được. Sau rồi ông ta nói:
- Kihôrô báo cáo tôi rằng cháu bé đã nói chuyện lâu với ông.
- Patrixia đã tỏ ra có tình cảm với tôi, - tôi nói, - … cho tới lúc cháu nhớ ra rằng sáng mai tôi ra đi. Khi đó tôi không còn là bạn của cháu nữa.
- Hừ, vậy đó, - Balit thầm thì.
Ông nhắm mắt lại. Đôi vai ông như thể vỡ ra, đôi cánh tay ông buông thõng. Nom ông như một con vật to lớn đang bệnh nặng.
- Con bé sao mà cô đơn, - Balit thì thầm.
Ông mở mắt ra và hỏi tôi:
- Liệu ông có thể ở lại thêm ít ngày không?
Tôi không đáp.
- Mỗi ngày, sáng chiều hai bận, chúng tôi có liên lạc vô tuyến điện với Nairôbi, - Balit nói một cách nhẫn nhịn. - Ông có thể báo lui ngày lấy vé được.
Tôi không trả lời.
- Cũng phải giả định rằng mỗi con người trong cuộc sinh tồn đều có những bổn phận của mình, - Balit nói.
Rồi ông bỏ đi, mắt không nhìn tôi. Như trước đây Patrixia cũng bỏ đi như thế.
[5] Nguyên văn: Bull-Bullit (đọc là Bul-Balit). Tiếng Anh, bull có nghĩa là còn bò tót, tiếng đó cũng tương tự tên của Balit (Bullit). (ND mở rộng một chú thích của tác giả).