← Quay lại trang sách

Chương 10

Tôi rời hàng hiên để vào trong lều và ăn sáng. Với mái tranh nhọn và bùn nhào đắp tường dày, cũng có được một chút mát mẻ.

Bôgô mở các hộp thức ăn và một chai bia. Tôi hỏi anh ta xem anh có gặp lại Patrixia chưa. Anh ta nói: “Thưa ông, không”, rồi lặng im. Vốn đã biết tính anh ta, tôi chẳng hy vọng gì thêm nữa. Thế nhưng, trên đôi má anh và trên trán anh, những hình hình học nhỏ xíu - những tam giác, những hình vuông, những hình tròn - do vô số vết nhăn tạo thành, đang cụ cựa một cách đặc biệt. Anh ta nói tiếp như không định nói ra:

- Tôi không gặp lại cô bé da trắng, nhưng khắp cả làng đều nói với tôi về em đó.

Bôgô dừng một chút, ngập ngừng. Tôi giả tảng mải chú ý vào bữa ăn. Đặt ra bất kỳ câu hỏi nào đều có khả năng gây hốt hoảng cho cái nhu cầu thổ lộ lạ lùng đó.

- Mọi người yêu cô bé lắm, yêu vô cùng, - Bôgô nói tiếp, - nhưng cô bé làm cho họ sợ.

Tôi thốt lên:

- Sợ!

- Cô bé là phù thủy của thú hoang, thưa ông, - Bôgô nói, hạ giọng xuống. - Mọi người thề với tôi rằng cha cô bé là một con sư tử.

Tôi nghĩ tới bộ mặt của Balit và hỏi:

- Người ta có ý nói rằng cha cô bé giống một con sự tử chứ gì?

- Người ta nói một con sư tử thực thụ, thưa ông, - Bôgô nói tiếp.

Giọng nói anh ta bớt vẻ đều đều thường lệ, và làn da mặt như có vẩy, nhăn nhúm, đã chuyển màu từ đen sang màu xám, như thể bị nỗi sợ hãi làm đổi màu đi. Ấy thế mà anh ta lại là người theo đạo Kitô, anh ta ăn mặc lối châu Âu và đọc báo tiếng Anh nước Kênya chứ!

- Anh cho rằng chuyện đó có thể được ư? - Tôi hỏi.

- Mọi thứ đều có thể được, thưa ông, - anh tài xế của tôi nói rất nhỏ. - Tất cả, nếu Chúa muốn thế.

Liệu anh ta đang nghĩ tới Chúa của các nhà truyền giáo, hay nghĩ tới những chúa khác xưa hơn và lắm sức mạnh hơn trên mảnh đất châu Phi này?

Anh ta nói tiếp trong tiếng thì thầm.

- Người ta nhìn thấy cô bé đó trong rừng rậm, nằm kề một con sư tử khổng lồ, và con sư tử bế cô bé trong lòng như bế con vậy.

- Ai đã thấy chuyện đó? - Tôi hỏi.

- Mọi người, - Bôgô nói.

- Những người nào?

- Những người đã nhìn thấy, những người biết chuyện, - Bôgô nói.

Anh ta nhìn tôi một cách thảm hại. Tôi không sao đoán nổi anh ta muốn tôi chia cùng chia sẻ hay muốn tôi không tin vào nỗi sợ hãi của anh.

- Thôi đi, Bôgô, - tôi nói, - hãy nhớ lại mọi chuyện chúng ta đã được nghe suốt hành trình và anh đã dịch cho tôi!... Ở Uganđa, người ta đã trông thấy những người-báo, ở Tanganyika lại thấy những người-rắn. Và trên Hồ Victoria, có cả những người đã trò chuyện với Lutambê, con cá sấu thần to lớn sống đã nghìn năm.

- Thưa ông đúng vậy, - Bôgô nói.

Liệu tôi đã thuyết phục nổi anh chưa? Giọng nói anh ta lại trở về dạng cũ hoàn toàn không bộc lộ tình cảm riêng. Cả trên nét mặt anh ta cũng không thể phân tích thấy dấu hiệu gì.

Một lính bảo vệ bước vào trong lều, Bôgô dịch cho tôi nghe lời người lính kia nói. Anh lính bảo vệ đó được cử tới dẫn tôi đi thăm các nơi. Đó cũng là điều do nội quy yêu cầu. Cấm đi lại trong khu vườn hoàng gia mà không kèm người bảo vệ có vũ trang.

Người lính bảo vệ mang súng trường lên xe chúng tôi và ngồi bên Bôgô. Tôi ngồi phía sau.

Khu bảo tồn rộng mênh mông. Nó trải dài hàng trăm và hàng trăm dặm, rừng rậm khi thì lúp xúp khi thì đầy cây to, khi là rừng xavan khi là đồi và núi nhọn. Và đi tới đâu cũng vẫn thấy núi Kilimanjarô đỉnh phủ đầy tuyết án ngữ những vùng nóng cháy và hoang dã. Đâu đâu cũng có các thú hoang. Chưa khi nào tôi thầy nhiều ngựa vằn phi đến thế, chưa khi nào thấy nhiều đà điểu chạy, thấy nhiều sơn dương và linh dương nhảy nhót đến thế, thấy những đàn trâu đông đến thế, thấy những bầy hươu cao cổ nhiều đến thế.

Không có vùng quây, không có rào, không có một dấu hiệu rõ rệt nào ngăn cách khu vườn với khu rừng rậm thường. Ranh giới chỉ nằm trên các bản đồ, các địa bạ. Ấy thế nhưng các con thú dường như cảm thấy, biết rõ (Và truyền đạt điều đó cho nhau bằng một ngôn ngữ bí ẩn) đó là nơi bảo vệ chúng, nơi trú ẩn của chúng.

Sự hùng vĩ của thiên nhiên và sự phong phú của các con thú bắt đầu khiến tôi ngây ngất. Nhưng rất nhanh chóng tôi cảm thấy chính những điều hùng vĩ đó đối với tôi lại trở thành một nguồn gốc của sự khó chịu và dường như của sự đau đớn. Một khi tôi muốn dừng lại và tới gần các con thú, thế là người lính bảo vệ liền ngăn không cho tôi đi quá vài mét mỗi bên đường đi, hơn thế nữa còn kè kè đứng sát tôi. Một khi tôi định cho xe chạy theo một trong hàng ngàn đường mòn sâu vào rừng hoặc len giữa các quả đồi, đi tới những ổ những hang, thế là người lính bảo vệ liền cấm đoán. Chúng tôi không có một chút quyền tự do vượt khỏi lộ trình hợp pháp, chính thức. Tức là một con đường thô kệch và khá rộng chạy dọc khu Vườn hoàng gia với vài đường nhánh lác đác do Balit cho làm.

Tôi chợt nhớ tới những điều ông ta nói về bọn khách du lịch và những đề phòng của Balit dành cho họ. Tôi cũng chỉ là một người như bọn họ, không hơn không kém.

Nếu tôi đã được sống bữa nay trong Khu bảo tồn như mọi du khách thông thường khác, hẳn tôi phải cảm thấy sung sướng được chiêm ngưỡng các mặt phong phú của Khu theo đúng luật chung. Nhưng Balit đã hứa sẽ cho tôi biết những chỗ kín, những ngóc ngách. Và nhất là, đúng thế, nhất là, tôi đã được cùng Patrixia biết cái khu uống nước của thú vào lúc mặt trời lên.

Thỉnh thoảng, người lính bảo vệ vươn bàn tay dài, đen và xương xẩu chỉ sang phải hoặc sang trái và nói:

- Ximba.

- Tembô.

Những tiếng ấy, những tiếng duy nhất tôi biết trong ngôn ngữ anh ta, có nghĩa là, ở một khu rừng cây gai tái sinh xa xôi mà tôi không được phép đặt chân tới, có sư tử sống tại đó, và ở đó, khuất sau những quả đồi do núi lửa tạo thành, mà tôi không thể tới được, có những đàn voi đang lang thang. Và xe hơi của tôi cứ tiếp tục nảy xóc trên con đường được chỉ định. Tôi có cảm tưởng bị trừng phạt, bị bớt xén, thất vọng, mất mát. Cuối cùng, lại thêm nóng và bụi, không chịu được nữa, bèn ra lệnh cho Bôgô đưa xe quay về trại.

Đến trước lều của tôi, người lính bảo vệ đứng chụm hai gót chân đen không giầy dép, đưa bàn tay đen đủi và xương xẩu lên trên vành mũ kaki, đeo ngược khẩu súng trường xuống và đi về phía làng mọi với một nụ cười cũng sáng bóng như các cúc áo kim loại bẹt và mài bóng của anh ta. Anh ta đã hoàn thành nhiệm vụ: Bảo vệ cho tôi khỏi các con thú và khỏi chính bản thân tôi.

Tôi nhìn mặt trời. Tôi còn được gần một giờ rảnh rỗi trước khi tới nhà vợ chồng Balit tham dự bữa nghi thức dùng trà. Làm gì trong khoảng thời gian đó bây giờ?

Không còn chút sương mù nóng nào nữa. Trời hoàn toàn trong và nhẹ. Ánh sáng và các bóng râm lại đã giỡn trên mặt đất và bên thành vách núi to mênh mông. Trên đỉnh núi hình cái bàn, như một tấm đá lát huyền ảo bằng phẳng và trắng như một bàn thờ dựng lên, tuyết bất động, tuyết vĩnh cửu bắt đầu một cuộc sống sôi sục bí ẩn và trở thành một thứ bọt khi thì xốp rỗng, khi thì trên chòm có màu điều, màu da cam, màu hổ phách và màu vàng.

Sâu trong cánh rừng thưa, không còn trông thấy các con thú nữa. Chim chóc thôi hót. Các con khỉ đã dừng những trò ồn ào. Không một cành cây, không một kim lá còn động đậy, không một cành gai còn lay động trên các con đường mòn. Đó là thời khắc yên tĩnh nghỉ ngơi, dừng chân, lúc này và ở đây nó có đầy đủ sức mạnh vĩ đại, vào lúc hoàng hôn tuy chưa lộ ra nhưng đã báo hiệu sắp tới, vào lúc mặt trời dường như dừng vận động trước khi nhường các dáng hình và các vật sống cho đôi cánh tối tăm của chiều buông.

- Xin ông cho lệnh, thưa ông, - Bôgô hỏi.

Không phải âm thanh giọng nói của anh ta đã khiến tôi rùng mình, mà tôi rùng mình vì tiếng nói anh ta khiến tôi trở về với ý thức, với sự hiện diện của bản thân con người mình. Trước đó một phút, hoặc một giây, hoặc một phần giây - nào tôi biết được và cần gì biết - tôi đã không còn tồn tại trong những giới hạn thảm hại của con người, và tôi đã mất đi, đã hòa tan trong vũ trụ vô hạn, tôi đã trở thành cái vũ trụ ấy chính là bản thân tôi vậy.

Nhưng Bôgô đã lên tiếng và tôi chợt thấy mình cứng quèo, co hẹp lại chỉ trong bản chất mình thôi, dường như đã bị khâu lại một cách miễn cưỡng vào trong làn da thịt tôi vậy. Và bị buộc phải chỉ huy, phải hành động, phải làm một cái gì đó. Và biết làm gì đây cho phù hợp với rừng rậm và tuyết châu Phi khi chiều đang buông trùm lên chúng?

Từ trong đám cây gai kín đáo có hai người bước ra, hai người tộc Maxai.