2015. Almería. Miền Nam Tây Ban Nha. Tháng Tám.
Hôm nay, tôi đánh rơi lap top xuống sàn bê tông của một quán bar trên bãi biển. Chiếc máy tính kẹp dưới cánh tay tuột ra khỏi lớp vỏ cao su màu đen (được thiết kế giống như một phong bì), phía màn hình đập xuống đất. Kính màn hình vỡ nhưng ít nhất máy vẫn còn hoạt động. Chiếc laptop chứa cả cuộc đời tôi trong đó và biết rõ về tôi hơn bất cứ ai khác.
Nên điều tôi muốn nói là nếu nó hỏng, thì đời tôi cũng hỏng nốt.
Màn hình chờ của tôi để hình một bầu trời đêm tím lịm, chi chít sao, chòm sao và dải Ngân Hà - Con Đường - Sữa trong tiếng Latin cổ. Nhiều năm trước, mẹ nói rằng tôi phải viết Ngân Hà như thế này - γαλαζιας κϑκλος - và rằng Aristotle đã nhìn lên dải Ngân Hà ở Chalcidice [1] , cách Thessaloniki” ngày nay - nơi sinh của bố tôi - gần 55 cây số về phía Đông. Ngôi sao già nhất khoảng 13 tỷ năm tuổi, nhưng những ngôi sao trên màn hình chờ của tôi mới hai tuổi thôi và được làm ở Trung Quốc. Cả vũ trụ này giờ đã vỡ tan.
Tôi không thể làm gì. Hình như có một quán cà phê Internet ở thị trấn xập xệ kế bên và ông chủ tiệm đôi khi sửa những lỗi máy tính vặt, nhưng ông ấy sẽ phải đặt mua một màn hình mới và sẽ mất cả tháng hàng mới tới nơi. Liệu tôi có còn ở đây sau một tháng? Tôi không biết. Điều đó phụ thuộc vào bà mẹ ốm yếu của tôi, người đang ngủ bên dưới lớp màn chống muỗi ở phòng bên cạnh. Bà sẽ tỉnh dậy và la lên, “Sofia, lấy nước cho mẹ,” rồi tôi sẽ lấy nước cho mẹ nhưng bà chẳng bao giờ hài lòng với nước tôi lấy. Tôi không còn chắc nước có nghĩa gì nữa, nhưng tôi sẽ lấy cho mẹ nước theo cách hiểu của tôi: từ một chai trong tủ lạnh, từ một chai ngoài tủ lạnh, từ ấm nước đun sôi để nguội. Khi nhìn chăm chú vào khoảng trời sao trên màn hình chờ, tôi thường bồng bềnh trôi khỏi thời gian theo cách vô cùng kỳ lạ.
Mới chỉ mười một giờ tối và tôi có thể ra bồng bềnh trên biển, nhìn lên bầu trời đêm thật và dải Ngân Hà thật, nhưng tôi ngại bọn sứa. Chiều qua, tôi bị sứa chích và bắp tay trái sưng lên một lằn tím nhức nhối. Tôi phải chạy băng qua bãi cát nóng bỏng chân tới lều cứu thương ở cuối bãi biển để xin thuốc mỡ từ cậu sinh viên (với bộ râu rậm rạp) có nhiệm vụ ngồi ở đó cả ngày để chăm sóc những du khách bị sứa chích. Cậu ta nói với tôi rằng ở Tây Ban Nha người ta gọi sứa là medusa. Tôi tưởng Medusa là một nữ thần Hy Lạp bị nguyền rủa biến thành quái vật sở hữu cái nhìn quyền năng có thể biến bất cứ ai nhìn vào mắt bà thành đá. Vậy tại sao sứa lại được đặt theo tên bà? Cậu ta đồng ý, nhưng đoán rằng các xúc tu của con sứa gợi nhớ đến mái tóc của Medusa, vốn được mô tả trong các bức tranh là một mớ rắn quằn quại.
Tôi có thấy hình ảnh Medusa vẽ kiểu hoạt hình in trên lá cờ cảnh báo nguy hiểm màu vàng bên ngoài lều cứu thương. Bà ta có nanh dài và đôi mắt điên dại.
“Khi lá cờ Medusa tung bay, tốt nhất là không nên bơi. Chị thực sự nên cân nhắc điều đó.”
Cậu ta lấy một miếng bông đã ngâm trong nước biển đun nóng và chấm nhẹ vào vết chích rồi đề nghị tôi ký vào một tờ khai giống như đơn kiến nghị. Đó là danh sách tất cả những người trên bãi biển đã bị sứa chích trong ngày. Tôi phải cung cấp tên, tuổi, nghề nghiệp, quê quán vào bản khai. Thật nhiều thông tin phải nghĩ tới trong khi cánh tay đang phồng rộp và nóng ran. Cậu ta giải thích rằng mình phải đề nghị tôi điền vào đơn để giữ cho lều cứu thương được tiếp tục hoạt động trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế ở Tây Ban Nha. Nếu các du khách không có lý do sử dụng dịch vụ này, cậu ta sẽ thất nghiệp, nên cậu ta rõ ràng là hài lòng với bọn medusa. Chúng cho cậu ta bánh mì để ăn và xăng để đổ xe máy.
Ngó vào bản danh sách, tôi có thể thấy độ tuổi của những người bị medusa chích trải từ bảy tới bảy muơi tư và chủ yếu là người tới từ khắp các vùng miền ở Tây Ban Nha, nhưng cũng có một vài du khách người Anh và ai đó từ Trieste [2] . Tôi luôn muốn tới Trieste bởi tên nó nghe giống “tristesse”, một từ khá nhẹ nhàng, vui vẻ, mặc dù trong tiếng Pháp nghĩa là “nỗi buồn”. Từ này trong tiếng Tây Ban Nha là “tristeza”; nó nặng nề hơn nỗi buồn Pháp và giống tiếng rên rỉ hơn lời thì thầm.
Tôi không hề thấy con sứa nào trong khi đang bơi nhưng cậu sinh viên giải thích rằng các xúc tu rất dài bởi vậy nó có thể chích từ khoảng cách xa. Ngón tay trỏ của cậu ta dính thứ thuốc mỡ mà cậu đang bôi lên cánh tay tôi. Cậu ta dường như biết rất nhiều về loài sứa. Bọn medusa trong suốt bởi cơ thể tới 95% là nước, vậy nên chúng có thể ẩn mình dễ dàng. Ngoài ra, một trong những lý do chúng xuất hiện quá nhiều ở các đại dương trên thế giới là bởi tình trạng đánh bắt cá quá mức. Quan trọng là tôi phải cẩn thận không cọ hoặc gãi những vết sưng. Có thể vẫn còn những tế bào sứa trong cánh tay của tôi và cọ vào vết chích sẽ khiến chúng tiết ra thêm nọc độc, nhưng loại thuốc mỡ đặc biệt của cậu ta sẽ vô hiệu hóa những tế bào gây đau đó. Khi cậu ta nói, tôi có thể thấy đôi môi hồng mềm mại kia giống như một con medusa giữa bộ râu rậm. Cậu ta đưa cho tôi một mẩu bút chì và đề nghị tôi điền vào đơn.
Tên: Sofia Papastergiadis
Tuổi: 25
Quê quán: Vương quốc Anh
Nghề nghiệp:
Bọn sứa đâu có quan tâm về nghề nghiệp của tôi, vậy bắt tôi điền làm gì chứ? Thật khó chịu, chỗ này còn đau hơn cả vết chích trên tay tôi và phiền phức hơn cả cái họ không ai có thể đọc hoặc đánh vần của tôi nữa. Tôi nói với cậu ta rằng tôi có bằng ngành nhân học nhưng hiện tại đang làm việc trong một quán cà phê ở Tây London tên là Coffee House, có Wi-Fi miễn phí và những băng ghế nhà thờ được tân trang lại. Chúng tôi tự rang hạt cà phê và làm ba loại espresso thủ công... bởi vậy tôi không biết ghi gì ở mục “Nghề nghiệp”.
Cậu sinh viên giật giật bộ râu. “Vậy các nhà nhân học như chị nghiên cứu người nguyên thủy à?”
“Phải, nhưng người nguyên thủy duy nhất mà tôi từng nghiên cứu là bản thân tôi.”
Tôi đột nhiên cảm thấy nhớ da diết những công viên ẩm ướt, bình yên của Anh. Tôi muốn duỗi cơ thể nguyên thủy của mình trên thảm cỏ xanh mướt nơi không có con sứa nào bồng bềnh trôi giữa những lá cỏ. Ở Almería không có thảm cỏ xanh, ngoại trừ trên các sân golf. Những ngọn đồi thì cằn cỗi, mù bụi, khô nứt nẻ đến mức họ từng lấy làm nơi quay phim cao bồi - trong đó có cả bộ phim mà Clint Eastwood đóng chính. Những cao bồi thực thụ chắc hẳn luôn bị nẻ môi bởi đôi môi của tôi đã bắt đầu khô nứt dưới nắng, mà đấy là tôi còn bôi sáp môi hằng ngày cơ. Có lẽ các cao bồi dùng mỡ động vật? Họ có nhìn chằm chằm lên bầu trời vô tận và cảm thấy thiếu vắng những nụ hôn và sự âu yếm? Và có phải những phiền muộn của họ cũng biến mất vào cái bí ẩn của không gian, giống như những phiền muộn của tôi đôi khi biến mất lúc tôi chăm chú nhìn các thiên hà trên màn hình chờ đã vỡ tan của mình?
Cậu sinh viên dường như hiểu biết về nhân học cũng khá như loài sứa. Cậu ta muốn gợi ý cho tôi đề tài “nghiên cứu thực địa gốc” khi tôi đang ở Tây Ban Nha. “Chị có nhìn thấy những công trình nhựa trắng trải khắp các vùng đất ở Almería chưa?”
Tôi có nhìn thấy đống nhựa trắng ma quái ấy. Chúng trải dài xa hút tầm mắt trên các đồng bằng và thung lũng.
“Đó là những nhà kính,” cậu ta nói. “Nhiệt độ bên trong các trang trại này ở sa mạc có thể lên tới bốn mươi lăm độ. Họ thuê những người nhập cư bất hợp pháp để hái cà chua và hạt tiêu cho các siêu thị, nhưng đó gần như là một kiểu nô dịch.”
Tôi cũng nghĩ vậy. Thứ gì được che phủ cũng luôn thú vị. Đã được che phủ thì chẳng bao giờ không có gì bên dưới cả. Khi còn nhỏ, tôi thường dùng tay che mặt để không ai biết tôi ở đó. Rồi tôi phát hiện ra che mặt mình sẽ khiến tôi bị chú ý hơn bởi mọi người tò mò muốn xem thứ mà tôi muốn giấu từ đầu.
Cậu ta nhìn họ của tôi trong tờ khai và sau đó chuyển ánh mắt sang ngón cái trên bàn tay trái của mình, mà cậu ta giờ gập lại, như thể đang kiểm tra xem khớp còn hoạt động không.
“Chị là người Hy Lạp, phải không?”
Sự chú ý của cậu ta cứ để ở đâu đâu, khiến tôi khó chịu. Nãy giờ cậu ta không thực sự nhìn thẳng vào tôi lần nào. Tôi kể lại câu chuyện quen thuộc: bố tôi là người Hy Lạp, mẹ tôi là người Anh, tôi sinh ra ở Anh.
“Hy Lạp là một nước nhỏ hơn Tây Ban Nha nhưng không thể trả các khoản nợ của mình. Giấc mơ đã tàn.”
Tôi hỏi cậu ta đang nói tới nền kinh tế à. Cậu ta đáp rằng phải, cậu ta đang theo học lấy bằng thạc sĩ ở khoa Triết thuộc Đại học Granada nhưng tự thấy bản thân may mắn khi có một công việc mùa hè ở lều cứu thương trên bãi biển. Nếu Coffee House vẫn còn tuyển dụng khi cậu ta tốt nghiệp, cậu ta sẽ tới London. Cậu ta không biết tại sao lại nói giấc mơ đã tàn bởi cậu không tin như thế. Có lẽ cậu đã đọc điều này ở đâu đó và bị nó ám ảnh. Nhưng đó không phải là ý kiến của cậu, một câu nói kiểu như “giấc mơ đã tàn” ấy. Đầu tiên, người mơ là ai mới được? Giấc mơ vì cộng đồng duy nhất mà cậu có thể nhớ là từ bài phát biểu của Martin Luther King [3] “Tôi có một giấc mơ...”, nhưng câu nói về chuyện giấc mơ đã tàn ám chỉ rằng một điều gì đó đã bắt đầu và giờ kết thúc rồi. Nói rằng giấc mơ đã chấm dứt là quyền của người mơ, không ai có thể nói thay họ được.
Sau đó, cậu ta nói một câu bằng tiếng Hy Lạp và có vẻ ngạc nhiên khi tôi bảo rằng tôi không biết tiếng Hy Lạp.
Thật là một nỗi xấu hổ triền miên, khi có cái họ là Papastergiadis mà không biết ngôn ngữ của bố mình.
“Mẹ tôi là người Anh.”
“Vâng,” cậu ta nói nói tiếng Anh như người bản địa. “Tôi chỉ mới tới Skiathos ở Hy Lạp một lần nhưng cũng đã học được vài câu.”
Như thể cậu ta chê khéo việc tôi là một người Hy Lạp nửa mùa. Bố bỏ mẹ khi tôi mới năm tuổi, mẹ là người Anh và chủ yếu nói với tôi bằng tiếng Anh. Điều đó thì liên quan gì cậu ta chứ? Dù sao vết sứa chích mới là thứ cậu ta nên quan tâm tới.
“Tôi đã nhìn thấy chị ở quảng trường cùng với mẹ.”
“Đúng rồi.”
“Mẹ chị đi lại khó khăn à?”
“Thỉnh thoảng Rose có thể đi, thỉnh thoảng không.”
“Tên mẹ chị là Rose?”
“Phải.”
“Chị gọi mẹ mình bằng tên à?”
“Phải.”
“Chị không gọi là mẹ?”
“Không.”
Chiếc tủ lạnh nhỏ kê ở góc lều cứu thương kêu rì rì giống như một thứ gì đó chết cứng và lạnh ngắt nhưng mạch vẫn đập. Tôi tự hỏi liệu trong đó có nước đóng chai hay không. Agua con gas, agua sin gas [4] . Lúc nào tôi cũng nghĩ cách lấy cho mẹ đúng thứ nước bà muốn.
Cậu sinh viên nhìn đồng hồ đeo tay. “Quy định cho bất cứ ai bị sứa chích là phải ở lại đây năm phút. Như vậy để tôi có thể chắc chắn chị không bị trụy tim hoặc gặp phản ứng nào khác.”
Cậu ta lại chỉ vào ô “Nghề nghiệp” trên tờ khai, chỗ tôi bỏ trống.
Có thể là do cơn đau từ vết chích, nhưng tôi chợt thấy mình kể với cậu ta bản rút gọn câu chuyên đời lâm ly của mình: “Tôi không có nghề nghiệp cụ thể vì một cái nghiệp mà tôi đang gánh, chính là mẹ tôi, Rose.”
Cậu ta rà các ngón tay dọc cẳng chân mình trong khi tôi nói.
“Chúng tôi đi Tây Ban Nha để tới phòng khám Gómez kiểm tra xem đôi chân của mẹ tôi thực sự bị gì. Ba ngày nữa chúng tôi có cuộc hẹn đầu tiên với bác sĩ.”
“Mẹ của chị bị liệt chân?”
“Chúng tôi không biết. Đó là một bí ẩn. Tình trạng này đã kéo dài một thời gian.”
Cậu ta bắt đầu gỡ một ổ bánh mì trắng được gói trong màng bọc thực phẩm. Tôi tưởng đó có thể là phần hai của liệu pháp chữa vết sứa chích, nhưng hóa ra nó là sandwich bơ lạc, mà cậu ta nói là món ăn trưa khoái khẩu của mình. Cậu ta cắn một miếng nhỏ và bộ râu đen bóng bẩy nhúc nhích qua lại khi cậu ta nhai. Có vẻ cậu ta biết về phòng khám Gómez; nơi đó được đánh giá cao. Cậu ta cũng biết người phụ nữ cho chúng tôi thuê căn nhà nhỏ hình chữ nhật trên bãi biển. Chúng tôi chọn nhà đó vì không có cầu thang. Tất cả mọi phòng đều nằm cùng một tầng, hai phòng ngủ kề nhau, sát bếp; căn nhà lại còn gần quảng trường lớn với các quán cà phê và chợ địa phương. Nó cũng ở kế bên trường dạy lặn Escuela de Buceo y Náutica, khối hộp màu trắng hai tầng với các khung cửa sổ có hình dạng giống ô đặt nòng súng đại bác trên tàu. Khu vực lễ tân đang được sơn lại. Hai người đàn ông Mexico làm việc mỗi buổi sáng với những thùng sơn trắng lớn. Một con chó béc giê Đức còm nhom hay tru bị xích cả ngày vào một thanh sắt trên sân thượng của trường dạy lặn. Con chó là của Pablo, hiệu trưởng trường lặn, nhưng Pablo thì ngồi máy tính suốt ngày để chơi trò điện tử tên Bình khí lặn vô đáy . Con chó điên loạn cứ giật xích và thường xuyên cố nhảy khỏi nóc nhà.
“Không ai thích Pablo,” cậu sinh viên tán thành. “Ông ta là kiểu người có thể nhổ lông một con gà vẫn còn sống.”
“Đó là một đề tài nghiên cứu thực địa về nhân học khá hay,” tôi nói.
“Cái gì là đề tài cơ?”
“Tại sao không ai thích Pablo.”
Cậu sinh viên giơ ba ngón tay lên. Tôi đoán điều đó có nghĩa là tôi phải ngồi trong lều cứu thương thêm ba phút nữa.
Vào buổi sáng, các nam nhân viên ở trường dạy lặn sẽ hướng dẫn học viên cách mặc bộ đồ lặn. Họ không thoải mái trước việc con chó bị xích cả ngày, nhưng vẫn tiếp tục công việc phải làm. Nhiệm vụ thứ hai của họ là đổ xăng qua một cái phễu vào những két nhựa rồi đặt chúng trên một thiết bị chạy điện đẩy xuyên qua bãi cát để chất lên tàu. Công nghệ này khá phức tạp khi so với nhân viên massage người Thụy Điển, Ingmar, người thường dựng lều vào cùng thời điểm đó trong ngày. Ingmar chuyển chiếc giường massage của anh ta ra bãi biển bằng cách gắn những quả bóng bàn vào chân giường và trượt nó đi trên cát. Anh ta kêu ca riêng với tôi về con chó của Pablo, như thể chuyện tôi tình cờ ở cạnh trường dạy lặn có nghĩa tôi phần nào cũng là chủ của con chó béc giê khốn khổ. Các khách hàng của Ingmar không bao giờ có thể thư giãn, bởi con chó hết rền rĩ lại tru rồi sủa và tìm cách tự sát trong suốt quá trình massage sử dụng liệu pháp mùi hương của họ.
Cậu sinh viên trong lều cứu thương hỏi tôi có còn thở không.
Tôi bắt đầu nghĩ rằng cậu ta muốn giữ tôi lại đây.
Cậu ta giơ một ngón tay lên. “Chị phải ở đây với tôi thêm một phút nữa, rồi tôi sẽ phải hỏi lại chị cảm thấy thế nào.”
Tôi muốn sống một cuộc đời to lớn hơn.
Tôi chủ yếu cảm thấy mình là một thất bại, nhưng tôi thà làm việc ở Coffee House còn hơn được thuê để tiến hành nghiên cứu tại sao khách hàng thích loại máy giặt này hơn loại khác. Phần lớn các sinh viên học chung với tôi cuối cùng đều trở thành chuyên gia nhân học cho doanh nghiệp. Nếu nhân học là những mô tả khoa học về văn hóa, thì nghiên cứu thị trường cũng là một dạng văn hóa (nơi người ta ở, môi trường sống của họ, cách mà nhiệm vụ giặt quần áo được phân công cho các thành viên trong cộng đồng...) nhưng cuối cùng, tất cả đều là để bán máy giặt. Tôi cũng không chắc là mình muốn làm nghiên cứu thực địa gốc có dính tới việc nằm trên võng quan sát những con bò thiêng gặm cỏ trong bóng mát nữa.
Tôi không đùa khi nói rằng đề tài Tại sao ai cũng ghét Pablo sẽ là một nghiên cứu thực địa hay.
Với tôi, giấc mơ đã tàn. Nó bắt đầu khi tôi để người mẹ tàn tật một mình mà đi hái lê trong khu vườn ở Đông London của chúng tôi, vào mùa thu mà tôi dọn đồ lên đại học. Tôi giành được bằng cử nhân danh dự bậc nhất. Nó tiếp tục khi tôi học để lấy bằng thạc sĩ. Nó kết thúc khi mẹ tôi ốm nặng và tôi bỏ bằng tiến sĩ. Luận án tiến sĩ tôi đang viết dở dang vẫn còn nấp trong một tệp dữ liệu phía sau màn hình chờ vỡ tan như một xác chết tự sát vô thừa nhận.
Phải, vài thứ đang dần to lớn hơn (sự thiếu phương hướng trong cuộc đời tôi chẳng hạn), nhưng thảy đều không phải thứ tôi mong đợi. Bánh quy ở Coffee House đang ngày một to lên (cỡ bằng đầu tôi rồi), hóa đơn tính tiền cũng lớn hơn trước (có quá nhiều thông tin in trên tờ hóa đơn, bản thân nó gần như một nghiên cứu thực địa vậy), cả bắp đùi của tôi nữa (chế độ ăn nhiều bánh ngọt, sandwich...). Số dư trong tài khoản ngân hàng của tôi thì teo lại và chanh leo cũng thế (mặc dù lựu đang trở nên to hơn, cùng với ô nhiềm không khí và nỗi xấu hổ của tôi khi ngủ lại năm tối mỗi tuần ở nhà kho phía trên Coffee House). Phần lớn các đêm ở London, tôi đều lăn ra bất tỉnh trên chiếc giường đơn trẻ con. Tôi không bao giờ có cớ để đi làm muộn. Phần tệ nhất trong công việc của tôi là những khách hàng nhờ tôi xem giúp có vấn đề gì với thiết bị sạc và chuột không dây du lịch của họ. Họ đang trên đường tới một nơi nào đó trong khi tôi thì bận thu dọn cốc của họ và viết nhãn cho bánh phô mai.
Tôi giậm chân để làm bản thân sao nhãng khỏi cơn đau nhức nhối ở cánh tay. Rồi tôi nhận ra dây buộc cổ bikini của mình đã đứt và bộ ngực trần của tôi nẩy lên nẩy xuống trong khi tôi giậm chân. Sợi dây chắc hẳn đã đứt khi tôi đang bơi, có nghĩa là tôi đã để ngực trần chạy dọc bãi biển vào trong lều cứu thương. Có lẽ đó là lý do cậu sinh viên không biết đặt ánh mắt ở đâu trong suốt cuộc trò chuyện của chúng tôi. Tôi quay lưng lại cậu ta trong khi xoay xở với sợi dây.
“Chị cảm thấy thế nào?”
“Tôi ổn.”
“Chị có thể đi rồi.”
Khi tôi quay lại, đôi mắt cậu ta lướt qua bộ ngực mới được che kín lại của tôi.
“Chị vẫn chưa điền vào ô ‘Nghề nghiệp’.”
Tôi lấy bút chì và ghi: PHỤC VỤ BÀN.
✽ ✽ ✽
Mẹ đã dạy tôi cách giặt chiếc váy vàng có họa tiết hoa hướng dương của bà bởi bà sẽ mặc nó đến buổi khám đầu tiên ở phòng khám Gómez. Cũng được thôi. Tôi thích giặt quần áo bằng tay và đem phơi dưới ánh mặt trời. Vết chích lại nhói đau dù cậu sinh viên đã bôi thuốc mỡ phủ kín nó. Mặt tôi nóng bừng nhưng tôi nghĩ đó là do cảm giác khó khăn khi phải điền vào ô “Nghề nghiệp” trong tờ khai. Như thể nọc từ vết medusa chích sau đó đã kích hoạt thứ chất độc vốn tiềm tàng trong cơ thể tôi. Vào thứ Hai, mẹ tôi sẽ bày ra cho bác sĩ một loạt các triệu chứng khác nhau của bà như xếp những chiếc bánh canapé [5] bí ẩn. Tôi sẽ là người bưng chiếc khay.
***Line Note Zone***
Chalcidice: Bán đảo ở miền Bắc Hy Lạp. Thessaloniki: Một thành phố cảng ở Hy Lạp.
Trieste: Một thành phố và hải cảng nằm ở Đông Bắc Ý.
Martin Luther King: Nhà hoạt động nhân quyền người Mỹ gốc Phi, được trao giải Nobel Hòa bình năm 1964.
Tiếng Tây Ban Nha: Nước có ga; nước không ga.
Canapé: Món khai vị phổ biến trong các bữa tiệc, được bày biện đẹp mắt với kích thước nhỏ xinh.
Cô ấy kia. Cô gái Hy Lạp xinh đẹp mặc bikini đang đi bộ trên bãi biển. Có một cái bóng giữa cơ thể cô ấy và cơ thể tôi. Đôi lúc cô ấy lê chân trên cát. Cô ấy không có ai giúp thoa kem chống nắng lên lưng và nói ở đây, đúng, không, phải rồi, ở đó.