← Quay lại trang sách

Bác sĩ Gómez

Chúng tôi đã bắt đầu một hành trình dài đi tìm người chữa bệnh. Tài xế taxi được thuê để đưa chúng tôi tới phòng khám Gómez không thể hiểu chúng tôi căng thẳng như thế nào hay đang phải đối mặt điều gì.

Chúng tôi đã bắt đầu một chương mới trong cuốn sử về đôi chân của mẹ tôi và điều đó đã đưa chúng tôi tới vùng bán hoang mạc ở Nam Tây Ban Nha.

Chẳng phải chuyện nhỏ nhặt nào đâu. Chúng tôi đã phải thế chấp căn nhà của Rose để chi trả cho việc chữa trị của bà ở phòng khám Gómez. Tổng chi phí là hai mươi lăm nghìn euro, một khoản rất lớn phải chi; nhất là khi tôi còn đã tìm hiểu các triệu chứng của mẹ tôi suốt một thời gian rất lâu rồi.

Cuộc điều tra riêng của tôi đã kéo dài khoảng hai mươi năm trong số hai mươi lăm năm cuộc đời tôi. Có lẽ còn hơn thế. Hồi bốn tuổi, tôi đã hỏi mẹ đau đầu nghĩa là gì. Mẹ nói với tôi rằng nó giống như một cánh cửa đóng sầm trong đầu bà. Tôi đã trở thành một người giỏi đọc ý nghĩ người khác, thế có nghĩa đầu của bà là đầu của tôi. Có rất nhiều cánh cửa đóng sầm liên tục và tôi là nhân chứng chính.

Nếu tôi xem mình là một thám tử bất đắc dĩ với khát vọng tìm ra công lý, điều đó có khiến căn bệnh của mẹ trở thành một tội ác chưa được giải đáp không? Nếu vậy, ai là kẻ thủ ác, ai là nạn nhân? Nỗ lực để giải mã các cơn đau nhức của mẹ, những tác nhân thúc đẩy và kích thích chúng, là cách rèn luyện tốt cho một nhà nhân học. Có những lần tôi nghĩ mình sắp có một khám phá quan trọng, sắp biết các thi thể được chôn ở đâu, để rồi rốt cuộc lại bị ngáng trở. Rose lại xuất hiện một triệu chứng mới hoàn toàn bí hiểm, và vì thế mà được kê cho một phương thuốc mới hoàn toàn bí hiểm. Các bác sĩ Anh mới đây đã kê thuốc chống suy nhược cho đôi bàn chân của mẹ. Mẹ nói với tôi như thế - thuốc dành cho các mút thần kinh ở chân của bà.

Phòng khám nằm gần thị trấn Carboneras, nổi tiếng với nhà máy xi măng. Mất khoảng ba mươi phút đi xe. Mẹ và tôi rét run ở băng ghế sau xe taxi bởi điều hòa đã biến cái nóng sa mạc thành cái gì đó giống mùa đông ở Nga. Tài xế nói với chúng tôi rằng “carboneras” nghĩa là kho than và cánh rừng từng che phủ dãy núi đã bị chặt hạ để đốt than. Mọi thứ đều bị triệt hạ cho “lò nung”.

Tôi hỏi anh ta có thể tăng nhiệt độ điều hòa không.

Anh ta khăng khăng rằng điều hòa tự động và không thể chỉnh được nhưng anh ta có thể chỉ nơi chúng tôi sẽ tìm được các bãi biển có nước sạch, trong vắt.

“Bãi biển tuyệt nhất là Playa de los Muertos, nghĩa là ‘Bãi biển của người chết’. Nó chỉ cách thị trấn năm cây số về phía Nam. Hai mẹ con sẽ phải đi bộ xuống núi khoảng hai mươi phút. Không có con đường xe chạy nào dẫn tới đó.”

Rose rướn người tới trước và vỗ nhẹ vào vai anh ta. “Chúng tôi ở đây vì tôi mắc bệnh xương và không thể đi bộ.” Mẹ cau mày khi nhìn thấy tràng hạt bằng nhựa treo trước gương của anh ta. Rose là một người vô thần tuyệt đối, còn hơn thế nữa từ khi bố tôi cải đạo.

Đôi môi mẹ tái xanh do nhiệt độ lạnh cóng trong xe. “Còn về ‘Bãi biển của người chết’ ” - mẹ vừa nói vừa run - “tôi vẫn chưa tới đó, dù tôi có thể thấy rằng bơi lội trong làn nước trong vắt thì hấp dẫn hơn bị thiêu đốt trong lò nung địa ngục, vì nó mà tất cả cây trên thế giới sẽ bị đốn và mọi ngọn núi sẽ bị phá trọc để lấy than.” Chất giọng Yorkshire của mẹ đột nhiên trở nên hung dữ, như mọi khi bà tham gia một cuộc tranh luận.

Người lái xe đang chú ý vào con ruồi đậu trên vô lăng của anh ta. “Có lẽ hai người sẽ cần đặt taxi của tôi cho lượt về?”

“Điều đó phụ thuộc vào nhiệt độ trong xe của anh.” Đôi môi mỏng tái xanh của mẹ căng ra giống như đang mỉm cười khi chiếc taxi bắt đầu ấm lên.

Chúng tôi không còn bị kẹt trong mùa đông nước Nga mà là mùa đông Thụy Điển.

Tôi mở cửa sổ. Thung lũng được bao phủ nhựa trắng, đúng như cậu sinh viên trong lều cứu thương đã mô tả. Các trang trại sa mạc xâm lấn mặt đất giống như một lớp da ốm yếu, xỉn đục. Cơn gió nóng thổi tóc bay vào mắt tôi trong khi Rose ngả đầu lên vai tôi, vẫn còn nhức nhối do vết sứa chích. Tôi không dám chuyển sang một tư thế bớt đau hơn bởi tôi biết mẹ sợ và tôi phải giả bộ là mình không sợ. Mẹ không có Chúa để xin lòng thương hoặc may mắn. Thay vào đó, có thể nói mẹ dựa vào lòng tốt của con người và thuốc giảm đau.

Khi tài xế lái chiếc xe vào trong khoảng sân bao quanh là hàng cọ của phòng khám Gómez, chúng tôi nhìn khu vườn được miêu tả trong tờ rơi là “một ốc đảo mini với tầm quan trọng lớn lao về mặt sinh thái”. Hai con bồ câu hoang đang rúc vào nhau phía dưới cây mimosa.

Phòng khám được đục vào trong lòng núi trơ trọi. Xây dạng vòm bằng đá cẩm thạch màu kem, tòa nhà mô phỏng một chiếc cốc lớn úp ngược. Tôi đã tìm hiểu về nơi đây trên Google nhiều lần, nhưng các trang tin không truyền tải hết cảm giác bình yên và an ủi khi đứng cạnh tòa nhà trong thực tế. Lối vào, trái lại, được làm hoàn toàn bằng kính. Các bụi cây gai đầy hoa tím và những cây xương rồng bạc thấp đan vào nhau được trồng ôm theo đường cong của tòa nhà, ngoại trừ phần lối vào rải sỏi thông thoáng cho chiếc taxi đỗ cạnh một chiếc xe buýt nhỏ đứng yên.

Mất khoảng mười bốn phút để cùng Rose đi từ xe tới chỗ cửa kính. Nó dường như đoán trước sự xuất hiện của hai mẹ con tôi, nên lặng lẽ mở ra, như thể làm toại nguyện mong ước vào bên trong của chúng tôi mà không cần bất cứ ai trong cả hai phải thỉnh cầu.

Tôi nhìn chăm chú ra biển Địa Trung Hải xanh thẳm bên dưới ngọn núi và cảm thấy bình an.

Khi nhân viên lễ tân gọi Señora Papastergiadis, tôi nắm lấy tay Rose và chúng tôi cùng nhau khập khiễng đi qua sàn cẩm thạch về phía chiếc bàn. Phải, chúng tôi cùng nhau khập khiễng. Tôi hai mươi lăm tuổi và đang khập khiễng bên mẹ mình để cùng nhịp bước với bà. Chân tôi là chân mẹ. Đó là cách chúng tôi tìm ra nhịp bước vui vẻ để tiến lên phía trước. Đó là cách người lớn bước đi cùng đứa con vừa qua giai đoạn tập bò và là cách đứa con đã thành người lớn đi cùng bố mẹ khi bố mẹ cần một cánh tay để dựa vào. Đầu buổi sáng hôm đó, mẹ tôi đã tự mình đi ra một cửa hàng Spar trong vùng để mua vài chiếc cặp tóc. Mẹ thậm chí không cầm theo gậy để chống. Tôi không còn muốn nghĩ về chuyện đó.

Nhân viên lễ tân chỉ tôi về phía cô y tá đang chờ cùng một chiếc xe lăn. Thật nhẹ nhõm khi được chuyển Rose cho một người khác, được đi phía sau nữ y tá đẩy chiếc xe và ngắm nhìn cách cô lắc hông trong lúc đi với nhịp bước riêng, mái tóc dài bóng mượt của cô buộc ruy băng satin màu trắng. Đó là một kiểu đi khác hẳn, hoàn toàn không chịu ảnh hưởng bởi cơn đau, tình thân hay sự nhượng bộ nào. Gót đôi giày da lộn màu xám kêu như vỏ trứng vỡ khi cô bước trên hành lang cẩm thạch. Dừng lại bên ngoài cánh cửa với dòng Mr Gómez viết bằng chữ vàng trên tấm biển gỗ sơn bóng, cô gõ cửa và chờ đợi.

Móng tay của cô sơn màu đỏ thẫm bóng bẩy.

Từ nhà, chúng tôi đã trải qua một chặng đường dài. Để cuối cùng cũng được đứng ở đây, trên hành lang uốn lượn với những đường vân màu hổ phách tỏa ra trên các bức tường, cảm giác như một cuộc hành hương, một cơ hội cuối cùng. Suốt nhiều năm, các chuyên gia y tế ở Anh, số lượng tăng dần theo thời gian, đã dò dẫm trong bóng đêm tìm cách chẩn đoán, để rồi hoang mang, lạc lối, nhận thua, từ bỏ. Đây chắc chắn là hành trình cuối cùng và tôi nghĩ mẹ cũng biết điều đó. Một giọng đàn ông thốt lên câu gì đó bằng tiếng Tây Ban Nha. Y tá đẩy mở cánh cửa nặng nề rồi ra hiệu cho tôi đưa xe của Rose vào trong phòng, như thể nói, Bà ấy là của cô.

Bác sĩ Gómez. Tôi đã tìm hiểu về chuyên gia chỉnh hình này nhiều tháng liền. Trông ông chỉ hơn sáu mươi tuổi một chút, mái tóc nhiều sợi bạc với một vệt tóc trắng tinh phía đầu bên trái. Ông mặc bộ com lê kẻ sọc nhỏ, đôi tay rám nắng, đôi mắt màu xanh lanh lợi.

“Cảm ơn, y tá Ánh Dương,” ông nói với cô y tá, như thể việc một bác sĩ xuất chúng chuyên về cơ xương đặt tên cho các nhân viên của mình theo thời tiết như thế là bình thường vậy. Cô ấy vẫn giữ cửa mở, như thể suy nghĩ của cô đã lang thang rong chơi ở dãy núi Sierra Nevada.

Ông cao giọng nhắc lại bằng tiếng Tây Ban Nha, “Gracias, Enfermera Luz del Sol.”

Lần này, cô ấy đóng cửa lại. Tôi có thể nghe tiếng gót giày của cô gõ lách cách trên sàn nhà, đầu tiên với nhịp điệu đều đều rồi đột ngột nhanh hơn. Cô đã bắt đầu chạy. Tiếng vọng của gót giày cô vẫn còn trong đầu tôi sau khi cô đã rời phòng một lúc lâu.

Bác sĩ Gómez nói tiếng Anh với giọng Mỹ.

“Xin mời. Tôi có thể giúp gì cho bà?”

Rose trông bối rối. “Chà, đó chính là điều tôi muốn ông nói tôi biết chứ.”

Bác sĩ Gómez mỉm cười, hai chiếc răng cửa của ông được bọc vàng toàn bộ. Chúng gợi tôi nhớ tới bộ răng của chiếc sọ đàn ông mà chúng tôi đã nghiên cứu vào năm đầu tiên học về nhân học, nhiệm vụ là đoán chế độ ăn uống của ông ta. Hàm răng đầy lỗ sâu bởi vậy có khả năng ông ta đã nhai hạt ngũ cốc cứng. Xem xét chiếc sọ kỹ lưỡng hơn, tôi phát hiện ra một mẩu linen vuông nhỏ được nhét trong lỗ sâu lớn nhất. Mẩu linen được nhúng dầu tuyết tùng để làm dịu cơn đau và ngăn nhiễm trùng.

Tông giọng của bác sĩ Gómez vừa có vẻ thân mật vừa gợi cảm giác trang trọng. “Tôi đã xem qua hồ sơ về bà, Mrs Papastergiadis. Bà đã làm thủ thư trong vài năm?”

“Phải. Tôi nghỉ hưu sớm vì sức khỏe.”

“Bà muốn ngừng làm việc à?”

“Phải.”

“Vậy bà không nghỉ hưu vì lý do sức khỏe?”

“Vì nhiều lý do kết hợp với nhau.”

“Tôi hiểu.” Trông ông không hờ hững mà cũng chẳng hứng thú.

“Nhiệm vụ của tôi là chia mục, liệt kê và phân loại các cuốn sách,” mẹ nói.

Ông gật đầu và chuyển ánh mắt sang màn hình máy tính. Trong khi chúng tôi chờ ông chú ý đến mình, tôi nhìn quanh phòng tư vấn. Căn phòng trang bị khá sơ sài. Một bồn rửa. Một chiếc giường gắn bánh xe có thể nâng lên hạ xuống, một cây đèn bạc đặt cạnh đó.

Một chiếc tủ chất đầy sách bọc da kê phía sau bàn ông. Và rồi tôi thấy thứ gì đó đang nhìn mình. Cặp mắt đó sáng và đầy tò mò. Tiêu bản một con khỉ nhỏ màu xám ngồi xổm trong chiếc hộp kính trên ngăn kệ ở giữa. Đôi mắt nó dán vào những anh chị loài người với ánh nhìn đông cứng mãi mãi.

“Mrs Papastergiadis, tôi thấy tên của bà là Rose.”

“Phải.”

Ông phát âm Papastergiadis dễ dàng như thể ông đang nói Joan Smith.

“Từ giờ tôi có thể gọi bà là Rose chứ?”

“Được, ông có thể gọi vậy. Rốt cuộc thì đó là tên tôi mà. Con gái tôi gọi tôi là Rose và tôi không thấy có lý do nào ông không được gọi thế.”

Bác sĩ Gómez mỉm cười với tôi. “Cô gọi mẹ mình là Rose?”

Đó là lần thứ hai trong ba ngày tôi bị hỏi câu này.

“Phải,” tôi trả lời nhanh, như thể điều đó không quan trọng gì. “Chúng tôi có thể hỏi nên xưng hô với ông thế nào không, bác sĩ Gómez?”

“Chắc chắn rồi. Tôi là bác sĩ tư vấn, bởi vậy tôi là Mr Gómez. Nhưng như vậy thì trịnh trọng quá, nên hai vị gọi tôi là Gómez cũng không sao đâu.”

“À. Thế thì hay quá.” Mẹ tôi đưa tay lên để kiểm tra xem chiếc cặp trên búi tóc của bà có còn đúng vị trí không.

“Và bà mới chỉ sáu mươi tư tuổi à, Mrs Papastergiadis?”

Ông ấy đã quên là mình được phép gọi bệnh nhân mới bằng tên riêng rồi sao?

“Sáu mươi tư tuổi và rất mệt mỏi.”

“Vậy là bà ba mươi chín tuổi khi bà sinh con gái?”

Rose ho như thể hắng giọng rồi gật đầu và lại ho tiếp. Gómez cũng bắt đầu ho. Ông hắng giọng và lùa các ngón tay qua phần tóc trắng. Rose dịch chân phải rồi rên rỉ. Gómez dịch chân trái rồi rên rỉ.

Tôi không chắc ông ấy đang bắt chước theo mẹ tôi hay chế nhạo bà. Nếu họ đang trò chuyện bằng cách rên rỉ, ho hắng và thở dài, tôi tự hỏi liệu họ có hiểu ý nhau không.

“Thật vinh hạnh khi được đón tiếp bà tới phòng khám của tôi, Rose.”

Ông đưa tay ra. Mẹ tôi rướn tới trước như thể để bắt tay nhưng rồi đột nhiên quyết định không làm vậy nữa. Tay của ông chơi vơi giữa không trung. Hiển nhiên, cuộc đối thoại không thành lời của họ vẫn chưa gợi được sự tin tưởng nơi mẹ tôi.

“Sofia, đưa cho mẹ tờ giấy ăn,” mẹ nói.

Tôi đưa cho mẹ một tờ giấy ăn và thay mẹ bắt tay Gómez. Tay mẹ là tay tôi.

“Và cô là Ms Papastergiadis?” Ông nhấn mạnh chữ “Ms” nên nghe như là Mzzzzzz.

“Sofia là con gái độc nhất của tôi.”

“Bà có con trai không?”

“Như tôi đã nói, cháu là độc nhất.”

“Rose.” Ông ấy mỉm cười. “Tôi nghĩ bà sắp hắt xì đấy. Có phải trong không khí hôm nay có phấn hoa không? Hay là thứ gì đấy?”

“Phấn hoa?” Rose trông có vẻ bực mình. “Chúng ta đang ở trong vùng sa mạc. Ở sa mạc thì không có hoa, theo như tôi biết.”

Gómez cũng bắt chước ra vẻ bực mình. “Lát nữa, tôi sẽ dẫn bà đi thăm một vòng quanh khu vườn của chúng tôi để bà có thể nhìn thấy những bông hoa, mà bà không biết. Hoa salem màu tím, những bụi táo tàu với các cành gai bắt mắt, bách xù Phoenicia và nhiều loại cây bụi được nhập từ vùng Tabernas gần đây để cho bà thưởng lãm.”

Ông ấy đi tới chỗ xe lăn của mẹ tôi, quỳ xuống chân bà và nhìn vào mắt bà. Mẹ bắt đầu hắt xì hơi. “Đưa cho mẹ thêm tờ giấy ăn nữa, Sofia.”

Tôi làm theo. Giờ đây, mẹ có hai tờ giấy, mỗi tờ ở một tay.

“Tôi luôn bị đau cánh tay trái sau khi hắt xì hơi,” mẹ nói. “Nó nhói lên, đau dữ dội. Tôi phải giữ tay mình cho tới khi cơn hắt xì hơi chấm dứt.”

“Bà đau ở đâu?”

“Mặt trong khuỷu tay của tôi.”

“Cảm ơn bà. Chúng tôi sẽ tiến hành kiểm tra thần kinh tổng thể, gồm cả kiểm tra thần kinh sọ.”

“Và tôi bị đau khớp mạn tính ở bàn tay trái.”

Đáp lại, ông ngọ nguậy các ngón tay trái về hướng con khỉ, như thể khuyến khích nó làm điều tương tự.

Sau một lúc, ông quay về phía tôi. “Tôi có thể thấy nét tương đồng. Nhưng cô, Mizz Papastergiadis, thì ngăm đen hơn. Nước da của có màu ô liu. Tóc cô gần như đen. Tóc mẹ cô màu nâu sáng. Mũi cô dài hơn mũi mẹ. Đôi mắt cô màu nâu. Mắt mẹ cô màu xanh, giống mắt tôi.”

“Bố tôi là người Hy Lạp nhưng tôi sinh ra ở Anh.”

Tôi không chắc có nước da màu ô liu là lời khen hay xúc phạm nữa.

“Vậy thì cô giống tôi,” ông nói. “Bố tôi là người Tây Ban Nha, mẹ tôi là người Mỹ. Tôi lớn lên ở Boston.”

“Giống laptop của tôi. Được thiết kế ở Mỹ và lắp ráp ở Trung Quốc.”

“Phải, thân thế lúc nào cũng khó mà chắc chắn được, Mizz Papastergiadis.”

“Quê tôi ở gần Hull, Yorkshire,” Rose đột ngột thông báo, như thể bà cảm thấy bị bỏ rơi.

Khi Gómez với tay về phía bàn chân phải của mẹ tôi, bà đưa nó lên cho ông như thể một món quà. Ông bắt đầu dùng ngón cái và ngón trỏ bấm ngón chân bà, trước sự quan sát của tôi và con khỉ trong hộp kính. Ngón cái của ông di chuyển tới mắt cá chân của bà. “Xương này là xương sên. Trước đó, tôi nhấn vào đốt ngón chân. Bà có cảm thấy các ngón tay của tôi không?”

Rose lắc đầu. “Tôi không cảm thấy gì cả. Chân tôi tê liệt rồi.”

Gómez gật đầu, như thể ông đã biết đó là sự thật. “Tinh thần của bà thế nào?” ông hỏi, như thể đang thắc mắc về một cái xương tên là Tinh Thần.

“Không tệ lắm.”

Tôi cúi xuống nhặt giày của mẹ lên.

“Làm ơn,” Gómez nói. “Hãy để chúng ở chỗ cũ.”

Ông đang sờ lòng bàn chân phải của mẹ tôi. “Bà có một vết loét ở đây và ở đây. Bà có xét nghiệm tiểu đường chưa?”

“Ồ, rồi,” bà nói.

“Đó là một vùng nhỏ trên bề mặt da, nhưng nó bị nhiễm trùng nhẹ. Chúng ta phải xử lý ngay lập tức.”

Rose gật đầu nghiêm trọng, nhưng mẹ tôi trông có vẻ hài lòng. “Tiểu đường,” bà kêu lên. “Có lẽ đó chính là đáp án.”

Ông dường như không muốn tiếp tục cuộc nói chuyện bởi ông đứng dậy và đi về phía bồn rửa tay. Ông quay về phía tôi khi với lấy một tờ khăn giấy. “Có thể cô sẽ hứng thú với kiến trúc phòng khám của tôi?”

Tôi quả thật hứng thú. Tôi nói với ông rằng, theo như tôi biết, các mái vòm đầu tiên đã được xây từ xương và ngà của voi ma mút.

“Ph-ải. Và căn nhà bãi biển của cô có hình chữ nhật. Nhưng ít nhất nó nhìn ra biển...”

“Chỗ đó thật khó chịu,” Rose cắt ngang. “Tôi nghĩ nó giống một hình chữ nhật xây bằng tiếng ồn hơn. Nó có hàng hiên bê tông, đáng nhẽ phải riêng tư tách biệt, nhưng không hề, bởi căn nhà nằm ngay trên bãi biển. Con gái tôi thích ngồi ở đó cắm mặt vào máy tính của nó suốt cả ngày, để tránh xa khỏi tôi.”

Rose tuôn một tràng những điều bức xúc. “Buổi tối, có những chương trình ảo thuật dành cho trẻ con trên bãi biển. Quá nhiều tiếng ồn. Tiếng bát đĩa loảng xoảng từ các nhà hàng, tiếng du khách gào thét, tiếng xe máy, tiếng lũ trẻ la hét, pháo hoa. Tôi không bao giờ được ra biển trừ phi có Sofia đẩy xe lăn đưa tôi ra và dù sao thì ở đó lúc nào cũng quá nóng.”

“Trong trường họp này, tôi sẽ đem biển tới cho bà, Mrs Papastergiadis.”

Rose bặm má và giữ như vậy một lúc. Sau đó, bà thả ra. “Tôi thấy tất cả thức ăn ở miền Nam Tây Ban Nha này đều rất khó tiêu hóa.”

“Thật tiếc khi nghe điều đó:” Ánh mắt xanh của ông nhìn xuống bụng mẹ tôi như con bướm đậu trên một bông hoa.

Mẹ tôi đã sụt cân trong vài năm qua. Người bà teo lại và bà dường như lùn hơn, vì những chiếc váy của bà, từng dài tới đầu gối, giờ buông ngay trên mắt cá chân. Tôi phải nhắc bản thân rằng bà là một phụ nữ quyến rũ ở giai đoạn đầu tuổi già. Mái tóc bà, luôn được búi gọn nhờ một chiếc cặp tóc, là thứ duy nhất bà chịu chi tiền cho. Ba tháng một lần, khi những sợi tóc bạc xuất hiện, một nữ chuyên viên nhuộm tóc thời trang với quả đầu cạo trọc sẽ bọc tóc bà bằng giấy bạc và nhuộm sáng màu. Mẹ gợi ý tôi làm điều tương tự với những lọn tóc xoăn đen lộn xộn của mình, chúng trở nên quăn tít bất cứ khi nào trời mưa, tức là thường xuyên.

Tôi xem việc cạo trọc đầu của cô thợ làm tóc là một nghi lễ mà mình không thể tham gia. Lúc đó, tôi đã tự hỏi liệu cô ấy có nghĩ mái tóc giống như gánh nặng của quá khứ và rũ bỏ nó là bước tiến tới tương lai, theo quan điểm của đạo Hindu hay không. Nhưng cô ấy nói với tôi (một tờ giấy bạc vuông ngậm trong miệng cô) rằng cô cạo tóc cho đỡ tốn công chăm sóc. Mái tóc là thứ nhẹ nhất trong các gánh nặng đè lên tôi.

“Sofia Irina, ngồi xuống đây.” Gómez vỗ nhẹ lên chiếc ghế đối diện máy tính của ông. Ông thản nhiên gọi đầy đủ tên viết trong hộ chiếu của tôi. Khi tôi ngồi xuống theo yêu cầu, ông xoay màn hình máy tính để cho tôi thấy một hình ảnh đen trắng trên màn hình, với tên của mẹ tôi viết trên đó: R. B. PAPASTERGIADIS (Nữ).

Giờ ông đang đứng phía sau tôi. Tôi ngửi thấy mùi thảo mộc đắng trong loại xà phòng mà ông dùng để rửa tay, có lẽ là cây ngải đắng. “Cô đang nhìn vào ảnh X-quang độ nét cao chụp xương sống của mẹ cô. Đây là góc nhìn phía sau.”

“Vâng,” tôi nói. “Tôi đã đề nghị các bác sĩ ở Anh gửi chúng cho ông. Giờ chúng đã cũ.”

“Tất nhiên. Chúng tôi sẽ chụp lại và so sánh. Chúng tôi sẽ tìm những điểm bất thường, thứ gì đó lệch chuẩn.” Ngón tay của ông ấy di chuyển từ màn hình xuống ấn một nút trên chiếc radio nhỏ màu xám đặt trên bàn. “Xin phép cô,” ông nói. “Tôi muốn nghe xem đang có chuyện gì với chương trình thắt lưng buộc bụng.”

Chúng tôi nghe một bản tin phát thanh tiếng Tây Ban Nha, thỉnh thoảng Gómez chen ngang, ông nói cho chúng tôi tên nhà phân tích tài chính người Tây Ban Nha làm cho đài phát thanh. Khi Rose cau mày, như muốn hỏi là đang có chuyện gì vậy - có thực ông ta là bác sĩ không - thì Gómez lại khiến chúng tôi lóa mắt với những chiếc răng vàng.

“Đúng, tôi thực sự là một bác sĩ, Mrs Papastergiadis. Tôi muốn dành buổi chiều hôm nay cùng bà xem lại những loại thuốc của bà. Tất nhiên, tôi có thông tin, nhưng tôi vẫn muốn bà nói cho tôi loại thuốc nào bà dùng nhiều nhất và loại nào bà có thể không cần đến. Tiện thể, bà sẽ vui khi biết dự báo thời tiết bảo là trời sẽ nắng và khô ở phần lớn các nơi trên khắp Tây Ban Nha đấy.”

Rose cựa người trên chiếc xe lăn. “Xin cho tôi một cốc nước.”

“Được chứ.” Ông đi về phía bồn rửa tay, rót đầy nước vào một cốc nhựa và đưa cho mẹ tôi.

“Uống nước lấy từ vòi có an toàn không?”

“Ồ, có chứ.”

Tôi thấy mẹ nhấp cốc nước còn đang sủi bọt. Đó có phải đúng loại nước bà muốn không? Gómez đề nghị bà đưa lưỡi ra.

“Lưỡi của tôi? Tại sao?”

“Lưỡi cho thấy các dấu hiệu rõ ràng về sức khỏe tổng quát của chúng ta.”

Rose làm theo.

Gómez, đang xoay lưng về phía tôi, dường như cảm nhận được rằng tôi đang nhìn vào con khỉ tiêu bản trên giá của ông.

“Đó là một con khỉ vervet từ Tanzania. Nó chết vì bị giật điện cao thế, một trong những bệnh nhân của tôi đưa nó tới chỗ người nhồi xác thú. Sau khi suy nghĩ, tôi đã nhận món quà của ông ấy bởi loài khỉ này có nhiều đặc điểm giống con người, gồm cả chứng tăng huyết áp và lo âu.” Ông vẫn nhìn chằm chằm vào lưỡi của mẹ tôi. “Chúng ta không thể thấy dương vật màu đỏ và bìu dái màu xanh của nó. Tôi nghĩ người nhồi xác thú đã cắt đi rồi. Và chúng ta phải tưởng tượng là cậu bé này đã chơi đùa trên cây với các anh chị em của mình như thế nào.” Ông vỗ nhẹ đầu gối của mẹ tôi và lưỡi bà tụt vào trong miệng. “Cảm ơn, Rose. Bà xin nước là đúng đấy. Lưỡi của bà cho thấy bà bị mất nước.”

“Phải, tôi luôn khát. Sofia thì lại lười không đặt một cốc nước bên cạnh giường tôi vào buổi tối.”

“Bà ở vùng nào của Yorkshire, Mrs Papastergiadis?”

“Warter. Đó là một ngôi làng cách Pocklington tám cây số về phía Đông.”

“Warter,” ông nhắc lại. Ông lại khoe ra những chiếc răng vàng. “Sofia Irina, tôi nghĩ cô muốn giải thoát con linh trưởng bé nhỏ đã bị thiến của chúng ta để nó có thể chạy quanh phòng và đọc các bản in đầu tiên sách của Cervantes mà tôi đang có. Nhưng trước hết, cô phải giải thoát chính mình.” Đôi mắt của ông xanh tới nỗi nó có thể cắt xuyên một tảng đá giống như tia laser. “Tôi cần nói chuyện với Mrs Papastergiadis và lên kế hoạch điều trị. Chúng tôi phải thảo luận riêng chuyện này.”

“Không. Con bé phải ở lại.” Rose gõ các đốt ngón tay xuống một bên tay vịn chiếc xe lăn. “Tôi sẽ không ngừng thuốc khi ở nước ngoài. Sofia là người duy nhất biết hết về thuốc của tôi.”

Gómez chỉ ngón tay vào tôi. “Sao cô lại phải chờ ở chỗ lễ tân suốt hai tiếng chứ? Không, điều cô phải làm là lên chiếc xe buýt nhỏ sẽ khởi hành từ cổng phòng khám của tôi. Xe sẽ thả cô gần bãi biển ở Carboneras. Chỉ mất hai mươi phút đi xe từ bệnh viện tới thị trấn.”

Rose trông có vẻ bị xúc phạm nhưng Gómez lờ đi. “Sofia Irina, tôi đề nghị cô nên đi ngay bây giờ. Đang là trưa, vậy chúng tôi sẽ gặp cô vào lúc hai giờ.”

“Tôi ước được vui vẻ bơi lội,” mẹ tôi nói.

“Ước ao được nhiều niềm vui hơn luôn là việc tốt, Mrs Papastergiadis.”

“Giá như.”

“Giá như gì cơ?” Gómez quỳ xuống sàn và đặt ống nghe của ông lên ngực mẹ tôi.

“Giá như tôi có thể bơi và nằm dưới ánh mặt trời.”

“À, nếu được thế thì tuyệt biết bao.”

Một lần nữa, tôi không chắc phải coi ông là người như thế nào. Tông giọng của ông mập mờ. Mập mờ châm biếm, mập mờ tử tế. Điều đó có hơi thiếu đứng đắn. Tôi cầm tay Rose bóp nhẹ. Tôi muốn nói tạm biệt với mẹ nhưng Gómez đang nghe nhịp tim bà với vẻ tập trung cao độ. Thế nên tôi chỉ hôn lên đỉnh đầu bà.

Mẹ tôi nói, “Au!” Bà nhắm mắt lại và ngả đầu ra sau như thể đang chịu đau đớn - hoặc có thể đó là cảm giác ngây ngất. Khó mà biết được.

Mặt trời chiếu gay gắt lúc tôi tới bãi biển bỏ hoang đối diện nhà máy xi măng. Tôi đi tới một quán cà phê nhỏ gần một dãy bình gas và gọi nhân viên phục vụ thân thiện pha cho một cốc gin tonic. Anh ta chỉ về phía biển và cảnh báo tôi đừng bơi bởi ba người đã bị thương nặng vì medusa chích sáng hôm đó. Anh ta đã thấy vết sưng trên tay chân của họ chuyển sang màu trắng rồi tím. Anh ta nhăn mặt rồi nhắm mắt, vẫy tay như thể xua đi đại dương và tất cả những con medusa sống dưới đó. Dãy bình gas trông giống như những cây sa mạc kỳ quặc đang vươn lên khỏi cát.

Một chiếc tàu hàng công nghiệp lớn bồng bềnh gần phía chân trời. Tàu treo một lá cờ Hy Lạp. Nhưng tôi nhìn ra chỗ khác, dán mắt vào một chiếc xích đu hoen gỉ được gắn cố định xuống bãi cát thô ráp. Ghế ngồi làm bằng lốp xe mòn vẹt và nó đang đung đưa nhẹ, như thể một hồn ma nhí vừa từ đó nhảy xuống. Những cần trục từ nhà máy khử muối vươn lên trời cao. Xi măng xám xanh đôn thành những đụn cao nằm trong một cái kho ở phía bên phải bãi biển, nơi những căn nhà, khách sạn chưa hoàn thiện được xây đâm vào trong núi như án mạng.

Tôi liếc nhìn điện thoại. Có một tin nhắn cũ từ Dan, đồng nghiệp của tôi ở Coffee House. Anh muốn biết tôi cất chiếc bút dạ dùng để ghi nhãn bánh ngọt và sandwich ở đâu. Dan dân Denver nhắn tin cho tôi ở Tây Ban Nha để hỏi về một chiếc bút? Tôi uống một ngụm trong cốc gin tonic cỡ lớn và gật đầu cảm ơn người phục vụ, trong lòng tự hỏi có thật mình đã cất chiếc bút ở một nơi nào đó khó tìm thế không.

Tôi cởi khóa váy để nắng có thể chiếu lên vại. Vết thương do medusa chích đã dịu bớt nhưng thỉnh thoảng tôi lại nhói đau. Đó không phải là kiểu đau đớn tệ hại nhất đời. Về mặt nào đó, nó còn là một sự khuây khỏa.

Có một tin nhắn mới hơn của Dan. Anh đã tìm thấy cây bút. Hóa ra, trong thời gian tôi ở Tây Ban Nha, anh đã ngủ trong căn phòng của tôi phía trên quán Coffee House bởi tuần trước chủ nhà của anh vừa tăng giá thuê. Chiếc bút nằm trên giường của tôi. Nắp để mở. Hậu quả là ga và chăn dính đầy vết mực đen. Thật ra, anh miêu tả là mực vãi tung tóe.

Anh không còn có thể viết những câu như thế này nữa:

Bánh phô mai Amaretto ngọt đắng của Sofia: Ăn tại chỗ 3,9 bảng, mang đi 3,2 bảng.

Bánh polenta cam mềm mượt của Dan (bột lúa mì và không gluten): Ăn tại chỗ 3,7 bảng, mang đi 3 bảng.

Tôi vừa đắng vừa ngọt.

Anh mềm mượt.

Dan chắc chắn là không mềm mượt.

Chúng tôi không tự tay nướng những chiếc bánh này nhưng ông chủ nói rằng khách hàng có khả năng sẽ mua hơn nếu họ nghĩ bánh do chúng tôi làm. Chúng tôi đặt tên mình cho những thứ mình không làm. Tôi vui vì chiếc bút dối trá kia đã chảy hết mực.

Giờ tôi nhớ ra rằng tôi chắc hẳn đã để chiếc bút ở trên giường khi viết lại câu nói của nhà nhân học văn hóa Margaret Mead. Tôi viết thẳng câu đó lên tường.

Tôi thường nói ở các lớp học của tôi rằng những cách để thấu hiểu sự vật là: nghiên cứu trẻ nhỏ; nghiên cứu động vật; nghiên cứu người nguyên thủy; được chữa trị bằng phân tâm học; cải đạo và vượt qua điều đó; có một cơn rối loạn tâm thần và vượt qua nó.

Có năm dấu chấm phẩy trong trích dẫn này. Tôi nhớ đã viết ; ; ; ; ; bằng chiếc bút lông. Tôi đã gạch chân “cải đạo” hai lần.

Bố tôi đã trải qua quá trình cải đạo nhưng theo tôi biết, ông vẫn chưa vượt qua được điều đó. Trên thực tế, ông đã cưới một người phụ nữ hơn tôi bốn tuổi và họ có với nhau một đứa con. Cô hai mươi chín. Ông sáu mươi chín. Một vài năm trước khi gặp người vợ mới, bố thừa kế một khối tài sản khổng lồ từ việc kinh doanh vận tải tàu biển của ông nội ông ở Athens. Bố chắc hẳn nhận thấy đó là dấu hiệu báo rằng ông đang đi đúng đường. Chúa đã đem tiền cho ông ngay khi đất nước của ông sắp vỡ nợ. Và tình yêu. Và một bé gái. Từ hồi mười bốn tuổi đến giờ tôi chưa hề gặp lại bố. Ông thấy không có lý do gì phải chia dù chỉ một đồng euro trong gia sản mới có được của mình, bởi vậy, tôi là gánh nặng của mẹ tôi. Bà là chủ nợ của tôi và tôi trả nợ cho bà bằng đôi chân của mình. Chúng luôn chạy tới chạy lui vì bà.

Để thanh toán khoản tiền trả cho phòng khám Gómez, chúng tôi phải cùng đi tới bên cho vay thế chấp của Rose để phỏng vấn.

Tôi xin nghỉ một buổi sáng, nghĩa là tôi mất mười tám bảng và ba mươi xu của ba giờ đồng hồ. Trời đang mưa và tấm thảm sàn đỏ kiểu doanh nghiệp ướt mèm. Khắp nơi là những poster rêu rao rằng sự thịnh vượng của chúng tôi có ý nghĩa biết bao với ngân hàng, như thể quyền con người là mối quan tâm hàng đầu của họ. Người đàn ông ngồi phía sau chiếc máy tính được đào tạo để tỏ ra tươi vui và thân thiện; để thể hiện sự thấu cảm theo cách anh ta hiểu; để ra vẻ dễ gần và nhiệt tình theo cách anh ta hiểu; để yêu chiếc cà vạt đỏ xấu xí in logo của ngân hàng. Tấm thẻ ghi tên và công việc của anh ta nhưng nó không nói cho chúng tôi về mức lương - có lẽ đâu đó cận mức bần cùng. Anh ta cố tỏ ra gần gũi; cố tiếp cận tình huống của chúng tôi theo cách công bằng; cố nói bằng một thứ tiếng đơn giản dễ hiểu đối với chúng tôi. Một tấm poster trên tường có hình ba nhân viên tẻ nhạt đang nhìn chằm chằm chúng tôi, tất cả đều đang cười. Người phụ nữ diện bộ đồ công sở gồm jacket và váy, hai người đàn ông mặc đồ công sở với jacket và quần, thông điệp của họ là cho chúng tôi thấy những điểm tương đồng và xóa đi mọi khác biệt; chúng tôi là những người mộng mơ nhạy cảm với hàm răng xấu xí giống như bạn; tất cả chúng ta đều muốn có một nơi riêng để mà cãi nhau với gia đình vào lễ Giáng sinh.

Tôi có thể thấy những tấm poster này là một kiểu nghi lễ thành đinh (bước chân vào bất động sản, đầu tư, nợ nần) và rằng các bộ đồng phục báo hiệu sự hy sinh của đa dạng khác biệt giới tính. Một tấm poster khác có ảnh một ngôi nhà song lập với khu vườn trước nhỏ như một phần mộ. Trong vườn không có hoa, chỉ là một bãi cỏ mới trải. Trông thật hoang vu. Các ô cỏ chưa mọc lẫn vào nhau. Có lẽ có một nhân cách nào đó mắc chứng hoang tưởng đang ẩn núp bên mé trái của câu chuyện mà người ta dựng nên cho chúng tôi. Hắn ta đã cắt hết hoa và giết chết các con thú cưng.

Người đàn ông của chúng tôi nói với giọng sôi nổi nhưng máy móc. Khởi đầu, anh ta nói “Chào quý vị”, ít nhất cũng không phải là “Chào các quý cô”; rồi anh ta nhanh chóng giới thiệu về các gói vay hiện có để tước món tài sản thừa kế khỏi tay tôi. Có một lúc anh ta hỏi mẹ tôi có ăn bít tết không. Đó là một câu hỏi bất ngờ nhưng chúng tôi có thể nhận thấy anh ta đang hướng tới đâu (thói sống xa hoa), bởi vậy Rose đáp là bà ăn chay bởi bà muốn khuyến khích một thế giới nhân đạo và nhiều tình thương hơn. Nếu cảm thấy muốn xa hoa, bà nói mình sẽ cho thêm một thìa sữa chua vào món cơm xốt đậu. Anh ta không biết người ăn chay không dùng các sản phẩm từ sữa, nếu biết thì bà đã bị đẩy cái một khỏi chiếc ghế đỏ kiểu doanh nghiệp rồi. Anh ta hỏi bà có thích quần áo thiết kế không. Bà nói mình thích quần áo xấu xí, rẻ tiền. Bà có đi tập gym không? Một câu hỏi kỳ quặc vì mẹ tôi đang phải ôm gậy còn cổ chân sưng tấy của bà quấn băng, bất chấp việc sáng nào bà cũng nốc thuốc giảm đau kháng viêm với một cốc nước không vừa miệng bà.

Anh ta yêu cầu mẹ tôi cung cấp giá người môi giới bất động sản ước tính cho nhà chúng tôi và thông báo giám định viên của ngân hàng sẽ tới nhà chúng tôi. Cho tới giờ thì máy tính thích những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp, bởi mẹ tôi đã trả xong các khoản thế chấp. Ở London, gạch và vữa có một giá trị nhất định, thậm chí nếu có là gạch thời Victoria được gắn với nhau bởi nước bọt, nước tiểu hay băng keo đi nữa. Anh ta nói rằng có thể thông qua khoản vay cho chúng tôi. Mẹ tôi phấn khích trước cảnh có một cuộc phiêu lưu kèm theo trải nghiệm y tế: phòng khám Gómez giống như một chuyến đi xem cá voi đối với bà. Tôi quay lại với công việc pha ba loại espresso khác nhau còn Rose về nhà lên một danh sách mới những chỗ đau nhức của bà. Tôi không thể phủ nhận các triệu chứng của mẹ khơi gợi những hứng thú đối với văn hóa nơi tôi, dù chúng cũng làm tôi mệt mỏi lây. Những triệu chứng của bà đã thay bà nói hết. Chúng huyên thiên suốt cả ngày. Ngay cả tôi cũng biết điều đó.

Tôi đi qua bãi cát nóng bỏng để làm mát đôi bàn chân mình dưới làn nước biển.

Đôi khi tôi thấy mình đi khập khiễng. Cứ như thể cơ thể tôi nhớ cách tôi bước đi cùng với mẹ. Không phải lúc nào ký ức cũng đáng tin cậy. Nó không phải là toàn bộ sự thật. Ngay cả tôi cũng biết điều đó.

Khi tôi trở lại bệnh viện lúc hai giờ mười lăm, Rose đã chuyển từ xe lăn sang ngồi trên ghế và bà đang đọc tử vi cung hoàng đạo trên một tờ báo dành cho người Anh sống ở nước ngoài.

“Chào Sofia. Mẹ thấy là con đã có khoảng thời gian vui vẻ trên bãi biển đấy.”

Tôi nói với mẹ bãi biển rất vắng và tôi đã nhìn chằm chằm vào một đống bình ga suốt hai tiếng. Đó là kỹ năng đặc biệt tôi có để khiến ngày của mình nhỏ lại và ngày của bà trở nên to lớn hơn.

“Nhìn hai cánh tay của mẹ này,” bà nói. “Mẹ bị thâm tím khắp nơi sau khi lấy máu.”

“Tội nghiệp mẹ.”

“Mẹ thật tội nghiệp. Bác sĩ đã cho ngưng ba loại thuốc của mẹ. Ba!”

Mẹ xịu miệng xuống giả bộ như đang mếu rồi vẫy tờ báo về phía Gómez đang đi thong thả như tản bộ trên sàn cẩm thạch trắng về phía chúng tôi.

Ông nói với tôi rằng mẹ tôi thiếu sắt mạn tính, đó có thể là lý do khiến bà yếu ớt. Ngoài các thứ khác, như băng gạc để vết loét ở chân mau lành, ông còn kê thêm vitamin B12.

Kê đơn thuốc với vitamin. Cái đó có đáng hai mươi lăm nghìn euro không?

Rose bắt đầu liệt kê tên các loại thuốc mình bị bắt phải ngừng. Bà nói về chúng như thể bà đang than khóc cho những người bạn khuất bóng. Gómez giơ tay lên để vẫy y tá Ánh Dương, người đang tiến về phía ông trong đôi giày da lộn màu xám. Khi cô đến đứng bên cạnh, ông thản nhiên vòng tay qua vai cô trong khi cô nghịch chiếc đồng hồ ghim ngay phía trên ngực phải mình. Một chiếc xe cứu thương vừa dừng lại trong bãi đỗ. Cô nói với ông bằng tiếng Anh rằng tài xế cần nghỉ trưa. Ông gật đầu và gỡ tay ra khỏi vai cô nên cô có thể nắm chiếc đồng hồ dễ dàng hơn.

“Y tá Ánh Dương là con gái tôi,” ông nói. “Tên thật của con bé là Julieta Gómez. Cứ tự nhiên gọi cháu nó theo bất cứ cách nào hai vị muốn. Hôm nay là sinh nhật cháu.”

Lần đầu tiên, Julieta Gómez nở nụ cười. Hàm răng của cô rất trắng. “Tôi đã ba mươi ba tuổi rồi. Tuổi thơ của tôi đã chính thức kết thúc. Xin hãy gọi tôi là Julieta.”

Gómez nhìn con gái với đôi mắt có đủ sắc độ xanh của ông. “Hai vị sẽ biết tỷ lệ thất nghiệp ở Tây Ban Nha khá cao,” ông nói, “khoảng 29,6% vào thời điểm này. Bởi vậy, tôi may mắn khi con gái đã được đào tạo y khoa chu đáo ở Barcelona và là nhà vật lý trị liệu được kính trọng nhất Tây Ban Nha. Thế nghĩa là tôi có thể lạm quyền một chứt và tận dụng chức vụ mình để cho con một công việc trong lâu đài cẩm thạch của tôi.”

Ông khoát cánh tay kẻ sọc với một cử chỉ lịch lãm, bao quát, như thể muốn ôm vào lòng những bức tường cong và những cây xương rồng nở hoa, chiếc xe cứu thương mới sáng bóng, các nhân viên lễ tân, y tá và một vài bác sĩ nam khác mặc đồng phục áo phông xanh và đi giày thể thao mới tinh, trái với Gómez.

“Đá hoa cương này được lấy từ dưới lòng đất ở Cobdar. Màu của nó tương tự nước da trắng của người vợ đã mất của tôi. Phải, tôi xây dựng phòng khám của mình để tưởng nhớ mẹ của con gái tôi. Vào những tháng mùa xuân, chúng tôi sung sướng đón đàn bướm bị thu hút tới mái vòm này. Chúng luôn làm tinh thần bệnh nhân phấn chấn. Tiện thể, Rose này, có thể bà sẽ thích tới thăm tượng Virgen del Rosario (Đức Mẹ Mân Côi). Tượng được tạc từ đá cẩm thạch thuần khiết nhất lấy ở núi khu Macael.”

“Tôi là một người vô thần, Mr Gómez,” Rose lạnh lùng nói. “Và tôi không tin rằng phụ nữ còn trinh có thể sinh con.”

“Nhưng Rose này, bà ấy được tạo nên từ đá cẩm thạch thanh nhã có màu của dòng sữa mẹ. Nó màu trắng nhưng pha một chút sắc vàng. Nên có lẽ nhà điêu khắc chỉ muốn thể hiện lòng kính trọng của mình cho việc nuôi dưỡng. Tôi tự hỏi, người con duy nhất của mẹ đồng trinh có gọi mẹ mình bằng tên không?”

“Điều đó không quan trọng,” Rose nói. “Dù thế nào, tất cả đều là nói dối. Nhân tiện, Jesus gọi mẹ mình là ‘nữ nhân’. Tiếng Hebrew dịch là ‘bà’.”

Nhân viên lễ tân đột ngột xuất hiện và bắt đầu nói tiếng Tây Ban Nha rất nhanh với Gómez. Cô ấy đang bế một con mèo béo lông trắng trên tay và đặt nó xuống sàn, bên cạnh đôi giày đen bóng loáng của Gómez. Khi nó bắt đầu đi quanh chân ông, ông quỳ xuống và chìa tay ra. “Jodo là tình yêu đích thực của tôi,” ông nói. Con mèo dụi mặt vào lòng bàn tay đang xòe ra của ông. “Nó rất hiền. Tôi chỉ tiếc là ở đây không có chuột, vì cả ngày dài nó không có việc gì khác ngoài yêu thương tôi.”

Rose bắt đầu hắt hơi. Sau tiếng hắt xì thứ tư, bà ụp tay lên che mắt. “Tôi bị dị ứng với mèo.”

Gómez cho ngón tay út vào miệng Jodo. “Lợi phải cứng và có màu hồng, về mặt này thì Jodo ổn đấy. Nhưng dạ dày của cô nàng phình ra bất thường. Tôi lo nó có thể bị bệnh thận.”

Ông cho tay vào túi quần, lấy ra một chai nước sát khuẩn và xịt vào tay, trong khi Julieta hỏi Rose có muốn thuốc nhỏ mắt cho con mắt bị ngứa không.

“Ồ, có, làm ơn.”

Mẹ tôi không hay nói “làm ơn”. Nghe như thể bà vừa được mời một hộp sô cô la.

Julieta Gómez lấy trong túi ra một chai nhựa trắng nhỏ. “Là thuốc kháng histamine. Tôi vừa giúp một người khác cũng bị thế này.” Cô đi tới chỗ Rose, nâng cằm bà lên và nhỏ hai giọt vào mỗi mắt.

Mẹ tôi bây giờ trông có vẻ không vui và đang cố nén khóc, như thể nước mắt đã dâng lên nhưng chưa rơi xuống gò má của bà.

Con mèo Jodo đã biến mất trong vòng tay của một trong những nhân viên y tế.

Y tá Ánh Dương, tên thật hóa ra là Julieta, không thân thiện cũng chẳng khó chịu. Cô thẳng thắn, trầm lặng, có năng lực. Cô không có vẻ hồ hởi như bố mình, mặc dù tôi quan sát thấy cô chăm chú lắng nghe Rose, dù không tỏ ra như vậy. Tôi bắt đầu nghĩ lại về cái cách cô đứng chờ ở cửa khi chúng tôi đã bước vào trong phòng tư vấn. Có lẽ cô không mải suy nghĩ ở đẩu đâu như tôi đã tưởng tượng. Cô rất để ý bởi cô đề nghị giúp tôi chỉnh lại váy. Tôi đã quên là mình đã nới nó ra ở bãi biển. Julieta từ tốn kéo khóa rồi chống tay lên chiếc eo bé xíu của mình và thông báo taxi của chúng tôi đã tới.

“Tạm biệt, Rose.” Gómez bắt tay mẹ tôi nồng nhiệt. “Tiện thể, bà nên lái chiếc xe thuê mà chúng tôi đã sắp xếp cho bà. Nó đã được bao gồm trong chi phí rồi.”

“Nhưng làm sao tôi có thể lái xe? Tôi không có cảm giác gì ở hai chân.” Rose một lần nữa trông có vẻ bị bực bội.

“Bà được tôi cho phép lái xe. Hãy lái nó đến vào lần khám tới. Có vài giấy tờ cần hoàn tất nhưng chiếc xe đã sẵn sàng cho bà trong bãi đỗ của chúng tôi.”

Julieta đặt tay lên vai mẹ tôi. “Nếu bà có bất cứ vấn đề gì với việc lái xe, Sofia có thể gọi chúng tôi tới và đưa bà đi. Cô ấy có tất cả các số liên lạc của chúng tôi.” Phòng khám Gómez rõ ràng là một doanh nghiệp gia đình.

Chúng tôi không chỉ được cung cấp xe ô tô, Gómez còn thông báo với mẹ tôi rằng ông sẵn lòng đưa mẹ tôi đi ăn trưa. Ông đề nghị Julieta xếp lịch hẹn trong hai ngày tới, đoạn ông cúi mái đầu bạc và quay gót để nói chuyện với một trong những bác sĩ trẻ đang chờ ông cạnh một cột đá cẩm thạch.

Khi tôi khập khiễng đưa Rose ra taxi, tôi hỏi mẹ loại bài tập mà Gómez bảo bà làm.

“Đó không phải là bài tập thể chất. Ông ấy đề nghị mẹ viết một lá thư ghi tên tất cả các kẻ thù của mẹ.” Bà bấm mở khóa túi xách và vật lộn với mảnh khăn giấy bị kẹt ở móc cài. “Con biết đấy, Sofia, khi y tá Ánh Dương - hay Julieta Gómez, hay là ai cũng được - nhỏ thuốc mắt cho mẹ, mẹ chắc chắn mình ngửi thấy mùi rượu. Thực tế là cô ta có mùi vodka.”

“Chà, dù sao hôm nay cũng là sinh nhật của cô ấy,” tôi nói.

Mặt biển phía dưới chân núi bình lặng.

Cô gái Hy Lạp thật lười nhác. Các cửa sổ trong căn nhà bên bãi biển của họ bẩn bụi nhưng cô ấy không lau chùi. Cô ấy không bao giờ khóa cửa. Thật là bất cẩn. Giống như cho phép người khác vào nhà. Giống như đi xe đạp mà không đội mũ bảo hiểm. Điều đó cũng thật bất cẩn. Như thế là cho phép mình bị thương nặng nếu xảy ra tai nạn.