Chương 11 & 12
TRÊN ĐƯỜNG THEO MARGARET vào nghĩa trang, chúng tôi thấy có mấy người đang khóc than dưới bàn thờ tạm dưới có căng màn trướng. Họ túm tụm quanh một chiếc quan tài. Chúng tôi cố tình tránh xa họ.
Từ nhỏ đến giờ tôi chỉ thấy mỗi nghĩa trang có mộ mẹ. Mỗi năm, vào ngày sinh nhật mẹ, cha lại đưa tôi đến viếng.
Nghĩa trang này rộng, khu trước chỉ toàn mộ mới. Người đi đưa đám ma đứng ở khu ấy. Margaret đưa tôi ra phía sau, nơi chỉ có mộ cũ. Ở đây vắng tanh. Những người đã khuất nằm ở đây lâu đến nỗi những người đáng lý nên viếng mộ cũng chết già cả rồi.
Cũng như nhiều nghĩa trang khác, nơi này khá dễ chịu, nhiều cây xanh và ghế băng rải rác. Nếu không có bia mộ, nơi đây chắc đã thành một công viên đẹp đẽ. Đặc biệt là khi mặt trời xua tan cái lạnh của một sáng tháng Tư. Vừa cố tập trung nghĩ đến mặt trời và cảnh đẹp như vẽ xung quanh, tôi vừa cố tình không nghĩ đến những gì nằm cách chân tôi ba tấc đất.
Đến một trong những nấm mồ mới nhất trong khu mộ cũ, Margaret dừng lại. Người nằm dưới mồ là một bà lão sáu mươi ba tuổi, mất năm 1959. Margaret bảo đó là lựa chọn lý tưởng: một người chết chưa quá lâu. Do đó, bà ấy sẽ không phát hoảng khi nhìn thứ trang phục đương đại khoác trên người chúng tôi!! Ngược lại, thời gian chết đủ lâu để người thân của bà ấy không còn nhiều. Vì thế, tôi không phải truyền lời nhắn của bà đến cho nhiều người.
Margaret bảo tôi với Tori quỳ trước mộ, giống người nhà của bà Edith hay làm khi đến viếng. Đa phần người trong giới đồng cốt đều tránh gọi hồn ban ngày. Nhưng Margaret bảo nghĩ như thế thật ngu ngốc. Đi đêm càng khiến người ta chú ý. Đi ban ngày, nếu có bạn đi cùng càng tốt - tất nhiên là người kia cũng có khả năng siêu nhiên - bởi cả hai sẽ cùng quỳ trước mộ mà không ai để ý.
“Chúng ta giả vờ dùng di động cũng được mà,” Tori nói.
“Làm vậy ở nghĩa trang là thiếu tôn trọng,” Margaret khịt mũi.
Tori nhún vai. “Vâng, chắc vậy ạ. Nhưng Chloe cũng nên có di động. Phòng khi bạn ấy đang ở chỗ công cộng và có ma muốn liên lạc khẩn với bạn ấy.”
Margaret trợn mắt. Tôi thì lại cho đó là một sáng kiến hay và cảm kích Tori đã gợi ra ý đó.
Giá Tori thích tôi thật thì hay biết mấy. Nhưng Tori đã bảo thẳng tôi rằng cô ta rất cô đơn. Ai cũng cần đồng minh và trong thời điểm hiện tại tôi tạm thời là lựa chọn duy nhất.
Tôi thở dài, buồn vì chưa bao giờ được biết cảm giác vui sướng của người may mắn có bạn thân. Nhớ lại hồi còn được sống bình thường như bao người khác, tôi từng sướng rơn khi có bạn gái nổi tiếng trong trường đến bắt chuyện. Nhưng sau đó, tôi phải nếm ‘trái đắng nhất’ của tình bạn: người đó rắp tâm chế nhạo tật nói lắp của tôi để ‘làm quà’ cho đám con trai được phái đẹp trong trường mê tít. Kết quả là được một phen cười vỡ bụng.
Mở cặp táp mang theo, Margaret lấy ra vài chiếc túi nhỏ đựng thảo dược khô, một viên phấn, diêm và một đĩa lót ly bé xíu. Bà ấy giải thích đó là vật dụng tế lễ giúp các đồng cốt gọi hồn. Tori cố ngăn cái khịt mũi coi thường, như muốn bảo tôi không cần mấy thứ đó. Tôi chỉ im thin thít.
“Cháu có nên tháo cái này không ạ?” Tôi lôi mặt dây chuyền từ trong cổ áo ra ngoài.
Margaret chớp mắt. “Cháu lấy đâu ra vật ấy thế?”
“Mẹ cháu cho khi cháu còn bé. Cháu hay gặp ma nên mẹ bảo cái này có thể xua đuổi họ. Có thật thế không hả bà?”
“Thật... thật là thứ mê tín vớ vẩn. Từ hồi bằng tuổi cháu đến giờ, ta mới thấy lại nó. Đồng cốt thời nay không cần thứ đó. Nhưng ngày xưa nó từng là mốt thời thượng. Họ dùng nó để làm giảm ánh hào quang của thầy đồng.”
“Hào quang ư?” Tori thắc mắc.
“Có phải là trong mắt các hồn ma, chỉ thầy đồng mới tự phát sáng đúng không bà?” Tôi vội hỏi.
Margaret gật đầu.
“Nếu vật này làm vầng hào quang mờ đi, hồn ma sẽ ít chú ý đến thầy đồng hơn.” Tôi kết luận.
“Vậy bà Margaret nói đúng,” Tori nói. “Vật này chẳng có tác dụng gì cả. Nhưng đây không phải mặt dây chuyền cậu đeo lúc ở Nhà Lyle. Chiếc kia màu đỏ, xâu với sợi dây chuyền cơ.”
“Hồi đó nó màu đỏ.” Tôi chỉ mặt đá xanh biển. “Còn sợi dây bị đứt rồi. Nhưng nếu quả nó từng linh nghiệm, thì việc nó đổi màu tức là bùa đã mất sức mạnh rồi.”
Margaret chăm chú nhìn mặt dây chuyền. “Nó đổi màu ư?”
Tôi gật đầu. “Thế là sao hả bà?”
“Người ta nói…” Margaret lắc đầu như không muốn nghĩ tiếp nữa. “Toàn trò mê tín vớ vẩn. Thiên hạ không thiếu chuyện hoang đường. Thôi, chúng ta bắt đầu đi. Chloe, đầu tiên ta muốn cháu đọc tên trên bia mộ và nhớ thật kỹ. Sau đó, cháu sẽ khấn thành tiếng bằng cách gọi tên người kia và cung kính mời bà ấy nói chuyện với cháu. Cháu thử làm xem nào.”
“Bà Edith Parsons, xin bà hãy nói chuyện với cháu!”
“Rồi. Tiếp theo chúng ta sẽ thắp…”
Khi Margaret còn đang giải thích, một người phụ nữ phốp pháp mặc váy xanh dương xuất hiện sau bia mộ. Trên khuôn mặt nhăn nheo cau có, cặp mắt xanh lơ của bà ấy chăm chú nhìn quanh. Lúc ánh mắt ấy xoay chuyển về phía tôi, vẻ cau có biến mất nhường chỗ cho nụ cười rạng rỡ.
“Cháu chào bà,” tôi mở lời.
Dõi theo hướng tôi đang nhìn, Margaret giật nẩy mình.
Tori khúc khích. “Cháu đoán Chloe không cần mấy món đồ kia nữa.”
Nghe Margaret cất tiếng chào, bà Edith thoáng liếc về phía bà ấy nhưng ngay sau đó, ánh mắt và nụ cười của người phụ nữ lập tức hướng lại chỗ tôi.
“Coi cưng dễ thương chưa kìa,” bà Edith nói. “Đứa bé đáng yêu, cháu mấy tuổi rồi?”
“Mười lăm ạ.”
“Và cháu đã có thể nhìn thấy hồn ma! Nhìn vầng sáng quanh cháu là ta biết ngay. Tuy chưa bao giờ gặp người như cháu, nhưng ta nghe người khác kể nhiều rồi. Họ gọi cháu là…” Bà ấy vất vả tìm từ.
“Là đồng cốt,” tôi nhắc.
Hồn ma nhăn mặt, như thể bà ấy cắn nhầm trái chanh chua. “Thời của ta, người ta gọi là nhà tâm linh hoặc nhà trung gian. Nghe dễ chịu hơn nhiều phải không?”
Tôi đồng tình.
Bà Edith hết nhìn tôi lại nhìn bà Margaret, sau đó bật cười. “Suốt bao năm nghe nói về đồng cốt, vậy mà ta đâu có tin. Giờ thì cùng lúc được gặp những hai người.”
Bà Edith giơ tay vỗ vỗ khoảng không quanh đầu tôi. Hình như bà ấy đang chạm vào vầng hào quang thì phải.
“Đẹp quá,” bà ấy lẩm bẩm. “Nó cứ hút ánh nhìn về phía đó… Cháu yêu này, vầng hào quang của cháu sáng lắm, sáng hơn cả người còn lại. Chắc có lẽ bởi cháu trẻ hơn.”
Nghe nói hào quang càng sáng thì năng lực gọi hồn càng mạnh. Nhất định đó là sự thật, bởi tôi vừa thấy Margaret mím môi.
“C... cháu thử vài chuyện được không ạ?” Tôi ướm hỏi.
“Được chứ cháu yêu. Không cần phải ngại ngùng gì. Hôm nay là ngày đặc biệt của ta mà.” Bà hạ giọng. “Thế giới bên kia có chút buồn tẻ. Ta sắp có chuyện hay kể với bạn bè rồi.”
“Cháu sẽ tháo sợi dây chuyền, và cháu muốn biết liệu nó có thay đổi vầng sáng của cháu không.”
“Ý hay đấy,” Tori lẩm bẩm.
Margaret dặng hắng, như muốn nhắc làm thế chỉ phí thời gian vô ích. Điều đó không cản được tôi. Tôi giơ sợi ruy băng qua đầu và đưa cho Tori.
Bà lão há hốc mồm vì kinh ngạc. “Ôi trời!”
Tôi quay sang, thấy bà ấy đang tròn mắt nhìn chằm chằm vào mình. Tiếp đó, một quầng sáng mờ mờ xuất hiện bên trái tôi… rồi một cái khác xuất hiện bên phải.
Margaret buột miệng kêu trời. Bà ấy nhào tới, giật sợi dây chuyền trong tay Tori và giúi vào tay tôi. Khi tôi nhanh tay trả vòng cho Tori, không gian hai bên tôi tiếp tục sáng lung linh và dần nên dáng nên hình.
Bà Edith biến mất, nhường chỗ cho một cô gái mặc đồng phục hướng đạo sinh. Quỳ trước mặt tôi, cô ấy khóc nức nở:
“Nhờ Chúa phù hộ. Chúa phù hộ. Con đã đợi lâu lắm rồi. Cô bé, giúp chị với. Chị cần…”
Một thanh niên mặc chiếc áo khoác jeans bẩn thỉu, rách rưới chụp lấy vai cô ấy và kéo cô ấy ra sau. “Nghe này bé con. Anh bị kẹt ở đây từ thời…”
Một người đàn ông tráng kiện xô mạnh anh ta, khiến anh ta bay ra xa. “Đồ láo xược, phải biết nhường người lớn chứ.”
“Cảm ơn.” Bỏ qua ông ta, tôi nhìn cô gái hướng đạo sinh vẫn chưa hết thổn thức đang ngồi thu lu. “Tôi giúp gì được...”
“Không nghe ta nói gì à,” người đàn ông ngắt lời. “Ta đến trước nhất đấy.”
“Đâu có. Cháu sẽ nói với chú sau.” Tôi nghển cổ nhìn ra sau lưng ông ta.
“Nhóc con muốn ta lấy số thứ tự ư? Được thôi.” Ông ta túm cô gái hướng đạo sinh quăng ra xa. Cô ấy biến mất. “Ối. Chắc nó đi mất rồi. Giờ đến lượt ta.”
Tôi sửng cồ. “Sao chú…”
“Sao trăng cái gì!?” Ông ta nhào tới. Mặt ông đỏ tía, sưng phình gấp đôi, hai mắt trố lồi, lưỡi đen ngòm thò ra ngoài miệng lòng thòng. Tôi loạng choạng lùi lại. Gã thanh niên mặc áo khoác bẩn thỉu nhảy ngay đến sau tôi. Tôi quay ngắt tránh sang hướng khác.
“Xin lỗi nhóc.” Anh ta cười phô hàm răng mục rữa. “Anh không định dọa nhóc. Dọa ma ấy. Hiểu chưa?” Anh ta cười hô hố. Tôi lùi lại, nhưng anh ta càng sấn tới. “Anh đây có khó khăn, còn nhóc lại giúp được anh cách giải quyết. Nghe này, anh bị kẹt trong cái nhà ngục này vì một số việc không phải do anh gây ra. Chịu án oan, nhóc hiểu chưa nào? Thế là anh chẳng đi đâu được. Anh cần nhóc giúp anh vài việc.”
“Cả tôi nữa!” Có tiếng gào phát ra sau lưng tôi.
“Tôi chứ!”
“Tôi!”
“Là tôi mới đúng!”
Tôi từ từ quay lại và đối mặt với đám đông ma, ít nhất là hơn chục con, thuộc mọi lứa tuổi vây kín tôi. Họ sấn tới, mắt trợn tròn; chìa tay về phía tôi; họ to tiếng hằm hè, gào thét, đòi hỏi. Người đàn ông to con vừa đem ‘mặt nạ’ ma ra dọa giờ đứng chắn ngay trước mặt tôi.
“Con ranh kia, đừng đứng đực ra đó. Việc của mày là giúp người chết. Đó là bổn phận của mày.” Ông ta cúi xuống, gí khuôn mặt tím bầm, sưng phù sát mặt tôi. “Còn chần chừ gì nữa mà không bắt tay vào việc ngay đi.”
“Chúng tôi sẽ làm,” một giọng nói vang lên từ bên trái.
Tôi xoay người lại. Đám hồn ma giạt ra. Margaret đứng đó, một tay cầm đĩa nhỏ đầy ú lá cây khô quắt, tay kia cầm que diêm đang cháy đỏ.
“Mọi người đang dọa con bé sợ,” bà ấy thong thả. “Sao không lại đây và nói chuyện với tôi. Tôi cũng giúp được mọi người vậy.”
Các hồn ma đổ xô về phía Margaret. Thế rồi họ hét thất thanh. Họ rú lên đau đớn. Họ chửi rủa om sòm. Sau đó, bóng họ mờ dần trong lúc họ cố vùng vẫy, quẫy đạp và không ngớt chửi rủa. Tuy nhiên, họ vẫn từ từ biến mất cho đến khi chỉ còn mỗi Margaret đứng thổi khói cây khô cháy trong chiếc đĩa nhỏ.
“C… cái gì vậy ạ?” Tôi hỏi.
“Cỏ roi ngựa. Có thể xua đuổi hồn ma. Hiệu nghiệm với hầu hết các loại ma. Tuy nhiên, vẫn có những loại cứng đầu, không chịu đi.”
Margaret sải bước đi qua trước mặt tôi. Tôi xoay qua, thấy một ông lão khả kính đang lùi dần.
“Xin đừng,” ông ấy nói. “Tôi không hề làm phiền cô bé. Nãy giờ tôi chỉ đợi đến lượt mình.”
“Làm ơn,” ông lão lại nói. “Rất có thể ta chỉ còn mỗi cơ hội này. Ta muốn nhắn nhủ một lời thôi.”
Ánh mắt ông lướt qua bà Margaret và chiếu vào tôi. Nước mắt rưng rưng, ông nài nỉ. “Ta xin cháu. Chẳng tốn nhiều thời gian của cháu đâu.”
Một cảm giác nôn nao, ghê rợn bò khắp người tôi. Thế này thật không phải chút nào: ai đời người lớn lại phải cầu xin trẻ con bao giờ!
“Khoan đã,” tôi bảo Margaret. “Cháu có thể nghe xem ông ấy nói gì không? Làm ơn đi mà. Ông ấy là một trong số những hồn ma không dọa nạt cháu.”
Lưỡng lự giây lát, Margaret phẩy tay ra hiệu cho ông lão nói tiếp.
Dành giây lát trấn tĩnh, ông lão phân trần. “Ta chết cách đây hai năm. Ta trót ngủ gật trong lúc đang lái xe, nên chiếc xe lao xuống vách núi dựng đứng. Vì tìm mãi không thấy xác ta nên người ta bảo... họ bảo ta bỏ nhà bỏ cửa, bỏ vợ, bỏ con, bỏ cả cháu nội cháu ngoại. Ta chỉ mong cháu làm việc này, giúp ta gửi một lá thư cho họ. Chỉ cần nói cho họ chỗ tìm xe của ta là được.”
“Cháu phải viết ra,” quay sang bà Margaret, tôi biết trong xe có giấy. Thậm chí di động cũng được - tôi sẽ nhắn tin –nhưng bà ấy lắc đầu.
“Chờ chút,” Tori lấy trong túi ra vài mảnh giấy gấp nhỏ và một cây bút. “Tôi định liệt kê vài món chúng ta cần. Chú Andrew có dặn lát nữa sẽ có người đi mua đồ mà.”
Tôi ghi lại địa chỉ nhà vợ ông lão và địa điểm chiếc xe rơi. Nhìn mấy dòng thông tin ấy, tôi chẳng hiểu gì cả - toàn những tên đường, tên địa điểm tôi không biết. Nhưng hồn ma kia bảo vợ ông ấy sẽ hiểu. Ông còn bảo tôi viết thêm vài chữ, rằng ông rất yêu vợ và không bao giờ muốn rời xa bà.
“Có thể bà ấy không tin chuyện lời nhắn từ dưới mồ sâu, nhưng thế nào bà ấy cũng đi tìm xe. Thôi, không làm mất thời gian của mọi người nữa. Cám ơn đã giúp đỡ.”
Tôi chưa kịp nói gì, hồn ma ông lão đã biến mất.
“Chà, chuyện này ngầu quá,” Tori lấy lại cây viết và số giấy chưa dùng đến trên tay tôi.
Lúc tôi gấp tờ giấy có thông tin nọ, Margaret chìa tay đòi cầm. Tôi đưa nó cho bà. “Chỉ tội chỗ gửi thư hơi xa chỗ này, bà nhỉ? Ấy là cháu đoán thế.”
“Thư này sẽ không được gửi đi.”
“Cái gì?” Tôi và Tori cùng đồng thanh.
“Chloe này, đừng bao giờ hứa chuyển lời nhắn cho hồn ma. Đừng bao giờ!”
“Nhưng...”
Nắm khuỷu tay tôi, bà Margaret dịu dàng nói. “Cháu không được làm thế. Nếu cố tình không nghe, cháu sẽ tạo tiền lệ và những gì cháu chứng kiến hôm nay chỉ là sự khởi đầu. Người ta sẽ đồn ầm lên là cháu sẵn lòng giúp. Nhiều yêu cầu hoàn toàn hợp lý như thư này chẳng hạn. Nhưng kèm theo đó có cả những yêu cầu không mấy dễ chịu khác. Hầu hết bọn ma kia hiện đều bị giam trong hỏa ngục. Họ bị kết án vì tội lỗi từ kiếp trước. Không những không thể giúp họ mà ta còn không muốn giúp. Nhưng dù thế nào, họ sẽ cứ bám riết cháu cả ngày lẫn đêm. Vậy cháu nên coi như không có cả hai: cả ma tốt lẫn ma xấu.”
Ngước lên nhìn Margaret, tôi thấy thấp thoáng một bóng hình khác: một phụ nữ trẻ hơn, nhưng buồn bã hơn bà Margaret của hiện tại. Tôi chợt ngộ ra rằng: phẩm chất được coi như cách xử lý công việc lạnh lùng nhưng hiệu quả của bà chỉ là bản năng tự bảo toàn. Là thầy đồng cứng rắn và duy ý chí, bà mang trong người trái tim chai đá trước những lời cầu xin của linh hồn người đã khuất. Chẳng lẽ đó cũng là định mệnh của tôi? Tự nhủ tôi phải cứng rắn cho đến khi tôi có thể ném thư này vào sọt rác và không bao giờ nghĩ đến nó nữa? Tôi không bao giờ muốn sống như vậy. Không bao giờ.
“Cậu sao thế?” Tori thầm thì.
Margaret đi tìm chỗ đổ tro cỏ roi ngựa. Tori chạm vào cánh tay tôi. Hóa ra tôi đang run cầm cập, hai tay khoanh sát người. “Đáng lẽ tôi nên mang theo áo len dài tay.”
“Có nắng nhưng trời vẫn lạnh các cháu nhỉ?” Quay lại chỗ hai đứa, Margaret lên tiếng.
Bà chìa túi đựng lá khô:
“Cỏ roi ngựa đấy. Lúc về ta sẽ cho cháu một ít. Hiển nhiên là cháu có thể dùng.”
Bà ấy gượng cười, nhưng do đã lâu không cười nên trông bà như đang mếu.
“Cảm ơn bà.” Không ngờ tôi có thể thật lòng thốt lên câu đó.
“Vậy ta thử thêm nhé?” Bà ấy đề nghị.
Tôi đăm đăm nhìn túi nhỏ đựng cỏ khô và cách Margaret cần nó như cầm một giải thưởng cho học trò xuất sắc trụ lại sau buổi học. Dù chỉ muốn bỏ ngang giữa chừng, phần nóng lòng muốn làm hài lòng người khác trong tôi buột miệng, “Vâng ạ.”
Chương 12“TRIỆU HỒI NHỮNG AI MUỐN HIỆN HỒN rất dễ, nhưng đôi khi ta phải giao tiếp với loại ma không muốn hiển linh.” Bà Margaret giảng giải. “Dù tôn trọng ước muốn của người chết, nhưng mối quan hệ bà đồng và ma quỷ, ta vẫn phải luôn duy trì thế thượng phong. Nhiều hồn ma thực lòng tin rằng ta tồn tại chỉ để giúp họ nên ta nhất định phải làm họ tỉnh ngộ, bỏ lối suy nghĩ đó đi. Một cách tạo thanh thế cho thầy đồng là cứng rắn khi gọi hồn.”
Margaret dẫn Tori và tôi đi qua hết ngôi mộ này đến ngôi mộ khác. Ba chúng tôi viếng thăm bốn hồn ma, trò chuyện vài câu với họ. Sau đó, Margaret gặp trúng một linh hồn không chịu đáp lời gọi của bà.
Bà ấy để tôi thử. Hồn ma cũng không chịu phản ứng.
“Cháu biết cách làm tăng sức mạnh của lời triệu hồi không?” Margaret hỏi tôi.
“Tập trung hơn phải không ạ?”
“Chính xác. Dần tăng mức độ tập trung, ý nghĩ dồn vào mục tiêu phải rõ ràng và sắc nét hơn. Bắt đầu ngay đi. Từ từ, dần dần...”
Chúng tôi thử theo cách đó mất một lúc. Margaret nổi quạu bởi mãi mà tôi chưa khuấy động được gì. Cuối cùng, có tiếng nói nội tâm rấm rứt: “Đủ rồi”. Tôi nhắc lại đúng câu đó.
Bà Margaret thở dài. “Chloe này, ta hiểu cháu đang rất hồi hộp. Cháu đã phải chứng kiến tận mắt chuyện có người vừa gọi hơn chục hồn ma. Dù người đó là ai cũng làm cháu bị một phen khiếp vía.”
“Chính cháu gọi...”
“Làm gì có chuyện đó. Phải, cháu hiển nhiên còn trẻ và rất có uy lực. Nhưng nếu không có nghi lễ và đồ cúng thích hợp, cháu không thể tiến hành được đâu. Ngay cả ta còn không làm được nữa là.”
“Thế lỡ do gen đã biến đổi sau khi thử nghiệm nên cháu làm được thì sao ạ? Lỡ tác động của thí nghiệm giúp cháu triệu gọi hồn ma dễ hơn?”
“Không có lý nào...”
“Sao lại không?” Tori gạt phắt. “Gọi hồn cũng có lợi ích nhất định của nó chứ.”
Tôi thầm nghĩ đến cụm từ “Đội quân âm binh”. Tôi nhớ nhiều phim cổ có cảnh các thầy đồng điên cuồng gọi tầng tầng lớp lớp âm binh đội mồ sống dậy.
“Được rồi,” Margaret nói. “Hai cháu lo lắng cũng phải, bởi cả hai đều không biết họ đã làm gì mình. Tuy nhiên, cách duy nhất để vượt qua nỗi sợ hãi ấy là hiểu giới hạn quyền năng của mình và học cách kiểm soát. Ta không yêu cầu cháu trổ hết tài năng. Chloe, chỉ cần cháu cố thêm chút nữa.”
Tôi làm theo và thấy một quầng sáng lờ mờ từ một linh hồn vừa xuất hiện.
“Tuyệt lắm. Giờ cố thêm chút nữa đi. Cứ từ từ. Chỉ cần thế là đủ. Chậm nhưng thật chắc chắn vào nhé.”
Đồng hồ cảnh tình của nội tâm reng to hơn.
“Thôi bỏ đi,” tôi bảo. “Chuyện này có vẻ bất ổn.”
“Nhưng cháu đang tiến bộ trông thấy mà.”
“Chắc thế, nhưng cháu cảm thấy nếu làm nữa sẽ không ổn đâu.”
“Nếu bạn ấy không muốn…” Tori mở lời.
“Victoria!” Margaret giơ cao chùm chìa khóa. “Cháu làm ơn ra xe ngồi đi.”
Tori đứng dậy. “Đi nào Chloe.”
Tôi đứng lên theo. Margaret cầm chân tôi kéo lại. “Cháu không được bỏ hồn ma lại mà đi như thế. Nhìn ông ta xem.”
Bầu không khí lay động. Một cánh tay thò ra. Một khuôn mặt dần thành hình rồi biến mất trước khi tôi kịp nhận ra đường nét trên đó.
“Ông ta bị kẹt giữa nhà tù âm ti và thế giới của người sống,” Margaret nói. “Cháu đã lôi ông ta lên thì phải lôi cho trót.”
“Sao bà không tự làm đi ạ?” Tori hỏi.
“Bởi đây là phần thực hành của Chloe.”
Tori vừa định cãi, tôi đã lắc đầu ra hiệu cho cô ta thôi đi. Margaret nói đúng. Tôi nhất định phải học cách giải quyết khó khăn này. Trách nhiệm của tôi là không để hồn bị kẹt giữa các chiều của vũ trụ.
“Cháu sẽ đẩy hồn ma về lại chỗ cũ,” tôi nói.
“Trục xuất ông ta ư? Cách ấy không hiệu quả với những linh hồn đang bị kẹt.”
Tôi lắc đầu. “Cháu vừa nói là ‘đẩy’ cơ mà. Giống việc gọi hồn, nhưng theo chiều ngược lại. Cháu từng làm thế rồi.”
Nhìn nét mặt Margaret, tôi nhớ chuyện hồi mình lên bảy. Lúc đó, tôi tự hào thông báo với bà quản gia là tôi đã đem nửa số áo quần tôi có nộp cho trường trong một phong trào quyên góp làm từ thiện. Tôi cảm thấy rất bình thường bởi tôi không cần nhiều quần áo quá như vậy. Nhưng cũng giống Margaret bây giờ, bà quản gia ngây người nhìn tôi bằng ánh mắt kinh hoàng xen lẫn hoang mang.
“Cháu chưa... chưa từng đẩy được hồn ma trở về nơi cũ đâu, Chloe. Người ta bảo chuyện ấy có thể xảy ra, nhưng…”
Margaret nuốt khan như thể quên mất tôi đang định nói gì.
“Chắc đó là việc không hay rồi,” Tori thì thầm.
“Đó là một việc làm khủng khiếp và tàn nhẫn. Làm sao cháu biết cháu đẩy họ về đâu chứ. Họ có thể bị lạc đến – đến…” Margaret lắc đầu. “Ta không muốn làm cháu sợ, nhưng còn cháu không bao giờ được mạo hiểm như thế nữa. Hiểu chưa?”
Tôi gật đầu. “Vậy cháu cứ tiếp tục lôi hồn ma này…”
“Ừ.”
Tôi quỳ xuống, tiếp tục gắng sức cho đến khi mồ hôi trán nhỏ giọt vào mắt cay xè. Chuông báo động từ tâm não rung lên không biết bao nhiêu lần nhưng tôi đều bỏ qua. Cuối cùng, hồn ma kia cũng hiện thành hình.
Nghe tiếng Tori hoảng hốt kêu ré lên, tôi mở choàng mắt.
Cô ta đang nhìn chăm chăm cây sồi gần đó. Dưới tán cây có cái gì đó đang chuyển động - một mảnh lông màu xám sẫm không rõ hình dáng bọc ngoài bộ xương khẳng khiu.
“Đuổi nó về đi,” Tori cuống cuồng. “Nhanh lên.”
“Đừng nghe Tori nói. Cháu hoàn tất việc gọi hồn ma này đi,” bà Margaret bảo.
Tôi nhìn bà bằng ánh mắt không sao tin nổi.
“Bà điên à?” Tori nói. “Bà không thấy...”
“Ta có thấy,” giọng điệu bình thản của bà Margaret nghe rờn rợn. “Rõ ràng là ta đã nhầm về giới hạn sức mạnh của Chloe.”
“Bà nghĩ vậy à?” Tori hỏi lại.
Tôi nghệt mặt nhìn bà Margaret. Mặt bà ấy ngây như tượng. Bà ấy bị sốc ư? Không sốc sao được. Dù trông không có vẻ gì là sợ hãi, nhưng rõ là bà ấy vừa tận mắt chứng kiến tôi dựng một con vật đã chết sống dậy mà không cần cầu cúng, đồ lễ, thậm chí không cần phải vắt kiệt sức mới xong. Giá bà ấy có há hốc miệng vì kinh hoàng giống Tori bây giờ cũng là điều dễ hiểu. Nhưng bà ấy chỉ nhìn theo con vật nọ kéo lê thân hình bị biến dạng đang bò về phía chúng tôi.
Nó ngóc đầu, làm như biết tôi đang dõi theo từng nhất cử nhất động của nó. Không mắt, không mõm, không tai, đó chỉ là con chồn hôi khoác bộ lông tả tơi, thủng rách từng mảng.
Nó lắc lư, nhấp nhô cái đầu như thể muốn thấy cái người dựng nó dậy.
“Chloe này,” giọng bà Margaret sắc lẹm. “Một thứ kinh khủng như thế này” - có phải giọng bà ấy hơi run run chăng? “Ma của người là ưu tiên của cháu. Lôi nó qua nhanh lên.”
“Nh... nhưng nếu cháu...”
Túm chặt cánh tay tôi, Margaret lạc giọng kinh hoàng. “Chloe, cháu phải ra tay đi. Khẩn trương lên.”
Con vật dần tiến gần hơn. Đó là một con sóc. Tôi có thấy mấy búi lông dài, dính bết còn dính lủng lẳng trên cái đuôi bé quắt như đuôi chuột cống.
Dồn dập từng hồi, nó cất tiếng kêu chít chít đầy kinh khiếp, nghe the thé chói tai. Ngóc đầu, nó giương hai hốc mắt trống hoác về phía tôi. Tiếp tục bò lên, nó bỏ lại đằng sau một vệt dài lông rụng và thịt da rơi rớt. Mùi thịt rữa thối theo gió xông lên nồng nặc.
Đưa tay che miệng, Tori thì thào. “Cậu làm gì đi chứ.”
Gom góp can đảm, tôi nhắm mắt nhoài người ra trước, dồn hết quyền lực siêu nhiên sẵn có vào một cú lôi thật mạnh, trong đầu hình dung tôi vừa giật con ma sóc kia...
Mặt đất dưới chân rung chuyển. Tori gào lên thảm thiết. Bà Margaret há hốc mồm. Hai mắt tôi choàng mở. Mặt đất chuyển động ầm ầm, một khe nứt nhỏ chạy dài và hở hoác ngay trước mặt chúng tôi.
Túm được tay tôi, Tori lôi giật tôi ra sau. Chúng tôi đi giật lùi trong lúc đất tiếp tục nứt rộng thêm kèm theo tiếng động long trời. Đất đá ầm ầm lao xuống chỗ nứt khiến bụi bay mù mịt.
Miệng vực càng lúc càng rộng thêm, đáy vực càng sâu hơn. Đất chảy thành dòng tuôn xuống vực từ mọi hướng. Bia mộ nghiêng ngả, đổ rạp. Trong lúc mặt đất tiếp tục nứt toác, một bia mộ ngã chổng kềnh cho đến khi nắp quan tài lộ ra, rung bần bật và kêu rầm rầm.
“Ôi không, không, không thể nào.” Tori rên rỉ.
Tori lại túm chặt tay tôi và lôi giật ra sau. Hất tay cô ta, tôi tránh ra xa và tìm chỗ an toàn, sau đó nhắm mắt tập trung vào việc giải phóng các linh hồn. Nếu làm việc ấy khiến tôi cực kỳ thanh thản thì xung quanh không chỉ có mặt đất run bần bật. Tôi phải quỳ hẳn xuống, nếu không hai đầu gối đang run cầm cập của tôi khuỵu xuống mất.
Mắt nhắm nghiền, tôi tiếp tục công việc còn dang dở, ngay cả khi bà Margaret chộp hai vai tôi mà siết. Bà ấy thét gào kêu tôi đứng dậy, nhưng tôi đang tập trung giải phóng các hồn. Thoát ra đi nào, thoát ra đi nào…
Tiếng một người kêu thét. Rồi lại một người nữa. Đứng phắt dậy, tôi dáo dác nhìn quanh nhưng không thấy ai quanh chỗ đất nứt. Cho đến giờ, vết nứt có lẽ đã dài đến gần chục thước và khoảng năm sáu cỗ quan tài phơi mình trong nghĩa địa hoang tàn.
Mặt đất đã hết rung chuyển. Âm thanh duy nhất là tiếng gì giống tiếng lá cây loạt xoạt. Tôi nhìn lên. Những nhánh cây trên đầu mới lấm tấm chồi non. Vậy nhất định âm thanh kia không phải phát ra từ đó.
Tiếng động lôi sự chú ý của tôi đến mấy cỗ quan tài. Không phải tiếng loạt xoạt, mà là tiếng cào cấu, tiếng móng tay cào lên bên trong của quan tài nghe rợn người. Kế đến có tiếng kêu nho nhỏ như bị ai bóp nghẹt: tiếng của những hồn ma kẹt trong thi thể thối rữa đang quơ quào đòi ra...
Tôi lại quỳ mọp xuống.
Giải phóng họ đi. Đó là việc cần phải làm ngay trong lúc này. Mày chỉ có mỗi việc ấy. Hãy giải phóng họ trước khi mấy xác chết bắt đầu đi lại...
Lại có tiếng la hét, nhưng lần này vang lên sau lưng tôi. Một đám người đưa ma vừa đến đang tiến về phía tôi. Nhóm hộ tang khiêng một chiếc quan tài xăm xăm tiến về ngôi mộ mới đào trong khu mả cũ.
Chợt họ dừng phắt, ngó trân xuống chiếc hòm gỗ. Tôi cất bước đi về phía họ, mắt không rời cỗ áo quan, bụng thầm mong chắc tại động đất nên họ buộc phải dừng lại.
Từ đám đông có tiếng người kêu thất thanh. Âm thanh họ nghe thấy vọng đến tai tôi – trong quan tài có tiếng đập rầm rầm.
Thoải mái đi nào. Thư giãn chút rồi thoát ra đi. Thoát ra, ra đi...
Một tiếng rên khẽ từ áo quan vọng ra làm tôi sởn tóc gáy. Thêm một tiếng rên nữa, lần này lớn hơn. Tiếng rên như bị ai bịt miệng. Sau đó là tiếng khóc nghẹn ngào cất lên tự đáy lòng.
Hai viên hộ táng buông tay đòn. Đuôi quan tài lộn phộc khiến bốn người còn lại hốt hoảng thả tay ra. Chiếc hòm rơi xuống, va phải một bia mộ bằng đá. “Rắc” - nắp hòm thình lình bật mở.
Bởi tốp người đưa ma đứng chắn nên tôi không nhìn thấy gì. Họ đều túm chặt lấy người bên cạnh — người cần đứng vững, người tính xô đẩy để rộng đường chạy thoát.
Đám đông thưa dần. Một cánh tay thò lên khỏi mặt đất, phần còn lại của cái xác vẫn núp sau tấm bia. Cái xác nằm đó, cánh tay xỏ trong tay áo vét, lòng bàn tay úp xuống. Thế rồi, mấy ngón tay bất ngờ động đậy, cong lại như móng vuốt thú, bấu lấy mặt đất trong lúc thi thể người chết đu lên, quay về phía tôi, về phía cái người đã dựng ông ta dậy và...
Và cũng là người sắp đuổi ông ta về cõi chết. Ngay bây giờ!
Nhắm tịt mắt, tôi hình dung một người đàn ông, một bóng mờ mặc đồ vét. Tôi tưởng tượng cảnh giải phóng cho linh hồn ông, gửi kèm lời cáo lỗi và thả ông ta...
“Tốt rồi,” có tiếng Tori thì thào bên tai tôi. “Nó không đi nữa rồi kìa. Nó - Khoan, chờ đã. Cứ tiếp tục đi. Làm tiếp - Rồi, nó đứng lại rồi đó.” Im lặng một lát. “Vẫn đứng kìa.” Tori thở phào nhẹ nhõm. “Cậu thành công rồi.”
Có thể thế thật, nhưng tôi không mở mắt nhìn. Khi Tori ngó quanh xem tình hình thế nào, tôi tiếp tục giải phóng nhiều linh hồn khác. Tôi hình dung nhiều người mặc vest, hay mặc váy thuộc mọi lứa tuổi. Tôi còn tưởng tượng cả linh hồn của các con vật, nói chung là đủ loại linh hồn. Trong lúc đó, tôi lắng nghe, không chỉ tiếng người sống rú rít hãi hùng mà còn tiếng xác chết bị thổi hồn vào đang cào cấu, đấm đá... quan tài thùm thụp.
Khi tôi mở mắt ra, Tori men theo con đường nhỏ đi về phía tôi. Sau lưng cô ta là miệng vực rộng hoang hoác. Người đứng thành hàng lố nhố ở hai bờ vực thẳm. Ánh mắt lo âu cho thấy họ sợ cơn địa chấn sẽ còn quay lại. Nhưng chuyện đó đã không xảy ra.
“Người chết vừa chết thêm lần nữa,” Tori đến cạnh tôi rỉ tai. “Sao quanh đây vắng lặng thế không biết.”
Margaret đứng lẫn với nhóm người bên miệng vực. Nghe tiếng tôi gọi, bà ấy chậm chạp quay lại, ánh mắt bà chạm ánh mắt tôi. Tôi nhìn thấy nỗi sợ hãi trong đôi mắt ấy. Không, chưa hẳn đúng. Đó là nỗi kinh hoàng và tột cùng khiếp sợ.
Mày khác hẳn bà ấy. Giờ khi đã hiểu mày là người như thế nào và khả năng đến đâu, bà ấy sợ. Vừa sợ vừa ghê tởm.
Phẩy tay ra hiệu cho Tori và tôi ra xe, bà Margaret vẫn đứng yên như thể bà ấy không đời nào chịu sánh vai với tôi.
“Ngốc nghếch hết chỗ nói,” Tori làu bàu. “Ai đời lại đưa đến nghĩa trang người có sức mạnh siêu nhiên trong lãnh vực gọi hồn bao giờ. Lại còn luôn miệng ‘Ngố vừa chứ, đương nhiên cháu không dựng người chết sống lại được!’”
“Tôi có nói sẽ mở mắt cho bà ấy thấy, nhưng giá tôi đừng làm thế thì hơn.”
Tiếng cười của Tori nghe run run lạ thường. “Có lẽ chúng ta nên ra khỏi đây trước khi có người kịp thắc mắc.”
“Chưa đâu,” tôi nói. “Đừng ra đi trong dáng điệu của tội phạm trốn chạy khỏi hiện trường.”
“Cậu nói đúng.”
Vừa đi, hai đứa tôi vừa ra vẻ bàng hoàng, trố mắt nhìn quanh - bởi người ta sẽ lấy làm lạ nếu hai đứa làm ngược lại. Nhìn miệng vực vừa xuất hiện trong nháy mắt, Tori và tôi giả đò há hốc miệng mà ngó trước khi nheo mắt nhìn lên trời ra vẻ tò mò. Đua nhau chỉ trỏ cỗ áo quan đổ kềnh, hai đứa to nhỏ rỉ tai nhau không ngớt. Vừa luống cuống bước đi thật nhanh, tôi và Tori làm ra vẻ ta đây cũng bị sốc và bàng hoàng chẳng kém.
“Hai cháu kia!” Một người đàn ông kêu lên. “Đứng lại đã.”
Tôi chầm chậm quay lại, trông thấy một ông bác trung niên đang nhìn xuống tụi tôi. Tôi ra hiệu cầu cứu Margaret, để bà thấy chúng tôi sắp gặp rắc rối to. Nhưng bà ấy đã ngoảnh mặt đi, bỏ mặc chúng tôi tự xoay xở