← Quay lại trang sách

PHẦN II. NHỮNG XÃ HỘI CỔ XƯA CHƯƠNG 2 SỰ SUY THOÁI CỦA XÃ HỘI PHỤC SINH

Mỏ đá bí ẩn - Địa lý và lịch sử của đảo Phục Sinh - Con người và lương thực - Tù trưởng, thị tộc và thường dân  Những bệ đá và các tượng - Tạc đẽo, vận chuyển và dựng tượng - Những khu rừng biến mất - Hậu quả đối với xã hội - Người châu Âu và những lý giải - Tại sao Phục Sinh dễ bị tổn hại? - Phục Sinh như một phép ẩn dụ.

Chưa có nơi nào tôi từng đến lại gây cho tôi cảm giác rờn rợn như mỏ đá Rano Raraku trên đảo Phục Sinh, nơi có những tượng đá khổng lồ nổi tiếng (Phụ bản 5). Trước hết, đảo này là vùng đất xa xôi nhất thế giới mà con người có thể sống được. Vùng đất gần nhất là bờ biển Chile cách đó 3.700 kilômét về phía đông và quần đảo Pitcairn của người Polynesia cách 1.389 kilômét về phía tây (bản đồ trang 84-85). Năm 2002, khi từ Chile tới đây, tôi phải bay mất hơn năm tiếng đồng hồ trên biển Thái Bình Dương trải dài vô tận giữa chân trời, dưới cánh máy bay chỉ thấy toàn là nước. Cuối cùng, khi mặt trời xuống chúng tôi cũng thấy đảo Phục Sinh như một đốm nhỏ hiện lờ mờ trong cảnh chiều nhập nhoạng. Trước đó tự nhiên tôi bỗng lo lắng không biết liệu có tìm ra hòn đảo trước khi trời tối hay không, và máy bay có đủ nhiên liệu để quay về Chile nếu chẳng may bay quá và không tìm thấy đảo Phục Sinh. Nếu không có những chuyến thám hiểm bằng thuyền lớn của người châu Âu trong những thế kỷ gần đây thì có lẽ hòn đảo này không phải là chỗ mà con người mong khám phá và tới định cư.

Rano Raraku là một miệng núi lửa gần như tròn có đường kính khoảng 550 mét, từ đồng bằng thấp phía ngoài, tôi theo một con đường mòn dựng đứng tới mép núi lửa, sau đó lại theo con dốc cheo leo xuống một đầm lầy dưới đáy miệng núi lửa. Ngày nay xung quanh nơi đây không có người sinh sống. Rải rác cả bên trong và bên ngoài miệng núi lửa là 397 tượng đá được tạc đẽo cách điệu hóa hình những thân mình đàn ông không chân, tai dài, đa số có chiều cao từ 4,5 - 6 mét nhưng bức lớn nhất có chiều cao tới 21 mét (cao hơn cả một tòa nhà năm tầng trung bình) và nặng từ 10-270 tấn. Vết tích còn lại của một con đường vận chuyển dẫn ra khỏi miệng núi lửa qua một hẻm núi xuyên dẫn vào một điểm thấp trên bờ miệng núi lửa vẫn còn hiện rõ. Từ đó, thêm ba con đường nữa rộng khoảng 7,6 mét tỏa ra các hướng bắc, nam và tây dài tới 15 kilômét đi về phía các bờ biển của đảo Phục Sinh. Rải rác dọc theo những con đường có thêm 97 tượng nữa, dường như chúng bị bỏ lại trong quá trình vận chuyển từ mỏ đá ra. Dọc theo bờ biển và rải rác sâu bên trong đất liền có khoảng 300 bệ đá, 1/3 số đó trước đây dùng làm nền hoặc để dựng khoảng 393 bức tượng nữa, chỉ vài thập kỷ trước tất cả số tượng này còn chưa được dựng lên mà nằm nghiêng ngả, nhiều bức bị đổ, ở cổ có dấu vết như bị ai đó cố tình phá hoại.

Từ miệng núi lửa, tôi có thể nhìn thấy bệ đá gần nhất và to nhất (gọi là Ahu Tongariki), nơi có 15 bức tượng đổ mà nhà khảo cổ Claudio Cristino cho tôi biết năm 1994 ông đã dùng một cần cẩu có trọng lượng nâng 55 tấn để dựng lại số tượng này. Mặc dù sử dụng thiết bị hiện đại nhưng Claudio vẫn gặp không ít khó khăn bởi tượng lớn nhất của Ahu Tongariki nặng tới 88 tấn. Vậy mà người dân tiền sử Polynesia của đảo Phục Sinh không hề có cần cẩu, xe trượt, không máy móc, không một dụng cụ kim loại, không súc vật kéo và chẳng hề có một phương tiện nào khác ngoại trừ sức người để vận chuyển và dựng những tượng đá khổng lồ này.

Số tượng bị bỏ lại ở mỏ đá đều đang trong các giai đoạn hoàn thiện. Một số vẫn còn gắn vào tảng đá mà chúng đang được tạc đẽo, tượng đã được phác họa nhưng còn thiếu những họa tiết tay và tai. Một số khác đã hoàn thiện, được tách ra khỏi tảng đá gốc và nằm trên sườn của miệng núi lửa dưới chỗ chúng đã được tạc và một số tượng đã được dựng lên bên miệng núi lửa. Mỏ đá khiến tôi có cảm giác rùng rợn khi thấy mình như đang đứng giữa một công trường, đột nhiên tất cả công nhân bỏ chạy vì những lý do bí ẩn nào đó, vứt lại đồ nghề của mình và để mặc những bức tượng vẫn còn dang dở. Bừa bộn trên mỏ đá là những dụng cụ tạc đẽo đá, những mũi đục và những chiếc búa đang dùng để tạc tượng. Xung quanh những bức tượng vẫn còn dính vào tảng đá gốc là những chiếc hào để những thợ điêu khắc đứng vào đó làm việc. Khắc sâu vào những bức tường đá là những vết khía dường như trước đây các thợ điêu khắc treo bầu đựng nước ở đó. Một số tượng trong miệng núi lửa có những dấu hiệu như bị kẻ nào đó cố tình phá hoại hay làm cho chúng trông xấu xí, như thể có những nhóm thợ điêu khắc kình địch cố ý phá hoại những tác phẩm của người khác. Người ta tìm thấy dưới một bức tượng có một lóng xương ngón tay người, có thể đó là hậu quả khi một người trong nhóm vận chuyển tượng bất cẩn bị tai nạn. Nhưng ai đã tạc những tượng này và bằng cách nào họ tạc và dựng được những bức tượng lớn như vậy? Tại sao họ lại cố tình lật đổ chúng?

Ngay khi mới đặt chân lên đảo Phục Sinh vào Ngày Phục Sinh (5/4/1722)5, ông Jacob Roggeveen6, đã nhận ra ra nhiều điều bí ẩn của hòn đảo này. Xuất phát từ Chile, ba chiếc thuyền lớn của châu Âu lênh đênh vượt biển Thái Bình Dương trong suốt 17 ngày mà không hề thấy bóng đất liền, Roggeveen phân vân không biết người Polynesia sẽ chào đón ông như thế nào khi tàu của ông cập bờ biển Phục Sinh, đặt chân lên một hòn đảo xa xôi như vậy? Hiện chúng ta biết rằng đi tới đảo Phục Sinh từ đảo gần nhất của người Polynesia ở hướng tây cũng phải mất ít nhất chừng đó thời gian. Vì vậy Roggeveen và những du khách châu Âu sau này đã rất ngạc nhiên khi thấy loại thuyền duy nhất của cư dân trên đảo chỉ là những chiếc thuyền độc mộc bé nhỏ và yếu ớt, dài không quá hơn 3 mét và chỉ có thể chở một hay nhiều lắm là hai người. Theo lời Roggeveen: “Những chiếc thuyền của họ rất xấu và mỏng mảnh, chúng được ghép bằng nhiều tấm ván nhỏ, bên trong lát gỗ nhẹ và được đan lại với nhau một cách khéo léo bằng những sợi dây bện rất chắc làm từ một loại cây. Nhưng do thiếu kiến thức và nhất là không có những vật liệu dùng để trám xuồng và để những điểm ghép giữa các tấm ván không bị thấm nước, bởi vậy thuyền rất yếu buộc họ phải mất một nửa thời gian để tát nước.” Làm thế nào để một nhóm người di cư cùng với cây giống, những con gà và nước uống có thể sống sót trong chuyến đi biển kéo dài tới hai tuần rưỡi chỉ bằng những chiếc thuyền như thế này?

Cũng như tất cả các du khách sau này, trong đó có tôi, Roggeveen không hiểu cư dân trên đảo làm thế nào để dựng những bức tượng của họ. Nhật ký của ông viết: “Đầu tiên, hình ảnh những tượng đá khiến chúng tôi kinh ngạc bởi không biết làm sao những cư dân trên đảo có thể làm như vậy khi họ hoàn toàn không có những loại cây gỗ lớn để có thể chế tạo bất kỳ thiết bị nào cũng như những loại dây chão chắc khỏe. Nhưng họ đã dựng được những tượng lớn cao hơn 9 mét với độ dày tương ứng.” Roggeveen nhận ra rằng, cho dù cư dân trên đảo có dùng bất cứ phương pháp nào để dựng tượng, thì chắc chắn họ phải dùng những thanh gỗ lớn và những sợi dây chắc khỏe làm từ những cây gỗ lớn. Nhưng như chính mắt ông thấy, đảo Phục Sinh là một vùng đất khô cằn không có lấy một cây gỗ hay một bụi rậm nào cao quá 3 mét (các phụ bản 6,7): “Ban đầu từ xa chúng tôi thấy đảo Phục Sinh như một đảo cát, lý do bởi chúng tôi tin rằng cát đã phủ lên những thảo nguyên, khiến cỏ bị tàn lụi, làm khô héo hay đốt cháy các loài thực vật khác, bởi bề ngoài khô cằn của hòn đảo khiến người ta có ấn tượng rằng đó là một vùng đất đặc biệt cằn cỗi và nghèo nàn”. Vậy điều gì đã xảy ra với những loài cây chắc hẳn đã từng mọc ở đây?

Việc tổ chức đục đẽo, vận chuyển và dựng tượng đòi hỏi xã hội đó phải là xã hội đông dân, dồi dào tài nguyên sống trong một môi trường đủ giàu để hỗ trợ công việc này. Số lượng và quy mô của tượng đá cho thấy dân số trên đảo phải nhiều hơn số lượng chỉ vài ngàn người mà những nhà thám hiểm châu Âu trong thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX đã thấy: Vậy điều gì đã xảy ra với dân số lớn trước đây? Việc đục đẽo, vận chuyển và dựng tượng đòi hỏi phải có nhiều thợ lành nghề: Vậy những người này được nuôi ăn như thế nào, khi Roggeveen đặt chân lên đảo Phục Sinh thì đảo không hề có loài động vật lớn nào, ngoại trừ những loài côn trùng và vật nuôi chỉ có mỗi loài gà? Phục Sinh được coi là xã hội phát triển còn bởi sự phân bố rải rác các nguồn tài nguyên trên đảo với một mỏ đá gần cực Đông, những loại đá tốt dùng để chế tạo công cụ sản xuất ở phía tây nam, một bãi biển rất tốt để ra khơi đánh cá ở phía tây bắc và phần đất canh tác tốt nhất ở phía nam. Việc khai thác và phân phối lại tất cả những tài nguyên đó sẽ đòi hỏi một hệ thống có khả năng thống nhất kinh tế trên toàn đảo: Vậy tại sao nó lại có thể biến thành cảnh khô cằn và bần hàn tới mức này và điều gì đã xảy ra với xã hội trên đảo.

Trong suốt ba thế kỷ qua, có rất nhiều những suy đoán xung quanh những bí ẩn đó. Nhiều người châu Âu tỏ ý nghi ngờ khả năng người Polynesia, “những người man rợ”, lại có thể tạo ra những bức tượng hay những bệ đá đẹp tới vậy. Nhà thám hiểm người Na Uy Thor Heyerdahl không công nhận giả thuyết rằng người Polynesia đã di cư ra ngoài châu Á, từ phía tây Thái Bình Dương. Theo ông, các xã hội tiên tiến của thổ dân Nam Mỹ từ phía đông Thái Bình Dương đã định cư trên đảo Phục Sinh, rồi sau đó chắc hẳn những xã hội này đã tiếp nhận văn minh từ những xã hội tiên tiến hơn của Cựu Thế giới ở phía bên kia Đại Tây Dương. Heyerdahl đã tổ chức chuyến thám hiểm Kon-Tiki nổi tiếng và những chuyến đi biển bằng bè mảng nhằm chứng minh những chuyến vượt đại dương của người tiền sử là hoàn toàn khả thi, và để chứng minh mối quan hệ giữa những kim tự tháp của người Ai Cập, những kiến trúc vĩ đại bằng đá của đế chế Inca ở Nam Mỹ với những tượng đá khổng lồ trên đảo Phục Sinh. Sự quan tâm của tôi tới đảo Phục Sinh được nhen lên từ hơn 40 năm trước khi đọc cuốn sách thuật lại chuyến thám hiểm Kon-Tiki của Heyerdahl và những lý giải lãng mạn của ông về lịch sử của Phục Sinh. Hồi đó, tôi nghĩ không gì có thể bác bỏ những lý giải tuyệt vời này. Xa hơn nữa, học giả người Thụy Sĩ Erich von Däniken, người luôn tin rằng có một nền văn minh ngoài trái đất, cho rằng những tượng đá trên đảo Phục Sinh là tác phẩm của những người ngoài hành tinh với những công cụ cực kỳ hiện đại. Những người này bị mắc kẹt trên đảo Phục Sinh và sau đó đã được giải cứu.

Lý giải chính thức cho những bí ẩn này hiện đã thừa nhận việc tạc đẽo tượng là do con người thực hiện với những dụng cụ đẽo đá và những công cụ khác rõ ràng vẫn còn bừa bộn ở Rano Raraku chứ không phải do những yếu tố vũ trụ thần thoại, và do những cư dân Polynesia của đảo Phục Sinh chứ không phải người Inca hay người Ai Cập. Lịch sử đảo Phục Sinh cũng lãng mạn và hấp dẫn như chuyến vượt đại dương bằng mảng Kon-Tiki hay những giả thuyết về sự viếng thăm của người ngoài trái đất, đồng thời cũng có liên quan nhiều hơn đến những sự kiện hiện đang diễn ra trong thế giới hiện đại. Lịch sử đảo Phục Sinh cũng rất phù hợp để mở đầu những chương về các xã hội cổ xưa, bởi nó là một minh chứng rõ ràng nhất mà chúng ta có thể thấy về một thảm họa sinh thái xảy ra ở một nơi hoàn toàn biệt lập.

Phục Sinh là một đảo hình tam giác trên đó bao trùm ba ngọn núi lửa tương đối gần nhau mọc lên từ đáy biển tại những thời điểm khác nhau từ hàng triệu năm trước, ngủ yên trong suốt thời gian con người sinh sống trên đảo. Núi lửa Poike lâu đời nhất phun lửa cách đây khoảng 600.000 năm (cũng có thể là 3 triệu năm trước), và giờ án ngữ góc đông nam của tam giác, sau đó tới lượt núi lửa Rano Kau hoạt động chắn phía tây nam. Khoảng 200.000 năm trước, núi lửa Terevaka trẻ nhất nằm gần góc phía bắc của tam giác phun dung nham hiện phủ tới 95% bề mặt đảo.

Phục Sinh rộng khoảng 106 kilômét vuông và ở độ cao 510 mét so với mực nước biển, khiêm tốn nhất so với các đảo khác của người Polynesia. Địa hình của đảo phần lớn là thoai thoải, không có những thung lũng sâu như quần đảo Hawaii. Ngoại trừ tại các miệng núi lửa có sườn dốc đứng và những đám bọt đá hình nón, thì tôi thấy có thể dễ dàng đi bộ ở bất cứ vùng đất nào trên đảo theo một đường thẳng để tới vùng lân cận, không như ở Hawaii hay Marquesas, nơi mà con đường kiểu đó sẽ nhanh chóng khiến tôi vấp đá ngã lộn cổ.

Nằm ở vùng khí hậu bán nhiệt đới ở vĩ độ 27o nam, giống như Miami giáp cực nam hay Đài Bắc ở cực bắc của xích đạo, nên Phục Sinh có khí hậu ôn hòa, trong khi nham thạch của những núi lửa làm cho đất đai thêm màu mỡ. Sự kết hợp của những thuận lợi này lẽ ra phải khiến hòn đảo trở thành một tiểu thiên đường, mà không gặp bất cứ khó khăn nào mà những nơi khác trên thế giới đang phải đối mặt. Tuy nhiên, vị trí địa lý của Phục Sinh đã gây ra một số khó khăn cho những người mới tới đây khai phá. Nếu khí hậu bán nhiệt đới là ấm áp khi so với mùa đông của Bắc Mỹ và châu Âu, thì nó lại lạnh nếu so với đa phần những vùng lãnh thổ Polynesia nhiệt đới. Tất cả những đảo khác có người Polynesia sinh sống, trừ New Zealand, Chathams, Norfolk và Rapa, đều nằm gần xích đạo hơn Phục Sinh. Bởi vậy, một số giống cây nhiệt đới quan trọng với người Polynesia ở những vùng khác, như cây dừa (mới du nhập vào Phục Sinh trong thời kỳ hiện đại), lại phát triển rất kém ở Phục Sinh, và đại dương bao quanh lại quá lạnh để các dải san hô có thể nhô lên gần mặt biển mang theo các loại cá và các loài giáp xác như tôm, cua. Khi lang thang xung quanh Teravaka và Poike, tôi và Barry Rolett phát hiện ra rằng Phục Sinh là một hòn đảo lộng gió, điều này gây khó khăn cho cả những nông dân cổ xưa và hiện nay. Gió làm rụng những quả sa kê, loại cây mới được du nhập lên đảo, khi chúng chưa kịp chín. Cùng với những yếu tố khác, sự biệt lập của Phục Sinh khiến nó không chỉ thiếu những loại cá sống trong dải san hô mà toàn bộ các loại cá nói chung. Phục Sinh chỉ có 127 loại cá so với hơn một ngàn loài cá của đảo Fiji. Tất cả những bất lợi địa lý này khiến nguồn lương thực của cư dân đảo Phục Sinh ít hơn so với hầu hết cư dân các đảo Thái Bình Dương khác.

Vấn đề còn lại liên quan tới vị trí địa lý của Phục Sinh là lượng mưa trung bình chỉ khoảng 128 xăngtimét mỗi năm, dường như quá nhiều so với vùng châu Âu Địa Trung Hải và miền nam California, nhưng lại thấp so với các vùng khác của người Polynesia. Cùng với những hạn chế do lượng mưa thấp gây ra, nước mưa rơi xuống còn nhanh chóng bị thấm vào lớp đất xốp của Phục Sinh, kéo theo hậu quả khan hiếm nước ngọt. Những nguồn cung cấp nước nước ngọt trên đảo là con suối duy nhất trên sườn núi Teravakas, nước lúc có lúc không, lúc tôi đến thì nó cạn trơ đáy; những chiếc hồ và đầm lầy dưới đáy của ba miệng núi lửa trên đảo, những chiếc giếng được đào ở những nơi có mực nước ngầm gần mặt đất và những bong bóng nước ngọt sủi lên trên đáy biển ngoài khơi xa hay giữa những đợt thủy triều lên xuống. Tuy nhiên, cư dân đảo Phục Sinh vẫn có thể kiếm đủ nước để uống, đun nấu và tưới cây, mặc dù rất vất vả.

Cả Heyerdahl và von Däniken đều phớt lờ những bằng chứng rất quan trọng chứng minh các cư dân đảo Phục Sinh chính là người Polynesia có nguồn gốc châu Á chứ không phải là từ châu Mỹ, và văn hóa của họ (kể cả những bức tượng) cũng bắt nguồn từ văn hóa của người Polynesia. Ngôn ngữ của họ là tiếng Polynesia, như thuyền trưởng Cook khẳng định trong chuyến đi ngắn của ông tới Phục Sinh năm 1774, một người Tahiti trong đoàn có thể trò chuyện với cư dân Phục Sinh. Điều đặc biệt là họ nói một thổ ngữ của người Polynesia ở phía đông mà người Hawaii và người Marquesa sử dụng, phần lớn rất giống với loại thổ ngữ tên là Early Mangarevan. Lưỡi câu, rìu đá, lao móc, cây giũa bằng san hô và những công cụ khác đều mang đặc trưng của người Polynesia và đặc biệt giống với những công cụ thủa sơ khai của người Marquesa. Nhiều chiếc xương sọ của cư dân Phục Sinh mang nét đặc trưng của người Polynesia gọi là “hàm cong”. Khi phân tích DNA lấy từ 12 bộ xương vùi dưới những bệ đá của Phục Sinh, tất cả 12 mẫu đều cho thấy có một đoạn gien mất chín cặp và ba đột biến thay cặp có trong gien của đa phần người Polynesia. Hai trong số ba đột biến thay cặp không có ở thổ dân Mỹ và vì vậy nó phủ nhận quan điểm của Heyerdahl rằng thổ dân châu Mỹ có đóng góp vào bộ gien của Phục Sinh. Các giống cây của Phục Sinh là chuối, khoai sọ, khoai lang, mía và cây dướng, phần lớn là các giống cây của người Polynesia có nguồn gốc ở Đông Nam Á. Vật nuôi duy nhất của Phục Sinh là gà, cũng là nét đặc trưng của người Polynesia và người châu Á, thậm chí cả những con chuột cũng theo những chiếc thuyền chở những cư dân đầu tiên tới Phục Sinh.

Sự di dân của người Polynesia tiền sử là sự bùng nổ mạnh mẽ nhất trong tiền sử học của loài người của việc thám hiểm bằng đường biển. Cho tới năm 1.200 TrCN, sự di cư của con người cổ đại từ lục địa châu Á qua quần đảo Indonesia tới Australia và New Guinea không tiến sâu vào Thái Bình Dương, chỉ tới quần đảo Solomon ở phía đông New Guinea. Thời gian đó, một dân tộc sinh sống bằng nghề trồng trọt và đi biển, rõ ràng có nguồn gốc từ quần đảo Bismarck, đông bắc New Guinea, và sản xuất ra đồ gốm được gọi là nghề gốm thủ công kiểu Lapita, đã vượt qua khoảng gần một ngàn dặm đường biển qua các đại dương bao la phía đông quần đảo Solomon để tới Fiji, Samoa và Tonga, trở thành tổ tiên của người Polynesia. Mặc dù không có la bàn, chữ viết và dụng cụ kim loại, nhưng người Polynesia là bậc thầy của nghệ thuật hàng hải và kỹ thuật bơi xuồng. Có rất nhiều bằng chứng khảo cổ học được giám định niên đại bằng các bon 14 như đồ gốm và các dụng cụ bằng đá, tàn tích của những ngôi nhà và những đền thờ, những mảnh vụn lương thực và những bộ xương người giúp xác định khoảng thời gian và tuyến đường trong sự bành trướng của dân tộc này. Vào khoảng năm 1200, người Polynesia đã tới được tất cả những vùng đất có thể sinh sống trong một tam giác toàn là biển mênh mông nước với ba đỉnh là Hawaii, New Zealand và đảo Phục Sinh.

Trước đây, các nhà lịch sử từng giả thiết rằng tất cả những đảo có người Polynesia sinh sống đều được phát hiện và đến định cư một cách ngẫu nhiên, như những chiếc thuyển chở đầy ngư dân bỗng nhiên bị vỡ chẳng hạn. Tuy nhiên, giờ đã rõ ràng cả những chuyến thám hiểm và di cư đều được lên kế hoạch kỹ càng. Trái ngược với những gì mọi người cho rằng đó là những chuyến đi biển lênh đênh bất ngờ, đa phần những nơi người Polynesia định cư nằm trên trục từ tây sang đông, ngược với hướng gió và dòng hải lưu từ đông sang tây. Có thể những đảo mới được những người đi biển phát hiện khi chèo thuyền ngược gió theo hướng đã định trước, hay chờ gió đổi hướng tạm thời, để tới những nơi xa lạ. Việc mang theo nhiều chủng loại giống cây và gia súc, từ cây khoai nước cho tới chuối, từ những con lợn cho tới chó, gà chứng tỏ việc định cư đã được những người khai hoang chuẩn bị kỹ lưỡng, họ mang theo những sản phẩm từ quê hương rất cần thiết để tồn tại trên vùng đất mới.

Làn sóng di dân đầu tiên của những người thợ gốm Lapita, tổ tiên của người Polynesia, tràn về hướng đông qua Thái Bình Dương, xa nhất cũng chỉ tới Fiji, Samoa và Tonga, mỗi đảo chỉ cách nhau vài ngày chèo thuyền. Những đảo phía tây của người Polynesia bị một khoảng đại dương rộng hơn nhiều lần chia cách với những đảo phía đông như các đảo Cook, quần đảo Society, Marquesa, Austral, Tuamotus, Hawaii, New Zealand, quần đảo Pitcairn và đảo Phục Sinh. Chỉ sau một thời gian “tạm nghỉ dài” khoảng 1.500 năm, cuối cùng khoảng cách này cũng bị chinh phục, không rõ có phải vì những tiến bộ của người Polynesia trong việc đóng thuyền và đi biển, hay do những thay đổi của dòng hải lưu, hoặc những hòn đảo xuất hiện làm bước đệm do mực nước biển rút xuống, hay chỉ là một chuyến đi biển may mắn. Khoảng thời gian từ năm 600-800 (thời gian cụ thể hiện vẫn đang gây tranh cãi), các đảo phía đông Polynesia gần các đảo phía tây nhất là Cook, các đảo Society và Marquesa đã bị chinh phục và trở thành điểm xuất phát cho những chuyến thám hiểm những hòn đảo còn lại. New Zealand được khám phá vào khoảng năm 1200, sau khi vượt qua một đại dương rộng ít nhất 2.000 hải lý và cuối cùng cuộc chinh phục những hòn đảo Thái Bình Dương mà con người có thể sinh sống đã hoàn tất.

Nhưng bằng tuyến đường nào người Polynesia đã đặt được chân lên đảo Phục Sinh, hòn đảo phía đông xa nhất? Những khó khăn do hướng gió và dòng hải lưu có thể khiến người Polynesia không thể chèo thuyền trực tiếp từ Marquesa, một đảo có dân cư đông đúc và dường như là điểm trung gian để tiếp tục chinh phục Hawaii, sang Phục Sinh. Thay vào đó, những điểm xuất phát để chinh phục Phục Sinh dường như là các đảo Mangareva, Pitcairn và Henderson, nằm giữa chặng đường từ Marquesa tới Phục Sinh. Số phận của cư dân các đảo này sẽ được thảo luận ở chương tiếp theo (Chương 3). Sự tương đồng giữa ngôn ngữ của Phục Sinh với tiếng Early Mangarevan, sự giống nhau giữa một bức tượng trên đảo Pitcairn với một số tượng trên đảo Phục Sinh, sự trùng khớp giữa các loại công cụ sản xuất của Phục Sinh với công cụ sản xuất trên đảo Mangareva và Pitcairn, sự tương ứng giữa những xương sọ người trên đảo Phục Sinh với hai xương sọ trên đảo Henderson thậm chí còn chặt chẽ hơn cả những xương sọ của người Marquesa. Tất cả cho thấy có thể người tiền sử đã sử dụng những đảo Mangareva, Pitcairn và Henderson làm điểm trung gian để tới Phục Sinh. Năm 1999, chiếc thuyền được tái tạo theo kiểu thuyền Hokulea của người Polynesia đã hoàn thành chuyến đi từ đảo Mangareva tới Phục Sinh trong thời gian 17 ngày. Với những người hiện đại không quen đi biển như chúng ta, thật khó tin rằng những ngư dân đã chèo xuồng sang phía đông từ đảo Mangareva lại may mắn bắt gặp một hòn đảo chỉ rộng dài 14 kilômét tính từ bắc sang nam, sau một chuyến đi biển dài ngày như vậy. Tuy nhiên, người Polynesia biết cách dự đoán chiều dài một hòn đảo trước khi nó hiện ra, căn cứ vào những đàn chim biển bay ra trên một bán kính 160 kilômét từ một vùng đất tới nơi tìm thức ăn. Vì vậy, đường kính chính xác của Phục Sinh (ban đầu là nơi cư ngụ của một số loài chim biển lớn nhất Thái Bình Dương) phải vào khoảng 320 kilômét, theo tính toán của những ngư dân Polynesia, chứ không phải chỉ có 14 kilômét.

Một truyền thuyết dân gian lưu truyền trong cư dân đảo Phục Sinh kể rằng thủ lĩnh chuyến di dân tới định cư trên hòn đảo của họ là một tù trưởng tên là Hotu Matu’a (tức “Người cha vĩ đại”) đi trên một hoặc hai chiếc thuyền lớn với vợ và sáu người con cùng đại gia đình. (Những người châu Âu cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi tới đây đã ghi lại rất nhiều truyền thuyết do những cư dân còn sống sót trên đảo kể lại, chứa đựng những thông tin rõ ràng đáng tin cậy về cuộc sống trên đảo Phục Sinh trong hàng thế kỷ, hoặc trước thời điểm người châu Âu đặt chân tới đây, nhưng không chắc liệu những truyền thuyết này có ghi lại những chi tiết chính xác về những sự kiện xảy ra từ một ngàn năm trước không). Chúng ta sẽ thấy (ở Chương 3) rằng cư dân trên nhiều đảo khác của người Polynesia vẫn giữ liên lạc với nhau qua những chuyến đi biển thường xuyên giữa những hòn đảo sau khi được phát hiện và định cư. Có thể điều này cũng đúng với trường hợp của Phục Sinh và có thể sau Hotu Matu’a vẫn có những chiếc thuyền khác tiếp tục tới Phục Sinh. Nhà khảo cổ học Roger Green cho rằng có khả năng đó, dựa trên những điểm tương đồng giữa một số kiểu công cụ sản xuất của Phục Sinh với kiểu công cụ sản xuất của Mangareva tại thời điểm vài thế kỷ sau khi người Polynesia đã sinh sống trên đảo Phục Sinh. Tuy nhiên, bác lại giả thuyết này là hiện tượng Phục Sinh không có những vật nuôi truyền thống như chó, lợn và một số loại cây trồng điển hình của người Polynesia. Có ý kiến cho rằng, lẽ ra những giống vật nuôi và cây trồng này phải được những người đi biển sau này mang tới, trong trường hợp chúng đã được mang theo xuồng của Hotu Matu’a nhưng không thể sống trên đảo hay chết ngay khi ông vừa đặt chân lên đảo. Ngoài ra, trong chương tiếp theo chúng ta sẽ thấy rằng, một số công cụ sản xuất bằng đá được tìm thấy trên một hòn đảo lại có chứa những thành phần hóa học đặc biệt chỉ có trong đá của một hòn đảo khác, đó là một bằng chứng rõ ràng về việc có sự qua lại giữa các đảo Marquesa, Pitcairn, Henderson, Mangareva và Society, nhưng không hề có một viên đá nào có nguồn gốc từ Phục Sinh được tìm thấy trên những đảo khác và ngược lại. Bởi vậy, có thể khẳng định cư dân đảo Phục Sinh vẫn hoàn toàn biệt lập ở nơi tận cùng của thế giới, mà không có bất kỳ mối quan hệ nào với bên ngoài trong thời gian hàng ngàn năm, kể từ chuyến khám phá đầu tiên của Hotu Matu’a cho tới khi nhà thám hiểm Roggeveen đặt chân tới đây.

Giả sử đa phần đảo phía đông của người Polynesia có thể được định cư trong khoảng thời gian từ năm 600-800, khi đó đảo Phục Sinh đã được tìm ra chưa? Thời điểm định cư trên các hòn đảo của người Polynesia không mấy chắc chắn. Những tài liệu viết về đảo Phục Sinh thường cho rằng thời điểm đó vào khoảng năm 300 - 400, dựa trên những tính toán đặc biệt về thời điểm phân nhánh ngôn ngữ bằng kỹ thuật sắp xếp niên đại ngôn ngữ học (glottochronology) và ba niên đại được xác định bằng phương pháp các bon đồng vị phóng xạ với than củi được lấy tại Ahu Te Peu, lấy từ một chiếc hào ở Poike, và từ những trầm tích dưới lòng hồ cho thấy rừng đã bị chặt phá. Tuy nhiên, các chuyên gia về lịch sử đảo Phục Sinh ngày càng nghi ngờ những thời điểm sớm như vậy. Họ nghi ngờ độ chính xác của những tính toán bằng kỹ thuật sắp xếp niên đại ngôn ngữ học, nhất là khi áp dụng với những ngôn ngữ có lịch sử phức tạp như tiếng của người Phục Sinh (chúng ta biết chủ yếu thông qua, và có thể bị ảnh hưởng, từ ngôn ngữ của những người Tahiti và người Marquesa) và tiếng của người Mangareva (rõ ràng đã bị thay đổi tới lần thứ hai do những người Marquesa đến sau). Cả ba niên đại trên đều được xác định trên những mẫu đơn lẻ bằng kỹ thuật các bon đồng vị phóng xạ lạc hậu hơn và hiện không còn được sử dụng nên không đáng tin cậy, và cũng không có bằng chứng rằng các mẫu vật là than củi thực tế có liên quan tới con người.

Thay vào đó, dường như thời điểm định cư trên đảo Phục Sinh đáng tin cậy nhất là vào khoảng năm 900, được xác định bằng phương pháp đồng vị phóng xạ mà nhà cổ sinh vật học David Steadman và hai chuyên gia khảo cổ học Claudio Cristino và Patricia Vargas áp dụng đối với than gỗ và xương cá heo bị con người ăn thịt, và những bằng chứng từ những tầng khảo cổ học lâu đời nhất cho thấy sự hiện diện của con người trên bãi biển Anakena của đảo Phục Sinh. Thời kỳ đó, Anakena là bến đậu tốt nhất trên đảo, hiển nhiên những cư dân đầu tiên sẽ sinh sống ở đây. Công việc giám định niên đại trên xương cá heo được tiến hành bằng phương pháp các bon đồng vị phóng xạ hiện đại là AMS (Phép đo phổ khối lượng) và phương pháp Hiệu chỉnh tầng nước biển để tính niên đại bằng các bon 14 đối với xương của các loài sinh vật biển như cá heo được xác định khá chính xác. Những niên đại này dường như sát với thời gian định cư đầu tiên bởi chúng có nguồn gốc từ những tầng khảo cổ học có chứa xương của các loài chim bản địa sống trên đất liền đã bị tuyệt chủng rất nhanh trên đảo Phục Sinh và trên nhiều đảo Thái Bình Dương khác, và bởi những chiếc thuyền săn cá heo cũng sớm biến mất hoàn toàn. Bởi vậy, đánh giá đáng tin cậy nhất hiện nay về thời điểm định cư của con người trên đảo Phục Sinh là khoảng thời gian trước năm 900.

Vậy lương thực của cư dân trên đảo là gì và họ có bao nhiêu người?

Tại thời điểm những người châu Âu đặt chân lên đảo, các cư dân trên đảo sinh sống chủ yếu bằng nghề nông, trồng khoai lang, khoai mỡ, khoai sọ, chuối, mía và gà là loài vật nuôi duy nhất trong gia đình. Khác với hầu hết các đảo khác của người Polynesia, do không có dải san hô ngầm và đầm phá nên trong khẩu phần ăn của cư dân Phục Sinh hầu như không có cá và các loài giáp xác. Chim biển, chim đất liền và cá heo là những động vật mà những cư dân đầu tiên có thể săn bắn được, nhưng chúng ta cũng thấy rằng sau này những loài này suy giảm hay tuyệt chủng rất nhanh. Do vậy khẩu phần ăn của họ có lượng carbonhydrate cao, cộng với tình trạng khan hiếm nước ngọt buộc họ phải uống nhiều nước mía để thay thế. Sẽ không một nha sĩ nào ngạc nhiên khi biết rằng tỷ lệ cư dân trên đảo mắc sâu răng cao nhất trong số những dân tộc thời tiền sử. Đa số trẻ em bị sâu răng ở tuổi 14, và hầu như tất cả mọi người đều bị sâu răng năm 20 tuổi.

Dân số của Phục Sinh ở thời điểm đông nhất được tính bằng những phương pháp như đếm số nền nhà, giả thiết mỗi nhà có từ 5-15 người và một phần ba số nhà đó có người ở. Hoặc dân số được tính bằng cách tính số tù trưởng và những cư dân trong bộ tộc của họ dựa trên số bệ đá hay số tượng đá được dựng lên. Kết quả cho thấy, dân số của Phục Sinh ít nhất là 6.000 người và cao nhất là 30.000 người, với mật độ trung bình từ 90-450 người trên mỗi 2,5 kilômét vuông. Một số khu vực trên đảo như bán đảo Poike và những vùng đất cao nhất không mấy thích hợp cho canh tác thì mật độ dân số sẽ thấp hơn những vùng đất khác, nhưng chênh lệch không nhiều bởi theo những khảo sát khảo cổ cho thấy phần lớn diện tích đất trên đảo đã được sử dụng.

Cũng như những nơi khác trên thế giới, khi các nhà khảo cổ học có những đánh giá trái ngược nhau về mật độ dân số thời tiền sử, thì những người ủng hộ những số liệu thấp hơn luôn coi những số liệu cao hơn là ngớ ngẩn và ngược lại. Theo ý kiến cá nhân tôi, những số liệu cao dường như chính xác hơn, một phần bởi chúng do các nhà khảo cổ học có uy tín tiến hành khảo sát ở đảo Phục Sinh như Claudio Cristino, Patricia Vargas, Edmundo Edwards, Chris Stevenson và Jo Anne Van Tilburg. Ngoài ra, những số liệu trước đó được coi là đáng tin cậy, đánh giá dân số của Phục Sinh khoảng 2.000 người là do các nhà truyền giáo tới đây năm 1864 đưa ra, khi vừa xảy ra dịch bệnh đậu mùa giết chết phần lớn cư dân trên đảo. Trước đó nữa, khoảng 1.500 cư dân bị những thuyền buôn nô lệ Peru bắt cóc trong giai đoạn 1862-1863 và hai đợt dịch bệnh đậu mùa hoành hành trên đảo mà tài liệu còn ghi lại được vào khoảng chừng năm 1836, cùng hàng loạt bệnh dịch khác theo chân những người châu Âu thường xuyên tới viếng thăm kể từ năm 1770 trở đi, cùng một thời kỳ dân số bị suy giảm nghiêm trọng từ những năm 1600 mà chúng ta sẽ thảo luận ở phần sau. Cũng chính con thuyền đã gây ra trận dịch bệnh đậu mùa lần thứ ba ở đảo Phục Sinh tiếp tục tới Marquesa và gây ra dịch bệnh ở đây làm chết 7/8 số dân. Theo tôi, nếu với số dân ban đầu chỉ có 6.000 – 8.000 người thì sau hàng loạt biến cố xảy ra như trên thì số dân trên đảo Phục Sinh sống sót sau đợt dịch bệnh đậu mùa năm 1864 không thể là 2.000 người. Dựa trên những bằng chứng về sự thâm canh nông nghiệp thời tiền sử trên đảo Phục Sinh, tôi thấy các số liệu cao của Claudio và Edmundo cho rằng dân số đảo Phục Sinh phải từ 15.000 người trở lên là không có gì đáng ngạc nhiên.

Bằng chứng về một nền nông nghiệp phát triển mạnh mẽ thể hiện ở một số hình thức. Đầu tiên là những chiếc hố được xếp bằng đá có đường kính từ 1,5 - 3,2 mét và sâu tới 1,2 mét được sử dụng như những chiếc hố ủ phân để trồng cây giống hoặc trồng rau. Một bằng chứng khác là hai chiếc đập bằng đá được dựng chắn qua một con suối nước lúc có lúc không chạy dọc theo sườn đông nam của ngọn Terevaka để nắn dòng nước chảy vào những bệ đá lớn. Hệ thống nắn dòng nước này tương tự như những hệ thống tưới nước cho khoai sọ ở những nơi khác của Polynesia. Thêm một bằng chứng khác về một nền nông nghiệp mạnh mẽ là hàng loạt chuồng gà được dựng bằng đá, (gọi là hare moa), đa số có chiều dài tới 6 mét, cá biệt có những chiếc dài 21 mét, rộng 3 mét và cao 1,8 mét có một cửa chuồng nhỏ sát đất để gà chui ra, chui vào. Chuồng còn có một hàng rào được xếp bằng những viên đá để ngăn những con gà quý giá xổng ra ngoài hay đề phòng trộm cắp. Nếu những bức tượng hay những chiếc bệ đá to hơn không làm lu mờ những chiếc hare moa to lớn này thì chắc hẳn các du khách sẽ coi đảo Phục Sinh là đảo của những chiếc chuồng gà bằng đá. Chúng nổi bật ở những nơi gần bờ biển, bởi ngày nay những chiếc chuồng gà thời tiền sử này - tất cả có 1.233 chiếc - được chú ý hơn cả những ngôi nhà thời tiền sử chỉ còn lại những chiếc nền bằng đá hay những khoảng sân và chẳng còn bức tường bằng đá nào.

Nghiên cứu đá nham thạch, nhà khảo cổ Chris Stevenson đã tìm ra phương pháp phổ biến nhất được áp dụng để tăng sản lượng nông nghiệp. Cư dân đảo Phục Sinh xếp những tảng đá cuội lớn thành những hàng rào chắn gió để bảo vệ cây trồng khỏi bị chết khô do những cơn gió mạnh thường xuyên thổi tới. Những viên đá nhỏ hơn cũng được chồng lên nhau để bảo vệ những mảnh vườn ở trên mặt đất hay ở những chỗ trũng để trồng chuối và để ươm cây giống rồi chuyển đi trồng ở nơi khác sau khi chúng lớn. Có những khu đất rộng được che phủ một phần bằng những tảng đá đặt cách nhau một khoảng ngắn, như vậy có thể trồng cây giữa những tảng đá. Một số khu vực khác được thay đổi bằng phương pháp “phủ một lớp đá”, có nghĩa đổ một lớp đá lên mặt đất dày khoảng 0,3048 mét, hoặc bằng cách bóc lớp đá trồi lên ngay bên cạnh hoặc đào sâu xuống một chút và phá vỡ nền đá bên dưới. Những chỗ lún sụt trồng khoai sọ được xới lên thành những cánh đồng sỏi tự nhiên. Tất cả những hàng rào chắn gió bằng đá và những khu vườn kiểu này đòi hỏi tốn nhiều công sức để xây dựng, bởi cư dân trên đảo phải vận chuyển hàng triệu, thậm chí hàng tỷ viên đá. Như nhà khảo cổ Barry Rolett từng nghiên cứu nhiều vùng lãnh thổ khác của người Polynesia, nói với tôi trong lần đầu tiên cùng nhau tới đảo Phục Sinh: “Tôi chưa từng thấy một hòn đảo nào của người Polynesia mà cư dân lại vất vả tới vậy. Họ xếp những viên đá nhỏ với nhau thành một vòng tròn chỉ để trồng vài cây khoai sọ yếu ớt và bảo vệ chúng trước những cơn gió mạnh! Trên quần đảo Cook, mọi người cũng trồng khoai sọ nhưng họ chẳng bao giờ phải làm như vậy!”.

Thực vậy, tại sao những nông dân đảo Phục Sinh lại phải vất vả tới vậy? Trên những nông trại vùng đông bắc Mỹ, nơi hồi nhỏ tôi đã từng tới đây nghỉ hè, nông dân phải rất vất vả mới chuyển được những tảng đá ra khỏi cánh đồng, và chắc hẳn họ sẽ kinh ngạc khi biết rằng ngày xưa mọi người cố tình chuyển những tảng đá này vào cánh đồng. Vậy tại sao cư dân trên đảo lại mang đá vào ruộng?

Câu trả lời là để đối phó với khí hậu lạnh giá, hanh khô và nhiều gió của Phục Sinh mà tôi đã mô tả. Những khu vườn đá hay hình thức canh tác “phủ một lớp đá” được nông dân ở nhiều nơi khác nhau trên thế giới nghĩ ra và áp dụng như ở sa mạc Negev của Israel, các sa mạc tây nam nước Mỹ, các vùng đất khô cằn của Peru, Trung Quốc, La Mã, và Maori ở New Zealand. Đá giữ độ ẩm cho đất khi được phủ lên trên mặt đất, làm giảm khả năng bay hơi nước do ánh nắng mặt trời và gió gây ra, và thay cho lớp đất mặt khô cứng có thể khiến nước mưa chảy nhanh hơn. Đá làm giảm hiện tượng dao động nhiệt độ trong đất bởi chúng hấp thụ hơi nóng mặt trời vào ban ngày và nhả ra ban đêm. Chúng bảo vệ đất khỏi bị xói mòn khi những hạt mưa rơi xuống làm bắn đất lên. Những viên đá xám trên đất sáng màu hơn sẽ làm đất ấm hơn bởi hấp thụ nhiệt từ mặt trời nhiều hơn và đá còn có vai trò như những nơi tích trữ phân bón và các khoáng chất cần thiết để thấm dần vào đất (giống như một số chúng ta thường uống thuốc vitamin vào bữa sáng). Trong những cuộc thí nghiệm nông nghiệp được tiến hành ở tây nam nước Mỹ để tìm hiểu vì sao những cư dân Anasazi cổ xưa (Chương 4) lại sử dụng phương pháp “rải đá”, hóa ra những viên đá mang lại những lợi ích rất lớn cho nông dân. Những lớp đất được trộn đá làm tăng gấp đôi độ ẩm trong đất, giảm mức nhiệt độ tối đa trong đất vào ban ngày và làm tăng nhiệt độ trong đất vào ban đêm, làm tăng sản lượng cho tất cả 16 loại cây trồng, trung bình gấp khoảng 4 lần, trong đó loại cao nhất sản lượng tăng gấp 50 lần. Đó là những ích lợi cực kỳ to lớn.

Chris Stevenson lý giải những khảo sát của mình là tư liệu giải thích sự phổ biến trong việc sử dụng đá để nâng cao hoạt động sản xuất nông nghiệp ở đảo Phục Sinh. Theo ông, trong khoảng 500 năm đầu tiên người Polynesia sinh sống trên đảo, nông dân vẫn ở những vùng đất thấp, trong phạm vi chỉ vài dặm kể từ bờ biển, để gần các nguồn nước ngọt và thuận tiện cho đánh bắt cá và các loài giáp xác. Bằng chứng đầu tiên mà ông thu thập được cho thấy những khu vườn đá xuất hiện vào khoảng năm 1.300, ở những vùng đất cao nằm sâu bên trong đảo có lượng mưa lớn hơn các khu vực bờ biển nhưng nhiệt độ lạnh hơn (được cư dân trên đảo điều hòa bằng cách dùng những tảng đá xám để tăng nhiệt độ cho đất). Đa phần những vùng đất nằm sâu bên trong đảo bị chuyển thành những khu vườn đá. Có một điều thú vị là dường như bản thân những người nông dân cũng không sống trong những vùng đất này, bởi hiện chỉ có tàn tích của rất ít nhà ở của những thường dân, không có chuồng gà và chỉ có những bếp lò và những đống rác nhỏ. Thay vào đó, chỉ có rải rác vài ngôi nhà “cao cấp”, bằng chứng cho thấy những giới thượng lưu có cả những khu vườn đá lớn với quy mô trồng trọt cũng lớn hơn (không như khu vườn của một gia đình thường dân) để sản xuất ra nhiều lương thực hơn cho những người làm công của các tù trưởng, trong khi tất cả những nông dân vẫn tiếp tục sinh sống ở gần bờ biển và đi về giữa vườn đá và nơi ở tới vài dặm mỗi ngày. Những con đường có chiều rộng 4,5 mét với những vệ đường bằng đá, nối liền những vùng đất cao xa bờ biển với bờ biển, chứng tỏ đây có thể là tuyến đường qua lại hằng ngày. Có thể những vườn cây ở vùng cao xa bờ biển không đòi hỏi phải được chăm sóc quanh năm, nông dân chỉ cần tới thăm và trồng khoai sọ và những loại cây trồng khác trong mùa xuân rồi quay về, cuối năm mới lên thu hoạch.

Cũng như những nơi khác ở Polynesia, xã hội truyền thống của Phục Sinh được chia thành tù trưởng và thường dân. Các nhà khảo cổ học phát hiện có sự khác biệt rõ ràng giữa những tàn tích của hai loại nhà khác nhau. Các tù trưởng và những thành viên của tầng lớp thượng lưu sống trong những căn nhà gọi là hare paenga, có hình một chiếc thuyền dài, nhỏ, lộn ngược, thường có chiều dài khoảng 12 mét, cá biệt có cái dài 94 mét, rộng không quá 3 mét và uốn cong ở phần cuối nhà. Tường và mái nhà (tương ứng với phần lõm của thân xuồng) là ba lớp rạ khô, nhưng nền nhà được xếp bằng những viên đá bazan cắt rất gọn gàng. Đặc biệt là những viên đá được uốn cong và có cạnh xiên lát ở cuối căn nhà rất khó làm, khó cậy lên và khó bị các bộ tộc ăn trộm của nhau. Phía trước nhiều hare paenga là một chiếc sân lát đá. Hare paenga được xây dựng trên một dải bờ biển rộng 182 mét, mỗi xóm có từ 6-10 căn, vùng đất liền tiếp theo khu vực này có những chiếc tượng dựng trên bệ đá. Ngược lại, những căn nhà của thường dân bị tách riêng ra ở những vùng đất sâu hơn trong đất liền, diện tích nhỏ hơn và gắn liền với chiếc chuồng gà, bếp lò, vườn rào bằng đá và một hố rác của mình - những cấu trúc rất thực tế, tách biệt với tapu tôn giáo và khu vực bờ biển có những bệ đá và những căn nhà hare paenga đẹp đẽ.

Cả những truyền thuyết lưu truyền trong cư dân trên đảo và kết quả những cuộc khảo cổ đều cho thấy lãnh thổ Phục Sinh bị chia thành khoảng gần một tá vùng đất (chừng 11-12), mỗi vùng thuộc về một bộ tộc hay một dòng họ, đều bắt đầu từ bờ biển và kéo dài vào trong đất liền, như thể Phục Sinh là một chiếc bánh bị cắt thành 12 miếng. Mỗi vùng đất đều có tù tưởng và những bệ đá để thực hiện các nghi lễ tôn giáo của mình. Các bộ tộc cạnh tranh với nhau một cách hòa bình bằng cách cố xây dựng những bệ đá và tượng đá cao to hơn bộ tộc khác, nhưng cuối cùng cuộc cạnh tranh hòa bình cũng biến thành những cuộc giao tranh khốc liệt. Sự phân chia lãnh thổ thành những vùng đất bé nhỏ cũng phổ biến với những đảo của người Polynesia trên Thái Bình Dương. Có một điều bất thường trên lãnh thổ của Phục Sinh đó là, một lần nữa lại căn cứ vào cả những truyền thuyết dân gian và những kết quả khảo cổ, mặc dù có sự cạnh tranh lãnh thổ nhưng giữa các bộ tộc có sự thống nhất về mặt tôn giáo, và cả một số lĩnh vực kinh tế và chính trị, đặt dưới sự lãnh đạo của một tù trưởng tối cao. Ngược lại, trên các đảo Mangareva và quần đảo Marquesa lớn hơn, mỗi thung lũng lớn đều thuộc sự cai quản của một thủ lĩnh độc lập và liên tục sa vào những cuộc chiến khốc liệt, kéo dài với những thủ lĩnh khác.

Vậy điều gì có thể lý giải cho sự thống nhất của Phục Sinh, và tại sao nó lại dễ phát hiện về mặt khảo cổ như vậy? Hóa ra chiếc bánh Phục Sinh không phải được chia đều thành 12 miếng như nhau, mà mỗi vùng đất được phân chia đều có những nguồn tài nguyên quý giá khác nhau. Ví dụ rõ ràng nhất là vùng đất Tongariki (gọi là Hotu Iti), nơi có miệng núi lửa Rano Raraku và là nơi duy nhất trên đảo có loại đá tốt nhất để tạc tượng và có rêu dùng để trám xuồng. Tất cả những trụ đá màu đỏ trên đầu một số tượng đều có nguồn gốc từ mỏ đá Puna Pau của vùng đất Hanga Poukura. Hai vùng đất Vinapu và Tongariki có loại đá bazan tốt nhất để dựng những ngôi nhà hare paenga. Anakena ở bờ biển phía Bắc có hai bãi biển tốt nhất làm bến đậu cho những chiếc thuyền ra khơi, trong khi vùng đất láng giềng Heki cũng ở trên cùng bờ biển thì sở hữu bãi biển tốt thứ ba. Kết quả là những mẫu vật dùng trong đánh bắt cá được tìm thấy chủ yếu ở các bờ biển. Nhưng những vùng đất bờ biển phía Bắc này cũng là nơi có đất canh tác chất lượng xấu nhất, những mảnh đất canh tác tốt nhất nằm ở bờ biển phía nam và phía tây. Chỉ có 5 trong số 12 vùng là có đất kéo sâu vào vùng cao bên trong đất liền dùng để trồng cây với những khu vườn đá. Chim biển chỉ làm tổ trên một vài hòn đảo ngoài biển, dọc theo bờ biển phía nam, nhất là trong vùng đất Vinapu. Những nguồn tài nguyên khác như gỗ, san hô để làm giũa, đất đỏ và cây dướng (vỏ cây có thể giã ra làm thành vải tapa) cũng được phân phối không đều.

Những bằng chứng khảo cổ học rõ ràng nhất về một số mức độ thống nhất trên lãnh thổ của các bộ tộc là những tượng đá và những trụ đá màu đỏ của nó, được làm từ những mỏ đá trên vùng đất của hai bộ tộc Tongariki và Hanga Poukura, tất cả đều được dựng lên trên những bệ đá tại 11 hoặc 12 vùng đất phân bố trên toàn đảo. Bởi vậy, những con đường dùng để vận chuyển tượng và những chiếc vương miện ra khỏi những mỏ đá trên đảo cũng phải đi qua nhiều vùng lãnh thổ, và một bộ tộc sống xa các mỏ đá cũng phải được một số bộ tộc khác cho phép vận chuyển tượng và những trụ đá qua lãnh thổ của họ. Đá vỏ chai, loại đá bazan tốt nhất, cá và những loại tài nguyên bản địa khác tương tự được phân bố trên khắp đảo Phục Sinh. Ban đầu, dường như đối với con người hiện đại chúng ta, những người sống trong những nước có sự thống nhất chính trị cao như Mỹ thì việc vận chuyển tài nguyên là một việc tự nhiên. Chúng ta được mặc nhiên thường xuyên vận chuyển tài nguyên từ một bờ biển ở rất xa tới những bờ biển khác, đi qua nhiều quận hay nhiều tỉnh. Nhưng chúng ta quên mất rằng trong suốt lịch sử, việc đàm phán để một bộ tộc được tiếp cận nguồn tài nguyên của một bộ tộc khác phức tạp như thế nào. Một lý giải tại sao Phục Sinh lại trở thành một đảo thống nhất, trong khi những đảo của Marquesa lớn hơn lại không bao giờ thống nhất, chính là địa hình thoai thoải của Phục Sinh, trái ngược với những thung lũng của Marquesa với những sườn dựng đứng nên những bộ tộc ở thung lũng lân cận chỉ có thể liên lạc (hoặc xâm lược) nhau chủ yếu bằng đường biển chứ không phải là đường bộ.

Giờ chúng ta sẽ quay trở lại với đề tài mà khi nói tới đảo Phục Sinh mọi người nghĩ ngay tới nó, đó là: những tượng đá khổng lồ (gọi là moai) và những bệ đá của tượng (gọi là ahu). Tới nay khoảng 300 ahu đã được xác định, trong đó có rất nhiều ahu nhỏ hoặc không có moai, nhưng khoảng 113 chiếc có moai, và có 25 chiếc đặc biệt to, cao. Mỗi vùng đất trên đảo đều có ít nhất 1-5 ahu loại lớn này. Đa số ahu có tượng đều nằm trên các bờ biển, cả ahu và tượng đều quay mặt vào trong đất liền, hướng về vùng đất của bộ tộc chứ không nhìn ra biển.

Ahu là bệ đá hình chữ nhật, không phải làm từ những tảng đá nguyên khối, mà là một khu đất được xây tường bốn xung quanh bằng những tảng đá bazan xám, sau đó được đổ đầy đá cuội. Một số bức tường kiểu này, nhất là những bệ đá ở Ahu Vinapu, được ghép bằng những phiến đá vừa khít, rất đẹp gợi nhớ tới kiến trúc của người Inca và khiến nhà thám hiểm người Na Uy Thor Heyerdahl cho rằng có mối liên hệ giữa Phục Sinh với Nam Mỹ. Tuy nhiên, những bức tường của ahu trên đảo Phục Sinh chỉ có mặt đá, chứ không phải đá nguyên khối như tường của người Inca. Nhưng có phiến đá nặng tới 10 tấn, rất ấn tượng với chúng ta nhưng vẫn chưa bằng những tảng đá nặng tới 361 tấn trong những pháo đài Sacsahuama của người Inca. Những ahu cao tới 4 mét và nhiều chiếc được mở rộng ra hai bên với chiều rộng lên tới 152 mét. Bởi vậy các ahu nhỏ cũng nặng 300 tấn, lớn thì lên tới hơn 9.000 tấn như Ahu Tongariki khiến những tượng trên bệ trông như nhỏ lại. Chúng ta sẽ trở lại tầm quan trọng của vấn đề này khi đánh giá công sức trong việc xây dựng ahu và moai của Phục Sinh.

Tường chắn phía sau của ahu (hướng ra biển) gần như thẳng đứng, nhưng tường phía trước dốc xuống một quảng trường bằng phẳng hình chữ nhật, rộng khoảng 50 mét mỗi bên. Đằng sau ahu là nơi hỏa táng người chết, hiện vẫn còn tàn tích của hàng ngàn thi thể. Phục Sinh là nơi duy nhất trong cộng đồng Polynesia tiến hành hỏa táng mà không địa táng như những nơi khác. Ngày nay, những chiếc ahu có màu xám xịt, nhưng ban đầu chúng có màu sắc sặc sỡ với các màu trắng, vàng và đỏ. Những mặt đá được khảm san hô trắng, đá của những moai mới tạc có màu vàng, vương miện của moai và dải chạy ngang mặt tường phía trước của một số ahu là màu đỏ.

Tượng moai thể hiện những tổ tiên của tầng lớp thượng lưu, nhà khảo cổ học Jo Anne Van Tilburg đã tìm ra tổng số 887 tượng, gần một nửa số đó vẫn còn nằm ở mỏ đá Rano Raraku, trong khi số tượng được chuyển ra ngoài thì đã được dựng lên các ahu gần hết (mỗi ahu có khoảng từ 1-15 tượng). Tất cả số tượng trên các ahu đều được tạc từ đá nham thạch của Rano Raraku, nhưng cũng có một số tượng (khoảng 53 tượng) được chế tác từ những loại đá núi lửa khác có trên đảo (thường là đá bazan, đá xỉ núi lửa màu đỏ, màu xám và đá trachit). Những tượng đã được dựng lên trung bình có chiều cao 4 mét, nặng 10 tấn. Tượng cao nhất được dựng lên tên là Paro cao 10 mét nhưng trông mỏng manh, “chỉ” nặng khoảng 75 tấn. Một tượng khác ở Ahu Tongariki thấp hơn tượng Paro một chút nhưng nặng 87 tấn nên trông nó to hơn và nhà khảo cổ Claudio Cristino đã rất vất vả khi dùng cẩu để dựng lại tượng này. Cư dân trên đảo đã chuyển được một tượng cao hơn tượng Paro vài centimet tới nơi dự kiến dựng tượng ở Ahu Hanga Te Tenga, nhưng không may bức tượng bị đổ khi đang dựng lên. Mỏ đá Rano Raraku hiện vẫn còn những tượng chưa hoàn thiện to hơn, trong đó có một tượng dài 21 mét và nặng khoảng 270 tấn. Với những gì chúng ta biết về trình độ công nghệ của đảo Phục Sinh thì dường như cư dân trên đảo không thể vận chuyển và dựng được những tượng đá khổng lồ này, và không biết chứng hoang tưởng tự đại nào đã thúc đẩy những người thợ điêu khắc làm nên những tượng đá đó.

Với những người ủng hộ giả thuyết người ngoài hành tinh như Erich von Däniken và một số người khác, thì những bệ và tượng đá trên đảo Phục Sinh dường như độc nhất vô nhị và cần một sự giải thích đặc biệt. Thực tế, có nhiều bệ đá được xây dựng trước ở Polynesia, nhất là ở phía đông Polynesia. Những bệ đá này gọi là marae, được sử dụng như những lăng mộ và thường dùng làm nền móng để xây dựng những đền thờ, xuất hiện khá nhiều; trước đó từng có ba bệ đá xuất hiện trên đảo Pitcairn, có thể đây là điểm xuất phát để những thổ dân thám hiểm đảo Phục Sinh. Điểm khác biệt cơ bản giữa ahu của Phục Sinh với marae ở đông Polynesia là ahu lớn hơn và không làm nền móng để xây dựng đền thờ. Các đảo Marquesa và Austral có những tượng đá lớn; đảo Marquesa, Austral và Pitcairn đều có những tượng tạc từ đá xỉ núi lửa màu đỏ, tương tự như chất liệu dùng cho một số tượng trên đảo Phục Sinh, trong khi một số loại đá núi lửa khác (giống như đá tuff của núi lửa Rano Raraku) cũng được sử dụng ở Marquesa. Các đảo Mangareva và Tonga có những kiến trúc đá khác, trong đó Tonga có một trilithon nổi tiếng (kiến trúc gồm hai tảng đá dựng đứng đỡ một tảng đá nằm ngang, mỗi tảng đá nặng chừng 40 tấn), và còn có những tượng gỗ trên đảo Tahiti và những nơi khác. Bởi vậy, các tác phẩm kiến trúc của Phục Sinh phát triển trên cơ sở truyền thống sẵn có của người Polynesia.

Tất nhiên, chúng ta muốn biết chính xác cư dân đảo Phục Sinh dựng bức tượng đầu tiên vào thời điểm nào, kiểu cách và kích thước thay đổi như thế nào theo thời gian. Rất tiếc là bởi tượng đá không thể tính niên đại bằng kỹ thuật các bon phóng xạ, nên chúng ta buộc phải dựa trên những phương pháp xác định niên đại gián tiếp, như xác định niên đại của than củi tìm thấy ở ahu bằng kỹ thuật các bon phóng xạ, một phương pháp khác là xác định niên đại bằng kỹ thuật hydrat hóa opxidian đối với những đá vỏ chai (hay còn gọi