← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 3 SỐ PHẬN NHỮNG CƯ DÂN CUỐI CÙNG TRÊN ĐẢO PITCAIRN VÀ HENDERSON

Pitcairn trước khi người châu Âu tìm ra - Ba đảo khác nhau - Giao thương - Kết cục của cuốn phim.

Nhiều thế kỷ trước, những người di cư tìm ra một vùng đất phì nhiêu tràn đầy tài nguyên thiên nhiên vô tận. Mặc dù vùng này thiếu một vài loại vật liệu thô hữu ích để chế tạo công cụ sản xuất, nhưng lại có thể dễ dàng mua lại qua giao thương đường biển từ những vùng đất khác nghèo hơn có những mỏ vật liệu này. Đã có lúc, tất cả những vùng đất đều phát triển phồn vinh và dân số tăng lên gấp nhiều lần.

Nhưng cuối cùng dân số của vùng đất giàu có đã tăng tới mức vượt quá khả năng mà các nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú có thể cấp dưỡng. Những khu rừng bị chặt hạ và đất đai bị xói mòn, hoa lợi không còn dư thừa để xuất khẩu, tích trữ, thậm chí chỉ đủ nuôi dưỡng chính người dân của vùng đất đó. Giao thương suy giảm, vật liệu thô nhập khẩu ngày càng thiếu. Nội chiến lan tràn do những thể chế chính trị liên tiếp bị những thủ lĩnh quân sự địa phương lật đổ. Những người dân ốm đói của vùng đất giàu có sống sót bằng cách suy thoái thành những kẻ ăn thịt người. Những đối tác giao thương trước kia của họ còn phải chịu kết cục bi thảm hơn: bị mất đi nguồn sản phẩm nhập khẩu từng phụ thuộc, họ quay ra bóc lột môi trường của chính mình cho tới khi không còn ai sống sót.

Liệu kịch bản bi thảm này có phải là tương lai đang đón chờ nước Mỹ và những đối tác thương mại của chúng ta không? Chúng tôi không chắc, nhưng đó là thực tế đã xảy ra đối với ba hòn đảo nhiệt đới ở Thái Bình Dương. Một trong số đó là đảo Pitcairn, hoang đảo nổi tiếng mà những thủy thủ nổi loạn trên chiếc thuyền H.M.S Bounty đã trốn tới đây vào năm 1790. Họ chọn Pitcairn bởi thời điểm đó đây là hòn đảo xa xôi nhất, không có người sinh sống và là nơi lý tưởng trốn tránh sự trả thù của hải quân Anh đang lùng sục họ. Nhưng khi đặt chân lên đảo, những người nổi loạn đã tìm thấy những nền đền thờ, những tượng đá và những công cụ bằng đá là bằng chứng câm lặng chứng tỏ Pitcairn từng là nơi sinh sống của người Polynesia cổ đại. Phía đông Pitcairn còn có một hòn đảo khác xa hơn nhiều tên là Henderson, hiện vẫn là đảo hoang. Thậm chí giờ Pitcairn và Henderson vẫn thuộc số những hòn đảo khó đặt chân tới nhất thế giới, không có tuyến đường không hay đường thủy nào tới đây và chỉ có thể thi thoảng ghé thăm bằng thuyền buồm hay tàu thủy. Nhưng Henderson cũng chứa đựng nhiều dấu ấn của một cộng đồng dân cư Polynesia cổ. Điều gì đã xảy ra với những cư dân Pitcairn cổ đại này và những người anh em trên đảo Henderson?

Sự lãng mạn và bí ẩn của những kẻ nổi loạn trên thuyền H.M.S Bounty khi lẩn trốn trên đảo Pitcairn đã được kể lại trong nhiều cuốn sách và nhiều bộ phim, hợp với những kết thúc bí ẩn trước đó của hai dân tộc này. Cuối cùng những cuộc khai quật gần đây của nhà khảo cổ Marshall Weisler, thuộc Đại học Otago, New Zealand cũng buộc những thông tin cơ bản về hai dân tộc này phải lộ diện. Ông đã một mình ở lại trên hai hòn đảo xa xôi, đơn độc này trong suốt thời gian tám tháng. Ông chứng minh số phận những cư dân đầu tiên trên đảo Pitcairn và Henderson có liên hệ với một thảm họa môi trường diễn ra từ từ trên một đảo khác phồn thịnh hơn nhiều, cách xa hàng trăm kilômét và là một đối tác giao thương quan trọng. Đó là đảo Mangareva với dân số tồn tại trong điều kiện sống ngày càng suy giảm nghiêm trọng. Bởi vậy, nếu đảo Phục Sinh là một minh chứng rõ ràng nhất về một xã hội sụp đổ chủ yếu do những tác động môi trường của con người, và ảnh hưởng từ những yếu tố khác rất ít thì hai đảo Pitcairn và Henderson lại minh họa rõ ràng về sự sụp đổ của hai xã hội do môi trường của một đối tác giao thương bị tổn hại. Nó như một lời cảnh báo về những rủi ro hiện đang tăng lên gắn liền với quá trình toàn cầu hóa. Bản thân những tổn hại môi trường trên đảo Pitcairn và Henderson cũng góp phần gây ra sự sụp đổ của những xã hội này, nhưng hiện vẫn chưa có bằng chứng về tác động của hiện tượng thay đổi khí hậu hay từ các xã hội thù địch.

Mangareva, Pitcairn và Henderson là những đảo duy nhất trong khu vực đông nam Polynesia mà con người có thể sinh sống, ngoài ra còn một số đảo san hô thấp khác nhưng chỉ là điểm tạm trú cho một số cư dân hay cho những vị khách trên đường đến ba đảo này chứ không phải là nơi thường trú. Thời điểm con người xuất hiện trên ba đảo này vào khoảng năm 800, như một phần trong quá trình mở rộng về hướng đông của người Polynesia đã được trình bày trong chương trước. Thậm chí Mangareva, ở cực tây của ba đảo và gần những nơi định cư trước đây của người Polynesia nhất, nhưng cũng cách những đảo lớn gần nhất có vị trí cao hơn tới cả hơn ngàn kilômét như quần đảo Society (bao gồm cả Tahiti) ở phía tây và quần đảo Marquesa ở phía tây bắc. Tới lượt hai quần đảo Society và Marquesa, lớn nhất và đông dân nhất ở đông Polynesia, cũng cách những đảo cao gần nhất của tây Polynesia tới hơn một ngàn kilômét về hướng đông và có thể gần 2.000 năm sau khi tây Polynesia bị khuất phục thì con người mới đặt chân lên các đảo này. Bởi vậy, Mangareva và những láng giềng của mình bị cô lập với những đảo bên ngoài, và lại còn nằm trong nửa phía đông xa xôi của Polynesia. Có lẽ chúng được tìm ra trong cùng một đợt thám hiểm xuất phát từ quần đảo Marquesa và Society vươn tới cả những đảo xa hơn như quần đảo Hawaii và đảo Phục Sinh và hoàn tất quá trình định cư của người Polynesia

Trong số ba đảo có thể sinh sống của đông nam Polynesia, đảo có khả năng nuôi dưỡng dân số đông nhất và giàu nguồn tài nguyên thiên nhiên quan trọng với con người là đảo Mangareva. Trên đảo có một chiếc đầm rộng có đường kính 24 kilômét, bao quanh là một dải đá ngầm với hơn hai chục đảo núi lửa đã tắt và một số đảo san hô với tổng diện tích đất liền khoảng 16,09 kilômét vuông. Trong đầm, những dải đá ngầm và vùng biển bên ngoài đầm tràn ngập tôm cá. Trong số những loài giáp xác có loài trai ngọc môi đen đặc biệt có giá trị. Đây là một loại trai ngọc rất to sống trong đầm của người Polynesia với số lượng như vô tận, hiện loài trai này vẫn được sử dụng để cấy những viên ngọc trai đen nổi tiếng. Ngoài ra, thịt của loài trai ngọc này còn có thể dùng làm thực phẩm, vỏ của chúng dày và dài tới 20 xăngtimét là nguyên liệu thô lý tưởng để người Polynesia gọt đẽo thành những chiếc lưỡi câu, làm dao cắt rau quả, làm giũa và đồ trang sức.

Những đảo có vị trí cao hơn chiếc đầm của Mangareva có lượng mưa đủ để tạo thành các nguồn nước và những con suối nước lúc có lúc không, ban đầu còn có cả rừng. Người Polynesia dựng lên những khu dân cư trên dải đất hẹp xung quanh các bờ biển. Trên những sườn núi sau làng, họ trồng các loại hoa màu như khoai lang và khoai mỡ; những sườn núi thoai thoải và bằng phẳng dưới nguồn nước thì họ trồng khoai sọ, được tưới bằng nước suối. Những vùng đất cao hơn được trồng những loại cây ăn quả như chuối và mít bột. Như vậy chỉ riêng trồng trọt, đánh bắt cá và các loài giáp xác đã có thể đủ nuôi sống dân số vài ngàn người trên đảo Mangareva, đông gấp 10 lần dân số của cả Pitcairn và Henderson trong thời kỳ người Polynesia cổ đại.

Theo quan điểm của người Polynesia, trở ngại lớn nhất của Mangareva là không có đá chất lượng cao để làm rìu và các công cụ khác. (Cũng giống như Mỹ có tất cả các loại tài nguyên thiên nhiên quan trọng nhưng lại không có lấy một mỏ quặng sắt chất lượng cao). Những đảo san hô trên đầm Mangareva cũng không có loại đá thô nào tốt, kể cả những đảo núi lửa cũng chỉ có loại đá bazan thớ tương đối to. Loại đá này chỉ có thể dùng để xây nhà và làm hàng rào, làm đá nung, đẽo thành mỏ neo và chày giã thức ăn hay sản xuất những công cụ thô sơ khác như rìu.

May mắn là bất lợi này có thể được bù đắp từ đảo Pitcairn, nhỏ hơn đảo Mangareva nhiều lần (chỉ rộng chừng 4 kilômét vuông) và là đảo núi lửa đã tắt có độ dốc lớn hơn, nằm cách Mangareva 482 kilômét về hướng đông nam. Hãy tưởng tượng xem những cư dân Mangareva trên chiếc thuyền đầu tiên đã sung sướng như thế nào khi phát hiện ra đảo Pitcairn chỉ sau vài ngày bơi thuyền. Họ đặt chân lên bãi biển duy nhất có thể trồng trọt của đảo, leo lên những sườn núi cao và bất chợt phát hiện ra mỏ đá Down Rope, mỏ đá núi lửa duy nhất có thể sử dụng được ở đông nam Polynesia, với những mảnh đá thủy tinh núi lửa có thể cắt những vật cứng, được coi như dao kéo của người Polynesia. Niềm sung sướng của họ lại càng thêm ngây ngất khi chỉ cách đó chưa đầy 1,609 kilômét về phía tây, họ lại phát hiện thêm một mỏ đá bazan mịn thớ, đây là mỏ đá làm rìu lớn nhất đông nam Polynesia.

Ngoài ra, Pitcairn còn có nhiều lợi thế khác so với Mangareva. Nó có những con suối thi thoảng có nước, rừng có những cây gỗ lớn đủ để khoét làm thuyền, nhưng độ dốc cao và diện tích nhỏ có nghĩa là khu vực bằng phẳng để làm nông nghiệp là rất bé. Một hạn chế tương đối lớn là bờ biển của Pitcairn không có đá ngầm nên đáy biển xung quanh rất sâu khiến việc đánh bắt cá và tìm kiếm các loài giáp xác khó khăn hơn nhiều so với Mangareva. Đặc biệt, Pitcairn không có loài trai ngọc môi đen hữu ích cung cấp thực phẩm và chế tạo công cụ. Bởi vậy, tổng số dân của Pitcairn trong thời đại của người Polynesia có thể chỉ khoảng hơn 100 người. Hiện trên đảo Pitcairn chỉ còn 52 người, gồm cả lớp hậu duệ của những kẻ nổi loạn trong vụ cướp thuyền Bounty và những người Ponelysia. Từ 27 người đầu tiên năm 1790 tăng lên 194 người vào năm 1856, số dân này đã vượt quá khả năng cung cấp lương thực của nền nông nghiệp Pitcairn khiến Chính phủ Anh phải di cư phần lớn dân số sang đảo Norfolk xa xôi.

Đảo còn lại ở đông nam Polynesia có thể sinh sống được là đảo Henderson, có diện tích lớn nhất (chừng 22,5 kilômét vuông) nhưng cũng là đảo xa xôi nhất (cách Pitcairn 160,9 kilômét về phía đông bắc và cách Mangareva 643 kilômét về phía đông), đây cũng là đảo có nhiều điều kiện bất lợi nhất cho cuộc sống con người. Không giống như Mangareva hay Pitcairn, Henderson không có núi lửa nhưng có một dải đá ngầm mà quá trình địa chất đã đẩy nó lên tới 30,48 mét trên mực nước biển. Bởi vậy, Henderson không có đá bazan hay các loại đá khác có thể chế tạo công cụ sản xuất và cũng không có những người biết chế tạo công cụ bằng đá. Ngoài ra, nó cũng rất bất lợi cho cuộc sống con người bởi Henderson không có suối hay một nguồn nước ngọt chắc chắn nào, khắp đảo chỉ có đá vôi xốp. Vài ngày sau những cơn mưa bất ngờ, nguồn nước tốt nhất vẫn chỉ là những giọt nước nhỏ xuống từ vòm các hang động và những vũng nước nhỏ còn sót lại trên mặt đất. Ngoài ra cũng còn một nguồn nước ngọt phun lên từ đáy biển, cách bờ biển khoảng 6 mét. Trong những tháng nhà khảo cổ Marshall Weisler ở trên đảo Henderson, nước uống của ông là nước mưa hứng vào vải bạt, còn phần lớn nấu nướng và tắm giặt ông đều phải dùng nước mặn.

Thậm chí ngay cả đất trên đảo Henderson cũng chỉ có trong những kẽ nhỏ giữa những tảng đá vôi. Cây cao nhất trên đảo cũng chỉ tới 15,24 mét và không đủ to để khoét làm thuyền. Khu rừng còi cọc với những bụi cây thấp dày tới mức phải dùng dao rựa để phát đường. Các bãi biển của Henderson cũng nhỏ và chỉ giới hạn ở vùng cực bắc của đảo; bờ biển phía nam chỉ toàn những vách đá thẳng đứng khiến tàu thuyền không thể cập vào đây; và vùng cực nam của hòn đảo chỉ toàn những khe và dãy sống đá vôi sắc như dao cạo. Những đoàn thám hiểm châu Âu đã ba lần đặt chân tới cực nam của hòn đảo, trong đó có nhóm của Marshall Weisler. Mặc dù đã dùng giày leo núi, nhưng Marshall Weisler phải mất tới 5 tiếng đồng hồ mới đi hết quãng đường từ bờ biển phía bắc sang bờ biển phía nam chỉ dài khoảng năm dặm (8 kilômét), ngay lập tức ông phát hiện ở đó một hang đá trước đây những người Polynesia chân trần từng sinh sống.

Bù lại những bất lợi đáng sợ này, Henderson có một số thuận lợi hấp dẫn. Những loài thủy sản như tôm hùm, cua, mực, một số loài cá và loài giáp xác khác sinh sống trong dãy đá ngầm và những vùng nước nông cạnh đảo, đáng tiếc là không có loài trai ngọc môi đen. Henderson là đảo duy nhất của vùng đông nam Polynesia có bãi biển để giống rùa xanh lên đẻ trứng trong khoảng thời gian từ tháng Một tới tháng Ba hằng năm. Henderson trước đây từng là nơi sinh sản của 17 loài chim biển, trong đó có những đàn hải âu đông tới hàng triệu con, cả chim to và chim nhỏ đều rất dễ bị bắt ngay từ trong tổ. Số chim này đủ để nuôi sống số dân khoảng 100 người, hằng ngày mỗi người ăn một con trong suốt cả năm cũng không gây ảnh hưởng tới sự tồn tại của những đàn hải âu này. Đảo cũng là nơi cư trú của chín loài chim đất liền khác, trong đó có năm loài không bay được hoặc bay rất kém nên rất dễ bị bắt, có ba loài chim cu lớn được coi là đặc sản.

Tất cả những đặc điểm trên chắc hẳn sẽ biến Henderson thành một nơi tuyệt diệu để nghỉ ngơi cuối tuần trên bờ biển, hay những kỳ nghỉ ngắn để thoải mái thưởng thức những loại hải sản, thịt chim và thịt rùa nhưng sẽ là nơi nguy hiểm và khó trồng trọt nếu có ý định sinh sống lâu dài ở đây. Tuy nhiên, những cuộc khai quật của Weisler khiến những ai từng tới hoặc từng nghe về đảo Henderson phải kinh ngạc bởi có bằng chứng cho thấy đảo này từng là nơi thường trú của một nhóm nhỏ cư dân khoảng vài chục người, chắc hẳn đã phải rất nỗ lực để sinh tồn trên đảo. Bằng chứng về sự hiện diện của họ là 98 chiếc xương và răng của ít nhất là 10 người lớn (cả phụ nữ và nam giới, một số người có độ tuổi trên 40), 6 thiếu niên (cả trai và gái) và 4 trẻ em từ 5-10 tuổi. Xương của trẻ em chứng tỏ đây là nhóm dân cư trú thường xuyên trên đảo bởi ngay cả những cư dân hiện đang sống trên đảo Pitcairn cũng không mang theo trẻ em mỗi khi sang đảo Henderson để kiếm củi hay đánh bắt hải sản.

Một bằng chứng khác về sự sinh hoạt của con người trên đảo là vết tích của một đống rác lớn bị chôn vùi dưới đất, đây là một trong những đống rác lớn nhất khu vực đông nam Polynesia dài 274 mét và rộng 27,4 mét, trải dài dọc theo bãi biển phía bắc đối diện với tuyến hàng hải duy nhất đi qua dải đá ngầm của Henderson. Trong đống rác, mà bao nhiêu thế hệ cư dân trên đảo bỏ lại, trong một cuộc khai quật nho nhỏ mà Weisler và các đồng nghiệp thực hiện, họ đã xác định lượng lớn xương cá (14.751 chiếc xương cá chỉ trong 0,6 mét khối cát được kiểm tra), cộng với 42.213 chiếc xương chim, trong đó có hàng chục ngàn xương chim biển (nhiều nhất là hải âu, én biển và các loài chim biển nhiệt đới) và hàng ngàn xương chim đất liền (đặc biệt là loài chim cu không biết bay, gà nước và chim dẽ cát). Ngoại suy từ số xương trong cuộc khai quật nhỏ của Weisler với số xương trong cả bãi rác, có thể tính toán rằng cư dân trên đảo Henderson chắc đã ăn hàng chục triệu con chim, con cá trong hàng thế kỷ. Niên đại lâu nhất xác định bằng kỹ thuật các bon phóng xạ có liên quan tới con người trên đảo Henderson là từ bãi rác này, niên đại lâu thứ hai là từ bờ biển phía đông bắc nơi những con rùa lên đẻ trứng, có nghĩa rằng cư dân trên đảo định cư đầu tiên ở những khu vực họ có thể dễ dàng tìm kiếm thực phẩm từ thiên nhiên hoang dã.

Con người có thể sống ở đâu trên một hòn đảo chẳng có gì ngoài những dải san hô trồi lên với những cây con? Trong số những đảo có thể sinh sống hoặc trước đây người Polynesia từng sinh sống, Henderson là đảo duy nhất hầu như hoàn toàn không có bằng chứng nào của các công trình xây dựng như nhà cửa hay đền đài. Chỉ có ba dấu hiệu nho nhỏ về xây dựng là một sàn lát đá và những lỗ cắm cọc trong một bãi rác chứng tỏ đây có thể là nền của một căn nhà hay một nơi trú ngụ; một bức tường nhỏ, thấp để chắn gió; và một vài phiến đá để xây hầm mộ. Thay vào đó, hẩu như tất cả những hang động gần bờ biển, có nền bằng phẳng và cửa hang đủ để ra vào, cho dù chỉ là những hốc đá nhỏ rộng 2,7 mét và sâu 1,8 mét khó đủ chỗ tránh nắng cho vài người, cũng có những mẫu vật chứng tỏ con người từng sinh sống ở đây. Nhà khảo cổ Weisler đã tìm thấy 18 nơi trú ngụ kiểu này, trong đó có 15 chiếc được tận dụng ở các bờ biển phía bắc, đông bắc và tây bắc. Ba chiếc còn lại (tất cả đều rất hẹp) nằm trên các vách đá phía đông và phía nam. Bởi Henderson rất nhỏ nên Weisler có thể khảo sát hầu như toàn bộ bờ biển, 18 hang động trú ngụ và một hang ở bãi biển phía bắc có thể là toàn bộ những nơi cư ngụ của cư dân đảo Henderson.

Than củi, những đống đá vụn và những mảnh đất canh tác trước kia cho thấy khu vực đông bắc của hòn đảo đã từng bị đốt trụi và cư dân trên đảo đã phải rất vất vả để chuyển thành những mảnh vườn có thể trồng hoa màu trong những bao đất tự nhiên, được mở rộng ra bằng cách đổ đất lên mặt đá thành những đống nhỏ. Trong số các loại hoa màu và các loại cây được người Polynesia di cư cố tình mang lên đảo, xuất hiện ở các khu vực khảo cổ trên đảo hoặc hiện vẫn còn mọc hoang dại ở Henderson là lạc, chuối, khoai đầm lầy, có thể là giống khoai nước, một số loại cây lấy gỗ, cây quả lai, một loại cây có hạt bóc ra đốt lên làm đèn, cây dâm bụt lấy sợi để làm dây chão và cây bụi ti. Rễ của loài cây bụi Ti có vị ngọt thường được dùng như một loại lương thực tức thời, mọc trên khắp lãnh thổ của Polynesia nhưng có bằng chứng cho thấy, trên đảo Henderson loài cây này được sử dụng như loại rau chủ yếu của cư dân. Lá cây Ti có thể sử dụng để làm quần áo, lợp mái nhà và gói thức ăn. Tất cả những loại hoa màu này đều có vị ngọt và tinh bột khiến cho khẩu phần ăn của cư dân trên đảo có lượng carbonhydrate cao. Điều này có thể lý giải vì sao răng và xương hàm của cư dân trên đảo Henderson mà nhà khảo cổ Weisler tìm thấy lại mang những dấu hiệu của các bệnh răng miệng khiến răng bị hỏng hoặc tổn hại tới mức ngay cả các nha sĩ hiện nay cũng phải sợ hãi. Hầu hết nguồn đạm của cư dân trên đảo đều từ các loài chim hoang dã và các loài hải sản, nhưng vài chiếc xương lợn được tìm thấy chứng tỏ họ từng nuôi lợn, có thể không thường xuyên.

Bởi vậy, khu vực đông nam Polynesia chỉ có vài hòn đảo con người có thể sinh sống. Mangareva, đảo có khả năng nuôi dưỡng số dân đông nhất, có thể tự túc phần lớn những thứ cần thiết cho cuộc sống của người Polynesia, trừ loại đá chất lượng cao. Còn hai đảo khác, đảo Pitcairn thì diện tích quá nhỏ, đảo Henderson thì quá nhiều bất lợi về hệ sinh thái. Cả hai đảo chỉ có khả năng nuôi dưỡng một số nhỏ dân cư mà không thể hình thành một xã hội có thể tồn tại trong thời gian dài. Cả hai đều thiếu những nguồn tài nguyên quan trọng - Henderson thì thiếu nhiều tới mức ngay cả những con người hiện đại chúng ta cũng không nghĩ tới việc tới đây nghỉ cuối tuần, nếu không mang theo những hòm xiểng lỉnh kỉnh chứa đầy dụng cụ, nước ngọt, các loại thực phẩm không phải là hải sản và chắc hẳn sẽ khó tin rằng người Polynesia cổ đại từng sinh sống trên đảo này. Cả Pitcairn và Henderson đều có những tài nguyên hấp dẫn người Polynesia: Pitcairn có đá chất lượng cao và Henderson đầy hải sản và các loài chim.

Những cuộc khai quật khảo cổ của Weisler thu được nhiều bằng chứng cho thấy có sự giao thương giữa ba hòn đảo, bởi những sản phẩm trên đảo này thiếu thì lại tràn trề trên đảo khác. Những sản phẩm được mang ra trao đổi, mặc dù không có các bon hữu cơ để có thể áp dụng kỹ thuật xác định niên đại bằng các bon phóng xạ (như những viên đá), vẫn có thể được xác định niên đại gián tiếp thông qua đo lượng các bon phóng xạ có trong than củi được khai quật từ cùng một tầng khảo cổ. Bằng cách này, Weisler xác định rằng việc trao đổi hàng hóa được áp dụng ít nhất là vào năm 100, có thể diễn ra cùng thời điểm những cư dân đầu tiên định cư trên các hòn đảo này, và kéo dài hàng thế kỷ. Một lượng lớn các mẫu vật được Weisler khai quật tại nhiều điểm trên đảo Henderson có thể xác định ngay đó là sản phẩm nhập khẩu, bởi chúng được tạo ra từ những vật liệu không có trên đảo Henderson: như lưỡi câu và các dụng cụ cắt rau quả làm từ vỏ sò, các dụng cụ cắt khác sắc hơn làm từ thủy tinh núi lửa, những chiếc rìu và đá nung làm từ đá bazan.

Vậy những sản phẩm này nhập khẩu từ đâu? Có thể phỏng đoán rằng lưỡi câu làm từ vỏ sò được nhập từ đảo Mangareva, bởi đảo này có rất nhiều sò nhưng đảo Pitcairn và Henderson lại không có, những đảo khác có sò lại cách rất xa hai đảo này so với Mangareva. Một vài mẫu vật khác làm từ vỏ sò cũng được tìm thấy trên đảo Pitcairn và có thể cũng được nhập khẩu từ Mangareva. Nhưng những mẫu vật làm từ đá núi lửa tìm thấy trên đảo Henderson thì khó xác định nguồn gốc hơn nhiều, bởi cả đảo Mangareva và Pitcairn, cũng như nhiều đảo xa xôi khác của người Polynesia đều có các tài nguyên núi lửa.

Bởi vậy, nhà khảo cổ Weisler đã phát triển hay áp dụng những kỹ thuật phân biệt đá núi lửa từ những nguồn khác nhau. Núi lửa phun ra nhiều loại dung nham khác nhau, trong đó bazan (loại đá có nhiều trên đảo Mangareva và Pitcairn) được xác định bằng các thành phần hóa học và màu sắc của nó. Đá bazan của những đảo khác nhau, thậm chí từ những mỏ đá khác nhau trên cùng một đảo, cũng có những chi tiết mịn hơn trong thành phần hóa học, như hàm lượng các nguyên tố chủ yếu (như silicon và aluminum) và những nguyên tố thứ yếu (như niobi và ziriconi). Một chi tiết giúp phân biệt chất lượng của từng loại đá là nguyên tố chì xuất hiện tự nhiên như một số chất đồng vị (ví dụ, một số loại hơi khác nhau về trọng lượng nguyên tử), có những tỷ lệ khác nhau giữa các loại đá bazan. Với một nhà địa chất, tất cả những chi tiết về thành phần có tác dụng như “dấu vân tay” cho phép xác định một công cụ làm từ bằng đá của một đảo hay một mỏ đá cụ thể nào.

Weisler phân tích thành phần hóa học và, cùng với một đồng nghiệp, tiến hành phân tích tỷ lệ đồng vị chì trong hàng chục công cụ bằng đá và những mảnh đá vỡ (có thể bị vỡ trong quá trình chế tạo hoặc sửa chữa những công cụ bằng đá) mà ông khai quật từ những tầng địa chất đã xác định niên đại trên đảo Henderson. Để so sánh, ông phân tích thành phần của những loại đá núi lửa từ những mỏ đá và đá trồi lên mặt đất trên đảo Mangareva và Pitcairn, và thấy rằng dường như đa phần đá trên đảo Henderson đều nhập khẩu. Để chắc chắn, ông còn phân tích đá núi lửa từ những đảo của người Polynesia ở cách xa hơn nhiều như các đảo Hawaii, Phục Sinh, Marquesa, Society và Samoa ít có khả năng nhập khẩu vào Henderson.

Kết luận từ những phân tích này rất rõ ràng. Tất cả những mảnh đá thủy tinh núi lửa tìm thấy trên đảo Henderson đã được phân tích đều có nguồn gốc từ mỏ đá Down Rope trên đảo Pitcairn. Bằng thị giác cũng có thể đưa ra kết luận này trước khi tiến hành các phân tích hóa học, bởi đá thủy tinh núi lửa của Pitcairn có những vết đốm màu đen và xám độc đáo. Phần lớn những chiếc rìu của Henderson đều làm bằng đá bazan, đa phần có nguồn gốc từ đảo Pitcairn và một số có nguồn gốc từ đảo Mangareva. Ngay trên đảo Mangareva, mặc dù số lượt tìm kiếm mẫu vật bằng đá ít hơn nhiều so với đảo Henderson, cũng có một số rìu được làm từ đá bazan nhập khẩu của Pitcairn có thể bởi đá của Pitcairn có chất lượng cao hơn so với đá bazan của Mangareva. Ngược lại, những mẩu đá bazan xốp được khai quật trên đảo Henderson đa phần nhập khẩu từ Mangareva, nhưng cũng có một số ít có nguồn gốc từ Pitcairn. Loại đá này từng được sử dụng thường xuyên làm đá nung trên khắp lãnh thổ của người Polynesia, bị nung nóng trong lửa để làm chín thức ăn, rất giống như những cục than củi được sử dụng để nướng thịt hiện nay. Rất nhiều viên đá nung kiểu này được tìm thấy trong những hốc bếp trên đảo Henderson và những dấu hiệu cho thấy chúng từng bị nung nóng khẳng định chức năng của chúng.

Tóm lại, những kết quả khảo cổ học cho thấy hoạt động giao thương, trao đổi các loại nguyên liệu thô và có thể cả những thành phẩm từng rất phát triển: như vỏ sò từ Mangareva sang Pitcairn và Henderson; đá thủy tinh núi lửa từ Pitcairn sang Henderson; đá bazan từ Pitcairn sang Mangareva và Henderson, và từ Mangareva sang Henderson. Ngoài ra, lợn và chuối, khoai mỡ và những loại hoa màu chính khác của người Polynesia chưa từng xuất hiện trên những đảo này trước khi con người đặt chân lên đảo. Nếu đảo Mangareva bị chinh phục trước Pitcairn và Henderson thì chắc chỉ bởi trong số ba đảo, Mangareva gần các đảo khác của người Polynesia nhất, vì vậy trao đổi hàng hóa từ Mangareva sang các đảo Pitcairn và Henderson có lẽ cũng bao gồm cả những loại hoa màu không thể thiếu và lợn. Nhất là thời điểm khi cư dân của Mangareva di cư sang đảo Pitcairn và Henderson, thì những chiếc thuyền chở hàng nhập khẩu từ Mangareva có vai trò như một nguồn cung cấp lương thực cần thiết cho cư dân và vật nuôi trên các đảo mới, và sau này có vai trò như một tuyến giao thông huyết mạch.

Đối với những sản phẩm Henderson xuất khẩu ngược sang Pitcairn và Mangareva, chúng ta chỉ có thể phỏng đoán. Chắc hẳn chúng là những mặt hàng dễ hỏng, thối, không thể tồn tại trong các khu vực khảo cổ ở Pitcairn và Mangareva, bởi Henderson không có đá hay vỏ sò có giá trị xuất khẩu. Một trong những mặt hàng đó có lẽ là rùa biển, hiện vẫn sinh sản ở đông nam Polynesia, chỉ sống trên bãi biển của Henderson và từng được người Polynesia ở khắp nơi đánh giá là một món ăn sang trọng và thể hiện quyền uy, hầu hết chỉ phục vụ các tù trưởng giống như món nấm truyp và trứng cá muối hiện nay. Mặt hàng thứ hai là lông chim đỏ của các loài vẹt Henderson, bồ câu ăn quả và giống chim nhiệt đới đuôi đỏ. Lông chim đỏ cũng là một mặt hàng xa xỉ, thể hiện quyền lực, được sử dụng làm đồ trang sức và áo choàng lông ở Polynesia, tương tự như vàng và áo khoác lông chồn ngày nay.

Tuy nhiên, cũng giống như bây giờ, việc trao đổi những nguyên liệu thô, những mặt hàng thành phẩm và những hàng hóa sang trọng không phải là động cơ duy nhất cho giao thương và du lịch vượt đại dương. Thậm chí ngay cả khi dân số của Pitcairn và Henderson đã phát triển tới mức tối đa, thì con số khoảng một trăm hoặc vài chục dân vẫn rất thấp nên những người trong độ tuổi kết hôn chỉ có thể tìm được rất ít bạn tình trên đảo, và đa phần những bạn tình này chắc hẳn đều có quan hệ họ hàng rất dễ phạm vào điều cấm kỵ loạn luân. Bởi vậy, trao đổi bạn tình có lẽ là một chức năng quan trọng khác của hoạt động giao thương với Mangareva. Ngoài ra, nó cũng còn mang những thợ thủ công tay nghề cao từ đảo Magareva, nơi có số dân đông hơn, sang đảo Pitcairn và Henderson, và nhập khẩu lại những hoa màu bù đắp cho số đã bị chết trong những khu trồng trọt tí xíu của Pitcairn và Henderson. Cũng bằng cách này, cách đây chưa lâu, những hạm đội hậu cần của châu Âu vẫn còn giữ vai trò quan trọng không chỉ cung cấp lương thực cho cư dân và vật nuôi mà còn duy trì chủ quyền trên những thuộc địa hải ngoại của châu Âu ở Mỹ và Australia, những nơi đòi hỏi phải có thời gian dài để phát triển những nền tảng cơ bản cho tự cung tự cấp.

Theo quan điểm của người Mangareva và cư dân đảo Pitcairn, dường như giao thương với Henderson vẫn còn một chức năng nữa. Hành trình từ Mangareva tới Henderson phải mất 4-5 ngày đi bằng thuyền của người Polynesia; từ Pitcairn tới Henderson mất chừng một ngày. Quan điểm của riêng tôi về những chuyến đi biển trên Thái Bình Dương bằng những chiếc thuyền độc mộc bản địa dựa trên những chuyến đi ngắn hơn nhiều, và tôi thường lo lắng chỉ sợ thuyền bị lật hay bị vỡ và đã có lần làm tôi suýt chết. Vì thế cứ mỗi khi nghĩ đến những chuyến đi biển bằng thuyền kéo dài vài ngày là tôi lại sợ hãi, chỉ có gì thực sự cần thiết, ảnh hưởng tới cuộc sống mới khiến tôi phải đi. Nhưng những ngư dân Thái Bình Dương hiện nay vốn sẵn sàng chèo thuyền lênh đênh trên biển suốt năm ngày chỉ để mua thuốc lá thì những chuyến đi biển mạo hiểm là một phần trong cuộc sống thường nhật của họ. Với những cư dân Polynesia trước đây sinh sống trên đảo Mangareva hay Pitcairn, một chuyến viếng thăm đảo Henderson trong thời gian một tuần chắc phải là một chuyến dã ngoại tuyệt vời, một cơ hội để thưởng thức thoải mái thịt và trứng rùa, cùng hàng triệu tổ chim biển khác trên đảo. Nhất là với cư dân đảo Pitcairn sống trên một hòn đảo không có đá ngầm, những vùng nước nông hay những bãi sò thì Henderson chắc chắn là một điểm hấp dẫn để câu cá, mò sò và dạo chơi trên bãi biển. Cùng chung những lý do đó, ngày nay lớp hậu duệ của những kẻ nổi loạn trên thuyền Bounty, khi chán sống trên hòn đảo chật hẹp, tù túng đã chẳng bỏ qua cơ hội sang “nghỉ ngơi” trên bãi biển một hòn đảo san hô cách đó vài trăm kilômét.

Magareva hóa ra từng là một trung tâm địa lý của một mạng lưới giao thương lớn hơn nhiều, từ đây tới đảo Pitcairn và Henderson là tuyến ngắn nhất, chỉ cần bơi thuyền vài trăm kilômét về phía đông nam mà thôi. Những tuyến dài nhất (chừng 1.609 kilômét), nối Mangareva với Marquesa theo hướng bắc - tây bắc, và tới quần đảo Society theo hướng tây - tây bắc và còn có thể tới đảo Australs theo hướng tây. Hàng chục đảo san hô thấp của quần đảo Tuamotu là những điểm nghỉ chân trong những hải trình này. Dân số vài ngàn người của Magareva áp đảo dân số của Pitcairn và Henderson, và dân số của hai quần đảo Society và Marquesa (chừng một trăm ngàn người mỗi đảo) cũng áp đảo dân số của Magareva.

Những bằng chứng có giá trị về mạng lưới giao thương lớn này được phát hiện khi nhà khảo cổ Weisler nghiên cứu tính chất hóa học của đá bazan và may mắn phát hiện trong số 19 chiếc rìu được tìm kiếm và phân tích trên đảo Mangareva, có hai chiếc bằng đá bazan có nguồn gốc từ một mỏ đá ở Marquesa và một chiếc được chế tạo từ đá của quần đảo Society. Thêm một bằng chứng khác là những công cụ như rìu, lưỡi câu, dụng cụ câu mực, lao và giũa có những kiểu cách đa dạng, khác nhau mang đặc trưng của từng đảo. Sự tương tự về kiểu dáng của các công cụ giữa các đảo và sự xuất hiện các công cụ của đảo này trên một đảo khác chứng tỏ có sự giao thương đặc biệt giữa các đảo của Marquesa và đảo Mangareva. Khoảng thời gian từ năm 1100-1300, rất nhiều công cụ mang kiểu dáng công cụ của người Marquesa xuất hiện trên đảo Mangareva cho thấy đây là thời điểm giao thương giữa các đảo phát triển nhất. Tuy nhiên, vẫn còn những bằng chứng khác từ những nghiên cứu của nhà ngôn ngữ học Steven Fischer, với kết luận rằng ngôn ngữ của người Mangareva như được biết gần đây bắt nguồn từ chính ngôn ngữ của những cư dân đầu tiên đến Mangareva và sau đó bị thay đổi rất nhiều bởi những mối quan hệ với ngôn ngữ của người Marquesa ở phía đông nam (những đảo trong quần đảo Marquesa gần với Mangareva nhất).

Còn về mục đích của tất cả những mối liên hệ và thương mại trong mạng lưới lớn này, đầu tiên chắc chắn phải là lý do kinh tế, như trong mạng lưới các đảo nhỏ hơn Mangareva/Pitcairn/Henderson bởi các quần đảo trong mạng lưới này bổ sung nguồn tài nguyên thiên nhiên cho nhau. Quần đảo Marquesa đóng vai trò là “đất mẹ” với một diện tích đất rộng và số dân đông hơn, có mỏ đá bazan chất lượng tốt hơn nhưng lại nghèo nàn tài nguyên biển bởi không có đầm phá hay những dải đá ngầm. Mangareva, “đất mẹ thứ hai”, có một chiếc đầm lớn và giàu hải sản nhưng đổi lại diện tích đất và dân số lại nhỏ, cùng với mỏ đá kém chất lượng hơn. Lớp hậu duệ của đảo Mangareva sinh sống trên đảo Pitcairn và Henderson lại gặp nhiều khó khăn bởi diện tích đảo và số dân quá nhỏ nhưng Pitcairn có mỏ đá tốt và Henderson có lượng hải sản phong phú. Cuối cùng, quần đảo Tuamotu chỉ có một diện tích nhỏ hẹp, không có loại đá nào nhưng giàu hải sản và là một điểm trung chuyển thuận tiện.

Giao thương trong khu vực đông nam Polynesia vẫn tiếp tục phát triển trong giai đoạn từ khoảng năm 1000 đến 1450, được đánh giá bằng những hiện vật có trong các tầng khảo cổ trên đảo Henderson được xác định niên đại bằng kỹ thuật các bon phóng xạ. Nhưng tới năm 1500, giao thương đình trệ, cả ở đông nam Polynesia và dọc những tuyến đường tỏa ra từ trung tâm Mangareva. Trong những tầng khảo cổ có niên đại muộn hơn trên đảo Henderson không còn những chiếc vỏ sò nhập từ Mangareva, không còn loại đá thủy tinh núi lửa từ đảo Pitcairn, không còn loại đá bazan mịn của Pitcairn để làm dụng cụ cắt gọt rau quả, và không còn những viên đá nung của Mangareva và Pitcairn. Tất nhiên, cũng không còn cả những chiếc thuyền xuất phát từ hai hòn đảo này. Do bản thân cây cối trên đảo Henderson quá nhỏ không thể làm thuyền, nên toàn bộ dân số của Henderson chỉ vài chục người đã bị mắc kẹt trên một trong những đảo xa xôi nhất, khó khăn nhất thế giới. Cư dân Henderson phải đối mặt với một vấn đề dường như ngay cả chúng ta cũng không thể xử lý được, đó là: làm thế nào để tồn tại trên một dải đá vôi bị địa chất đẩy lên mà không có kim loại, không có loại đá nào khác ngoài đá vôi và không nhập khẩu bất kỳ loại sản phẩm nào.

Họ đã tồn tại bằng những cách khiến tôi sửng sốt bởi nó như một sự pha trộn giữa khéo léo, tuyệt vọng và đáng thương. Để làm rìu, họ dùng vỏ những con trai to thay cho đá. Họ dùng xương chim làm dùi đục lỗ. Họ dùng đá vôi hay san hô hoặc vỏ những con trai lớn để thay đá nung, tất cả những vật liệu này đều không tốt bằng đá bazan bởi khả năng chịu nhiệt của chúng kém, nên dễ bị nứt vỡ khi nung nóng và không thể thường xuyên sử dụng nhiều lần. Lúc này, họ làm lưỡi câu từ vỏ sò điệp, nhỏ hơn loại trai ngọc môi đen nhiều lần, nên mỗi chiếc vỏ chỉ làm được một lưỡi câu, (trong khi vỏ trai ngọc môi đen làm được hàng chục chiếc), và kiểu dáng lưỡi câu cũng bị hạn chế.

Phương pháp xác định niên đại bằng các bon phóng xạ cho thấy, vật lộn với những khó khăn bằng những cách này, toàn bộ dân số vài chục người ban đầu của đảo Henderson đã tồn tại trong vài thế hệ, có thể từ khoảng một trăm năm trở lên, sau khi tất cả những mối quan hệ với đảo Mangareva và Pitcairn bị cắt đứt. Nhưng vào năm 1606, thời điểm người châu Âu phát hiện ra Henderson khi một chiếc thuyền Tây Ban Nha cập vào đảo thì trên đảo không còn một bóng người. Cư dân Henderson đã bị tuyệt chủng hoàn toàn. Còn cư dân Pitcairn biến mất ít nhất vào khoảng năm 1790 (năm những kẻ nổi loạn trên thuyền Bounty lên đảo này lẩn trốn và thấy trên đảo không có sự sống), cũng có thể cư dân Pitcairn bị tuyệt chủng sớm hơn nhiều.

Tại sao mối liên hệ của Henderson với thế giới bên ngoài lại bị cắt đứt? Đó là hậu quả bắt nguồn từ những thảm họa thay đổi môi trường trên đảo Mangareva và Pitcairn. Trên khắp vùng lãnh thổ của người Polynesia, việc con người tới sinh sống trên những hòn đảo trước đó hàng triệu năm chưa từng có dấu chân người, đã phá hoại môi trường sống và làm tuyệt chủng hàng loạt các loài thực vật và động vật. Rừng Mangareva đặc biệt dễ bị tàn phá bởi phần lớn những yếu tố mà tôi đã đề cập trong chương trước về đảo Phục Sinh như: vĩ độ cao, lượng tro và bụi rơi từ không khí thấp và v.v… Môi trường sống của vùng đất liền nhiều đồi núi nằm sâu trong đảo Mangareva bị phá hủy cực kỳ nghiêm trọng, đa phần cư dân trên đảo tiếp tục phá rừng để lấy đất làm vườn. Hậu quả là nước mưa rửa trôi lớp đất mặt trên những sườn đồi dốc, và rừng biến thành một thảo nguyên chỉ toàn dương xỉ, một trong số vài loài thực vật hiếm hoi có thể tồn tại trên vùng đất giờ đã bị xói mòn. Xói mòn đất phá hủy phần lớn những vùng đất canh tác trước đây có thể làm vườn hay trồng trọt hoa màu của Mangareva. Phá rừng cũng gián tiếp làm giảm sản lượng đánh bắt cá, bởi không còn cây nào đủ to để làm thuyền: khi người châu Âu “phát hiện” ra Mangareva năm 1797, những cư dân trên đảo không còn một chiếc thuyền nào, chỉ còn những chiếc bè.

Dân số quá đông, lương thực quá ít đã đẩy xã hội Mangareva rơi vào cơn ác mộng nội chiến và đói kém triền miên mà hậu quả kinh hoàng hiện vẫn còn ghi đậm trong ký ức những cư dân hiện đại trên đảo. Thiếu chất đạm, con người biến thành những kẻ ăn thịt đồng loại, không chỉ ăn thịt những người mới chết mà còn đào lên và ăn cả những xác chết đã chôn xuống đất. Những cuộc xung đột diễn ra triền miên tranh giành những mảnh đất có thể canh tác quý giá còn lại; kẻ thắng chia lại đất của kẻ bại. Thế chỗ cho một hệ thống chính trị có trật tự dựa trên chế độ tù trưởng cha truyền con nối là các chiến binh không có tù trưởng. Ý nghĩ những nhà độc tài quân sự người Lilliputia ở phía đông và phía tây Mangareva đánh nhau để tranh giành quyền kiểm soát một hòn đảo dài có 8 kilômét dường như có vẻ buồn cười, nếu không nói là thảm thương. Tất cả những hỗn loạn chính trị đó khiến cư dân trên đảo khó tập trung sức người và vật chất cần thiết để dùng thuyền đi biển cả tháng trời, để lại vườn tược không được bảo vệ, kể cả nếu những cây gỗ lớn đủ để làm thuyền không bị tuyệt chủng. Do vai trò trung tâm của Mangareva bị sụp đổ, toàn bộ mạng lưới giao thương đông Polynesia nối Mangareva với các quần đảo và đảo Marquesa, Society, Tuamotus, Pitcairn và Henderson cũng tan rã, như kết quả nghiên cứu những chiếc rìu bằng đá bazan của nhà khảo cổ Weisler đã chứng minh.

Mặc dù có ít thông tin về những thay đổi môi trường trên đảo Pitcairn, nhưng những cuộc khai quật khảo cổ hạn chế mà Weisler thực hiện cho thấy hiện tượng phá rừng hàng loạt và xói mòn đất cũng diễn ra trên đảo này. Bản thân đảo Henderson cũng phải gánh chịu những tổn hại môi trường làm giảm khả năng nuôi dưỡng con người của nó. Năm trong số chín loài chim đất liền (trong đó có ba loài chim cu lớn), và khoảng sáu loài chim biển khác có số lượng lớn đã bị tuyệt chủng. Đây có lẽ là hậu quả kết hợp của tình trạng săn bắn quá mức, phá hoại môi trường sống do đốt nương làm rẫy, cùng sự hoành hành dữ dội của loài chuột di cư tới đảo theo những chiếc thuyền của người Polynesia. Ngày nay, chuột vẫn tiếp tục tấn công những loài chim biển còn lại, cả chim non và chim lớn, những loài chim không biết cách chống lại chuột bởi trước đây trên đảo không hề có chuột. Những bằng chứng khảo cổ cho thấy, hình thức làm vườn trên đảo Henderson chỉ xuất hiện sau khi những loài chim này đã biến mất, chứng tỏ con người buộc phải sống dựa vào hoa màu từ những mảnh vườn khi các nguồn lương thực ban đầu bị thu hẹp lại. Sự biến mất của loài sò gai có thể ăn được và sự suy giảm của loài ốc khăn xếp trong những tầng khảo cổ có niên đại muộn hơn trên bờ biển đông bắc Henderson cũng cho thấy khả năng các loài giáp xác bị khai thác quá mức tới tuyệt chủng.

Bởi vậy tổn hại môi trường, gây ra tình trạng hỗn loạn chính trị và xã hội và làm tuyệt chủng những cây gỗ lớn có thể làm thuyền, đã chấm dứt sự giao thương giữa các hòn đảo ở đông nam Polynesia. Giao thương kết thúc khiến những khó khăn của người Mangareva càng thêm trầm trọng do không còn nguồn đá chất lượng cao nhập từ các đảo Pitcairn, Marquesa và Society dùng để chế tạo công cụ sản xuất. Với những cư dân của Pitcairn và Henderson, hậu quả còn nghiêm trọng hơn, tới mức không còn ai sống sót trên những hòn đảo này.

Sự tuyệt chủng của cư dân Pitcairn và Henderson chắc chắn có phần do nguồn cung cấp lương thực thực phẩm từ Mangareva bị cắt đứt. Cuộc sống ở Henderson, vốn luôn luôn khó khăn, chắc hẳn sẽ càng trở nên khó khăn khi không còn nhập khẩu được loại đá núi lửa. Có phải tất cả mọi người đều chết trong cùng một thảm họa, hay họ chết dần chết mòn cho tới khi chỉ còn đúng một người sống sót cô độc với những ký ức trong nhiều năm liền? Tình trạng này thực tế đã xảy ra với cư dân người da đỏ ở đảo San Nicolas, ngoài khơi Los Angeles, họ chết dần chết mòn cho tới khi chỉ còn lại đúng một phụ nữ sống hoàn toàn cô độc trong suốt 18 năm trời. Có phải những cư dân cuối cùng trên đảo Henderson chỉ còn biết đứng trên các bãi biển, hết thế hệ này tới thế hệ khác, nhìn ra khơi xa trông ngóng bóng dáng những chiếc thuyền sẽ không bao giờ còn xuất hiện, cho tới khi ký ức về hình dáng chiếc thuyền chỉ còn lờ mờ?

Trong khi những chi tiết cho thấy cuộc sống của con người trên đảo Pitcairn và Henderson mong manh như thế nào vẫn còn là một điều bí ẩn, thì tôi không thể không liên tưởng tới một thảm kịch bí ẩn. Tôi luôn hình dung ra những kết cục khác nhau của cuốn phim theo những phỏng đoán mà tôi biết thực tế đã xảy ra trong một số xã hội bị cô lập. Khi những cư dân cùng nhau bị mắc kẹt ở một nơi mà không thể di cư, những kẻ kình địch không còn giải quyết những mẫu thuẫn căng thẳng chỉ bằng cách chuyển đi nơi khác. Những mâu thuẫn này có lẽ đã bùng nổ thành một vụ thảm sát, sau này gần như đã phá hủy vùng đất mà những kẻ nổi loạn trên tàu Bounty ẩn náu trên đảo Pitcairn. Vụ thảm sát này cũng có thể bùng phát do tình trạng thiếu lương thực và ăn thịt người, như đã từng xảy ra với người Mangareva, cư dân đảo Phục Sinh, và một vùng gần gũi với người dân Mỹ là vùng Donner Party ở California. Cũng có thể, do người dân quá tuyệt vọng nên dẫn tới một vụ tự sát tập thể, giống như vụ tự sát gần đây của 39 thành viên của giáo phái Thiên đường gần San Diego, California. Cũng có thể tuyệt vọng đã biến những người sống sót thành điên dại, giống như số phận của một số thành viên trong đoàn thám hiểm Nam Cực của Bỉ khi tàu bị kẹt trong băng trong thời gian hơn một năm trời (1898 - 1899). Tuy nhiên, vẫn còn có thể xảy ra một kết cục bi thảm khác là chết đói, giống như số phận của một đơn vị đồn trú của quân đội Nhật Bản bị kẹt lại trên đảo Wake trong thời kỳ Thế chiến Thứ hai; có thể hạn hán, mưa bão, sóng thần hay một thảm họa môi trường nào khác lại càng làm cho nạn đói thêm nghiêm trọng.

Rồi tôi lại tưởng tượng ra những kết cục có thể nhẹ nhàng hơn, nhân ái hơn cho cuốn phim. Sau vài thế hệ bị cô lập trên các đảo Pitcairn hay Henderson, mọi người trong tiểu xã hội chỉ khoảng một trăm hay vài chục cư dân này sẽ trở thành họ hàng thân thích của nhau và không thể lấy nhau mà không vi phạm điều cấm kỵ loạn luân. Bởi vậy, có thể tất cả mọi người cùng chấp nhận già đi và không còn sinh con đẻ cái, giống như Ishi nổi tiếng và ba phụ nữ của ông là những người da đỏ Yahi cuối cùng của California. Nếu một dân số nhỏ như vậy bất chấp điều cấm loạn luân, thì hậu quả có thể là tình trạng trẻ sơ sinh quái thai hoặc mắc bệnh bẩm sinh tăng cao, giống như bệnh điếc trên đảo Vineyard của Martha, ngoài khơi Massachusetts hay trên đảo Tristan da Cunha xa xôi ở Đại Tây Dương.

Có thể chúng ta sẽ không bao giờ biết được kết cục thực tế trên đảo Pitcairn và Henderson đã diễn ra như thế nào. Nhưng bất kể kết cục thế nào thì những nét chính của câu chuyện đã rõ ràng. Cư dân các đảo Mangareva, Pitcairn và Henderson tất cả đều gây ra những tổn hại nặng nề cho môi trường sống của họ và tàn phá nhiều nguồn tài nguyên cần thiết cho cuộc sống. Cư dân đảo Mangareva đủ đông để còn có người sống sót tới ngày nay, cho dù dưới những điều kiện sống khắc nghiệt và chất lượng cuộc sống suy giảm nghiêm trọng. Nhưng ngay từ rất sớm, thậm chí trước cả khi những thiệt hại môi trường tích tụ, cư dân của Pitcairn và Henderson đã phải phụ thuộc vào việc nhập khẩu các sản phẩm nông nghiệp, công nghệ, đá, vỏ sò và con người từ vùng đất mẹ Mangareva. Do vậy, khi Mangareva suy thoái và mất khả năng duy trì xuất khẩu thì ngay cả những nỗ lực to lớn nhất cũng không thể cứu được những người cuối cùng sống sót trên đảo Pitcairn và Henderson. E rằng dường như với các bạn, những đảo này vẫn quá xa cả về mặt không gian và thời gian để liên tưởng tới xã hội hiện đại của chúng ta, vậy hãy nghĩ về những rủi ro (cũng như những ích lợi) của sự toàn cầu hóa và phụ thuộc lẫn nhau về mặt kinh tế đang ngày càng tăng của chúng ta. Nhiều khu vực có tầm quan trọng về mặt kinh tế nhưng lại dễ bị tổn hại về mặt môi trường (như những khu vực có dầu lửa chẳng hạn) đã ảnh hưởng tới tất cả chúng ta, cũng như Mangareva ảnh hưởng tới Pitcairn và Henderson.