CHƯƠNG 5 SỰ SỤP ĐỔ CỦA NỀN VĂN MINH MAYA
Bí ẩn của những thành phố mất tích - Môi trường Maya - Nền nông nghiệp Maya - Lịch sử của Maya - Copán - Những phức tạp của sự sụp đổ - Chiến tranh và hạn hán - Sụp đổ ở vùng đất thấp phía nam - Thông điệp của Maya.
Tới giờ đã có hàng triệu du khách tới thăm những di tích của nền văn minh Maya cổ xưa bị sụp đổ từ hơn một ngàn năm trước ở bán đảo Yucantán, Mexico và những vùng Trung Mỹ lân cận. Tất cả chúng ta đều thích khám phá những bí ẩn lãng mạn, và Maya là một bí ẩn ở ngay bên cạnh chúng ta, gần gũi với người dân Mỹ như những di tích của người Anasazi. Để tới thăm thành phố Maya cổ xưa, bạn chỉ cần lên một chuyến bay trực tiếp từ Mỹ tới thành phố Mérita, Mexico, nhảy lên một chiếc xe buýt hoặc thuê một chiếc xe và chỉ mất thêm một tiếng nữa đi trên một xa lộ rải nhựa (xem hình 8).
Ngày nay, nhiều di tích Maya với những đền thờ và lâu đài vĩ đại, vẫn nằm sâu trong rừng già và xa những khu dân cư hiện đại (Phụ bản 12). Nhưng chúng từng một thời là nơi sản sinh ra nền văn minh thổ dân Mỹ hiện đại nhất Tân Thế giới, trước khi người châu Âu tới đây, và là nền văn minh duy nhất có chữ viết tượng hình đã được các nhà khoa học giải mã. Làm thế nào mà những người cổ đại lại có thể xây dựng những xã hội đô thị ở những nơi ngày nay chỉ có vài nông dân sinh sống? Những thành phố Maya gây ấn tượng với chúng ta không chỉ bởi sự bí ẩn và vẻ đẹp của chúng, mà còn bởi chúng là những khu vực khảo cổ “thuần khiết”. Có nghĩa là, vùng này ít người sinh sống, nên chúng không bị vùi dưới những tòa nhà xây dựng sau này như nhiều thành phố cổ khác, như thủ đô Aztec của vương quốc Tenochtitlán (hiện đang bị vùi sâu dưới thủ đô Mexico City hiện đại) và Rome.
Các thành phố Maya từng bị bỏ hoang, bị cây rừng che phủ và không hề được thế giới bên ngoài biết đến, mãi tới năm 1839 mới được một luật sư người Mỹ giàu có tên là John Stephens, cùng với nhà thiết kế người Anh Frederick Catherwood phát hiện ra. Từng nghe đồn về những di tích trong rừng già, Stephens vận động Tổng thống Martin Van Buren bổ nhiệm ông làm đại sứ tại Liên đoàn các nước cộng hòa Trung Mỹ, một tổ chức chính trị vô hình khi đó có phạm vi hoạt động trải dài từ Guatemala tới Nicaragua hiện nay, làm bình phong cho những chuyến thám hiểm khảo cổ của ông. Stephens và Catherwood đã thám hiểm 44 khu vực và thành phố. Từ chất lượng lạ thường của những tòa nhà và nền nghệ thuật rực rỡ, hai người nhận ra rằng đây không phải là tác phẩm của những người man rợ (theo cách nói của họ) mà là của một nền văn minh tiên tiến đã bị diệt vong. Họ công nhận một số hình khắc trên những đền đài bằng đá là một kiểu chữ viết, và họ phỏng đoán chính xác rằng nó có liên quan tới những sự kiện lịch sử và những cái tên của con người. Trở về, Stephens đã viết hai cuốn sách hướng dẫn du lịch mô tả những di tích này, được Catherwood minh họa, và trở thành hai cuốn sách bán chạy vào bậc nhất.
Chỉ một vài trích dẫn từ những tác phẩm của Stephens cũng đem lại cảm giác bí ẩn cuốn hút của Maya: “Một thành phố đổ nát. Không một dấu tích con người xung quanh những di tích, với những truyền thuyết truyền từ đời cha sang đời con và từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nó nằm trước mặt chúng ta như một con thuyền mục nát nằm giữa đại dương, cột buồm đã gãy, tên thuyền đã mờ, tất cả thủy thủ đoàn đã bỏ mạng, chẳng còn một ai cho chúng ta biết nó từ đâu tới, chủ nhân của nó là ai, chuyến đi đã kéo dài bao nhiêu ngày và vì sao nó bị tàn phá… Kiến trúc, điêu khắc và hội họa, tất cả những môn nghệ thuật gắn liền với cuộc sống đã nở rộ trong những cánh rừng già; các nhà hùng biện, những chiến binh và các chính khách, vẻ đẹp, tham vọng và chiến thắng đều đã từng sinh ra và biến mất ngay tại nơi đây và không ai biết rằng những điều này đã từng tồn tại, hay có thể nói về sự tồn tại của chúng trong quá khứ… Đây là những tàn tích của một dân tộc thông minh, tinh tế và lạ thường, những người đã trải qua tất cả những giai đoạn gắn với sự thịnh suy của các quốc gia; đạt tới cực thịnh rồi diệt vong… Chúng tôi leo lên những đền thờ hoang phế và những bệ thờ đổ nát của họ; đi bất cứ đâu chúng tôi cũng thấy hiển hiện những bằng chứng về thẩm mỹ và khả năng nghệ thuật của họ… Chúng tôi như đang sống giữa những người kỳ lạ, những người có cái nhìn buồn bã từ trên các bức tường; chụp ảnh họ trong những bộ trang phục lạ mắt được trang điểm bằng những chiếc lông vũ; trèo lên quảng trường và những bậc thang dẫn tới các đền thờ… Trong không khí bí ẩn của lịch sử thế giới, chưa nơi nào khiến tôi ấn tượng bởi sự sinh động chứ không đơn thuần chỉ là lạ kỳ như thành phố vĩ đại và đáng yêu này, đảo lộn, tan hoang và biến mất,… bị cây rừng bao phủ trong phạm vi hàng kilômét, và thậm chí còn không có lấy một cái tên để gọi”. Những cảm xúc này là những gì mà những du khách ngày nay khi tới thăm vùng đất Maya vẫn còn cảm nhận thấy, và đó là lý do tại sao chúng ta lại bị sự sụp đổ của Maya cuốn hút tới vậy.
Việc tìm hiểu nền văn minh Maya có một số thuận lợi với tất cả những ai quan tâm tìm hiểu những sự sụp đổ xã hội thời kỳ tiền sử. Đầu tiên, những văn bản của người Maya vẫn tồn tại, mặc dù chưa hoàn thiện, nhưng vẫn rất hữu ích cho việc tái hiện lịch sử Maya chi tiết hơn nhiều so với những gì chúng ta có thể tái hiện với đảo Phục Sinh, thậm chí với cả lịch sử Anasazi thông qua những vòng tuổi thân cây và những ổ chuột rừng. Nghệ thuật và kiến trúc vĩ đại của các thành phố Maya thu hút rất nhiều nhà khảo cổ học nghiên cứu về Maya so với trường hợp nếu họ chỉ là những dân tộc chỉ biết săn bắn, hái lượm, không có chữ viết, sống trong những túp lều vô hình về mặt khảo cổ học. Các nhà khí hậu học và cổ sinh thái học gần đây thừa nhận một số dấu hiệu thay đổi khí hậu và môi trường thời xa xưa đã góp phần khiến nền văn minh Maya sụp đổ. Cuối cùng, hiện vẫn còn những người Maya sinh sống trên vùng đất quê hương cổ xưa của họ và nói những ngôn ngữ Maya. Bởi mặc dù đã sụp đổ, nhưng phần lớn nền văn hóa cổ xưa của Maya vẫn còn tồn tại, nên những người châu Âu đầu tiên đặt chân tới vùng đất này đã ghi lại được những thông tin về xã hội Maya thời đó, những thông tin này có vai trò quan trọng trong sự tìm hiểu của chúng ta về xã hội Maya cổ xưa. Mối liên hệ đầu tiên của Maya với người châu Âu diễn ra vào năm 1502, 10 năm sau khi Christopher Columbus “khám phá” ra Tân Thế giới, khi trong chuyến thám hiểm thứ tư, cũng là chuyến đi cuối cùng, Columbus đã gặp một chiếc thuyền của thổ dân ra trao đổi hàng hóa có thể là của người Maya. Năm 1527, người Tây Ban Nha bắt đầu xâm lược Maya, nhưng mãi tới năm 1697 họ mới khuất phục được vương quốc cuối cùng. Do vậy, người Tây Ban Nha đã có cơ hội quan sát những xã hội Maya độc lập trong khoảng thời gian gần hai thế kỷ. Điều đặc biệt quan trọng, có cả mặt tốt và mặt xấu, là giám mục Diego de Landa đã sống trên bán đảo Yucantán trong phần lớn thời gian từ năm 1549 đến 1578. Một mặt, trong nỗ lực nhằm triệt hạ “những kẻ ngoại đạo”, ông đã đốt tất cả những nguyên cảo của người Maya mà ông có thể tìm thấy, đây bị coi là một trong những hành động phá hoại các công trình văn hóa tồi tệ nhất lịch sử thế giới; nên hiện chỉ còn sót lại bốn nguyên cảo của người Maya. Mặt khác, ông đã ghi lại một cách chi tiết về xã hội Maya, và ông cũng ghi lại lời giải thích vắn tắt về nội dung chữ viết của người Maya, sau gần bốn thế kỷ, những tài liệu này bỗng trở thành những đầu mối quan trọng để giải mã chữ viết của người Maya cổ xưa.
Thêm một lý do khác đáng để chúng ta dành cả một chương cho Maya là để xóa đi ấn tượng mà những chương khác của chúng ta gợi nên về các xã hội xa xưa, rằng họ chỉ là những xã hội nhỏ, mất cân đối, sống trong những môi trường có phần dễ bị tổn hại và biệt lập về mặt địa lý, lạc hậu so với công nghệ và nền văn hóa đương thời. Maya không thuộc số những xã hội này. Thay vào đó, xét về phương diện văn hóa thì nó là xã hội tiên tiến nhất (hoặc nằm trong số xã hội tiên tiến nhất) Tân Thế giới trước khi nhà thám hiểm Columbus đặt chân tới đây, và là xã hội duy nhất có chữ viết tượng hình, được bảo tồn tới tận ngày nay, đồng thời nằm trong một trong hai khu vực trung tâm của nền văn minh Tân Thế giới (Trung Mỹ-Mesoamerica). Mặc dù Maya có một số vấn đề môi trường gắn với địa hình đá vôi và lượng mưa không ổn định, nhưng nó không được coi là môi trường đặc biệt dễ bị tổn hại theo tiêu chuẩn thế giới, và chắc chắn không thể dễ tổn hại bằng môi trường đảo Phục Sinh, vùng Anasazi, Greenland hay Australia hiện đại. Để mọi người không bị nhầm lẫn khi cho rằng sụp đổ chỉ xảy ra với những xã hội ngoại biên nhỏ, nằm trong các khu vực có môi trường dễ bị tổn hại, sự sụp đổ của nền văn minh Maya là lời cảnh báo với chúng ta rằng sụp đổ có thể giáng xuống cả những xã hội thông minh nhất, tiên tiến nhất.
Xét theo khung năm điểm của chúng ta để tìm hiểu vể những sự sụp đổ xã hội, thì Maya có tới bốn điểm gây ảnh hưởng tới sự sụp đổ của nó. Họ đã tàn phá môi trường của mình, nhất là phá rừng gây xói mòn. Thay đổi khí hậu (hạn hán, có thể diễn ra theo chu kỳ) cũng góp phần khiến Maya sụp đổ. Tình trạng thù địch giữa chính những người Maya đóng một vai trò lớn hơn. Cuối cùng, các yếu tố chính trị/văn hóa cũng góp phần khiến xã hội Maya sụp đổ, đặc biệt là cạnh tranh giữa các vị vua và tầng lớp quý tộc đã dẫn tới tình trạng chỉ chú trọng gây chiến và xây dựng đền đài hơn là giải quyết các vấn đề quan trọng. Mục còn lại trong khung năm điểm của chúng ta là giao thương hay sự chấm dứt giao thương với các xã hội hữu nghị bên ngoài, rõ ràng không có vai trò quan trọng gì trong việc duy trì hay khiến xã hội Maya sụp đổ. Trong khi đá vỏ chai (loại nguyên liệu được người Maya ưa thích dùng để chế tạo các công cụ bằng đá), ngọc bích, vàng và vỏ sò được nhập khẩu vào Maya, thì ba mặt hàng cuối là hàng xa xỉ nhưng không quan trọng. Còn các công cụ làm bằng đá vỏ chai vẫn được phân phối rộng rãi trong khu vực sinh sống của người Maya rất lâu sau khi hệ thống chính trị sụp đổ, chứng tỏ người Maya không bao giờ thiếu đá vỏ chai.
Để tìm hiểu về Maya, hãy bắt đầu từ môi trường của họ, mà chúng ta cho rằng đó là “rừng già” hay “rừng nhiệt đới”. Sự thực thì không phải như vậy, và lý do vì sao có thể kết luận là không phải cũng là một điều quan trọng. Nói cho đúng, rừng nhiệt đới phát triển ở những vùng xích đạo có lượng mưa cao nên duy trì khí hậu ẩm ướt quanh năm. Nhưng vùng đất Maya trải dài hơn 1.500 kilômét từ xích đạo, trong vĩ độ từ 170 - 22 độ bắc, trong một môi trường gọi là “rừng nhiệt đới theo mùa”. Có nghĩa là, mùa mưa của Maya diễn ra từ tháng Năm tới tháng Mười và mùa khô từ tháng Một tới tháng Tư. Nếu tập trung vào những tháng ẩm ướt, thì có thể gọi Maya là vùng “rừng nhiệt đới theo mùa”, nếu tập trung vào những tháng khô hanh, thì có thể gọi đó là vùng “hoang mạc theo mùa”.
Từ phía bắc tới phía nam của bán đảo Yucantán, lượng mưa hằng năm dao động từ 45 - 254 xăngtimét, càng xuôi xuống phía nam đất càng dày hơn. Bởi vậy, bán đảo phía nam thuận lợi cho hoạt động nông nghiệp và có thể cung cấp đủ lương thực cho một số dân lớn. Nhưng lượng mưa hằng năm của Maya thay đổi khó lường; có những năm lượng mưa cao gấp ba, bốn lần năm khác. Tương tự, thời lượng mưa trong năm cũng thay đổi khó định trước, vì vậy có thể dễ dẫn tới tình trạng là nông dân trồng hoa màu khi dự đoán sẽ có mưa, nhưng rồi chẳng có mưa như dự kiến. Kết quả là nông dân hiện nay trồng ngô trên mảnh đất xưa của người Maya liên tục bị thất bát, nhất là ở phía bắc. Có thể người Maya xưa kia nhiều kinh nghiệm hơn và trồng trọt tốt hơn, nhưng dẫu sao họ cũng phải đối mặt với những vụ mùa thất bát do hạn hán và mưa bão.
Mặc dù khu vực phía nam có lượng mưa cao hơn phía bắc, nhưng có một nghịch lý là khó khăn về nước của vùng phía nam ẩm ướt lại nghiêm trọng hơn. Điều này không chỉ gây khó khăn cho cuộc sống của người Maya cổ ở phía nam, mà còn gây khó khăn cho các nhà khảo cổ học hiện đại bởi họ không hiểu tại sao những đợt hạn hán ngày xưa lại gây hậu quả lớn đối với phía nam ẩm ướt hơn là phía bắc khô hanh. Lý giải có vẻ phù hợp là có một trữ lượng nước ngọt nằm dưới bán đảo Yucantán, nhưng độ cao của mặt đất lại tăng dần từ bắc tới nam, do vậy càng về phía nam thì mực nước ngầm càng sâu. Ở phía bắc bán đảo, mực nước ngầm đủ nông để người Maya cổ có thể lấy được nước khi đào những hào nước sâu gọi là cenote, hoặc từ những hang sâu. Chắc hẳn tất cả những du khách từng tới thăm thành phố Chichén Itzá của người Maya đều ấn tượng bởi những cenote vĩ đại ở đây. Trong những vùng đất thấp ở bờ biển phía bắc không có những hào nước, nhưng người Maya có thể chạm tới mực nước ngầm khi đào những chiếc giếng sâu tới 22,8 mét. Ở nhiều vùng của Belize, nước rất sẵn bởi có những con sông, hoặc ở những vùng dọc theo sông Usumacinta ở phía tây và xung quanh một số hồ ở khu vực Pentén ở phía nam. Nhưng đa phần những vùng đất phía nam quá cao so với mực nước ngầm để có thể đào hào hay đào giếng để lấy nước. Vấn đề càng trầm trọng hơn khi phần lớn địa hình bán đảo Yucantán là đá vôi, loại đá vôi xốp như bọt biển nên nước mưa thấm thẳng vào lòng đất, chỉ còn rất ít hoặc thậm chí không còn giữ được chút nước mặt nào.
Vậy những khu vực dân cư đông đúc ở miền nam Maya đối phó với những khó khăn về nước như thế nào? Ban đầu chúng tôi sửng sốt khi thấy nhiều thành phố Maya không xây dựng cạnh những dòng sông ít ỏi mà lại được xây trên những doi đất nhô lên. Lý giải cho vấn đề này là người Maya đào những vùng đất trũng, hoặc cải tạo những vùng đất trũng tự nhiên, sau đó bít những chỗ rò rỉ trong đá vôi bằng cách trát một lớp vữa xuống lòng hố tạo thành những thùng hoặc bể chứa nước, có thể giữ nước mưa dẫn xuống từ những hồ chứa lớn hơn để dùng trong mùa khô. Ví dụ, những bể chứa tại thành phố Tikal của người Maya có thể trữ một lượng nước đủ để đáp ứng nhu cầu nước uống của khoảng 10.000 người trong thời gian 18 tháng. Tại thành phố Coba, những chiếc đập được xây quanh một chiếc hồ để nâng mức nước hồ và đảm bảo nguồn cấp nước ổn định hơn. Nhưng những cư dân Tikal và những thành phố khác phụ thuộc vào những bể chứa để lấy nước uống vẫn có thể lâm vào tình trạng khó khăn trầm trọng nếu gặp phải một đợt hạn hán kéo dài hơn 18 tháng. Một đợt hạn hán ngắn hơn làm nguồn cung cấp lương thực của họ bị cạn kiệt, có thể đã khiến họ rơi vào tình trạng đói ăn, bởi chỉ có mưa mới đủ nước tưới cho hoa màu chứ không thể chỉ dùng nước từ những bể chứa.
Một vấn đề quan trọng trong nghiên cứu của chúng ta là những hoạt động nông nghiệp cụ thể của người Maya, một nền nông nghiệp dựa trên những loại hoa màu được thuần hóa tại Mexico, nhất là ngô, sau đó đến đậu. Qua các phân tích chất đồng vị từ hài cốt của người Maya cổ, có thể phỏng đoán rằng đối với tầng lớp thượng lưu cũng như thường dân, ngô đáp ứng ít nhất tới 70% lương thực của người Maya. Những loài vật nuôi duy nhất của họ là chó, gà tây, vịt Muscovy và ong mật không nọc, trong khi nguồn thực phẩm hoang dã quan trọng nhất của họ là hươu và cá có thể đánh bắt ở một số nơi. Tuy nhiên, chỉ có rất ít xương động vật được tìm thấy tại các khu vực khảo cổ của người Maya chứng tỏ số lượng thực phẩm sẵn có của người Maya cũng không nhiều. Thịt hươu nai là món đặc sản dành cho giới quý tộc.
Trước đây người ta tin rằng nền nông nghiệp Maya chủ yếu là đốt nương làm rẫy (hay còn gọi là du canh du cư), đó là chặt hoặc đốt rừng để lấy đất trồng trọt hoa màu trong thời gian một hoặc vài năm cho tới khi đất bạc màu, sau đó bỏ hoang cánh đồng trong thời gian 15-20 năm cho tới khi các loài cây dại mọc trở lại, phục hồi độ màu mỡ cho đất. Do phần lớn xã hội Maya nằm trong hệ thống nông nghiệp du canh du cư khiến đất đai có thể bị bỏ hoang bất kỳ thời điểm nào, nên nó chỉ có thể cung cấp đủ lương thực cho số dân khiêm tốn nhất. Vì vậy, các nhà khảo cổ rất ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng mật độ dân số Maya, tính toán dựa trên số nền nhà bằng đá trong các nông trại, thường cao hơn nhiều lần so với khả năng nền nông nghiệp du canh du cư có thể cung cấp đủ lương thực. Những con số thực tế thường gây nhiều tranh cãi và số liệu mỗi vùng cũng khác nhau, nhưng thường dao động từ 250-750 người, thậm chí tới 1.500 người trên 1,6 kilômét vuông. (Để so sánh, thậm chí ngày nay hai nước châu Phi có mật độ dân số lớn nhất thế giới là Rwanda và Burundi cũng chỉ có mật độ 750 người và 540 người trên một 1,6 kilômét vuông tương ứng). Bởi vậy, người Maya cổ chắc phải có những biện pháp tăng sản lượng nông nghiệp, không chỉ bằng phương pháp nông nghiệp du canh du cư.
Nhiều khu vực của Maya có dấu tích của những công trình nông nghiệp được xây dựng để nâng cao sản lượng, như làm ruộng bậc thang trên những sườn đồi để giữ đất và độ ẩm, các hệ thống tưới tiêu, và hàng loạt kênh mương để thoát nước hay nâng cao mặt cánh đồng. Hệ thống kênh mương, được thừa nhận rất hiệu quả ở bất kỳ nơi nào trên thế giới và đòi hỏi tốn nhiều công sức xây dựng nhưng bù lại là năng suất nông nghiệp cao, được đào để tiêu nước cho những cánh đồng ngập nước, làm phân bón và nâng cao mặt cánh đồng ở giữa các kênh mương bằng cách vét bùn rác và cây lan dạ hương nước từ lòng kênh mương và đổ lên ruộng, nhờ vậy giữ cho ruộng khỏi bị ngập nước. Ngoài việc thu hoạch hoa màu trồng trên các cánh đồng, nông dân còn “nuôi” các loại cá và rùa hoang dã trong các kênh mương (thực tế là cứ để mặc chúng phát triển tự nhiên) như một nguồn thực phẩm bổ sung. Tuy nhiên, các khu vực khác của người Maya, như những thành phố Copán và Tikal đã được nghiên cứu kỹ, lại có ít bằng chứng khảo cổ về hình thức làm ruộng bậc thang, thủy lợi, hệ thống tiêu nước hay nâng mặt ruộng. Thay vào đó, cư dân các thành phố này sử dụng những biện pháp vô hình về mặt khảo cổ để tăng sản lượng lương thực như che phủ bảo vệ rễ cây mới trồng, trồng trọt theo những đợt nước lũ, rút ngắn thời gian để đất hoang và cày bừa để phục hồi độ màu của đất, hoặc hoàn toàn không để đất hoang và trồng hoa màu tất cả các năm, hoặc mỗi năm trồng hai vụ màu tại các vùng có khí hậu ẩm ướt.
Xã hội Maya được phân hóa thành hai lớp người, cũng như các xã hội châu Âu và nước Mỹ hiện nay, bao gồm nông dân có nghĩa vụ chuyên sản xuất lương thực và những thành phần không phải là nông dân như viên chức và binh lính, không sản xuất ra lương thực mà chỉ tiêu thụ lương thực do nông dân làm ra và thực tế là những người ăn bám nông dân. Bởi vậy trong bất kỳ xã hội phân tầng nào, nông dân cũng phải sản xuất ra một lượng lương thực dôi dư không chỉ để đáp ứng nhu cầu của họ mà còn cả của những người tiêu thụ khác. Khả năng cung cấp lương thực cho số người chỉ tiêu thụ lương thực mà không sản xuất phụ thuộc vào sản lượng nông nghiệp của xã hội. Với sản lượng nông nghiệp cao, nông dân nước Mỹ ngày nay chỉ chiếm 2% dân số, nhưng trung bình mỗi nông dân phải sản xuất lượng lương thực đủ cho 125 người (đó là những người không phải là nông dân và cả những người dân trên các thị trường xuất khẩu). Nền nông nghiệp của người Ai Cập cổ đại, mặc dù kém hiệu quả hơn nhiều so với nền nông nghiệp cơ khí hóa hiện đại ngày nay, nhưng một nông dân vẫn sản xuất được lượng lương thực nhiều gấp năm lần nhu cầu tiêu thụ của bản thân và gia đình. Nhưng một nông dân Maya chỉ có thể sản xuất được lượng lương thực nhiều gấp hai lần nhu cầu của mình và gia đình. Ít nhất 70% dân số Maya là nông dân. Sản lượng hoa màu thấp như vậy là do nền nông nghiệp Maya có một số hạn chế sau.
Thứ nhất, nền nông nghiệp Maya sản sinh ra lượng protein ít. Ngô, lương thực chính thời kỳ đó, có hàm lượng protein thấp hơn so với các sản phẩm chủ lực của Cựu Thế giới là lúa mì và lúa mạch. Chỉ có ít loài vật nuôi như đã đề cập bên trên nhưng lại không có loài nào có trọng lượng lớn và cho nhiều thực phẩm như cừu, bò, lợn và dê của Cựu Thế giới. Chủng loại hoa màu mà người Maya trồng trọt cũng ít hơn so với nông dân vùng Andes (ngoài ngô, họ còn trồng khoai tây, cây diêm mạch có hàm lượng protein cao và nhiều loại cây khác, họ còn nuôi cả lạc đà không bướu để lấy thịt), và ít hơn nhiều so với những loại hoa màu đa dạng ở Trung Quốc và phía tây Âu Á.
Một hạn chế khác là nền nông nghiệp trồng ngô của Maya không phát triển mạnh mẽ và sản lượng thấp hơn so với các nền nông nghiệp khác như hình thức chinampas của người Aztec (một hình thái sản xuất nông nghiệp với những mặt ruộng được nâng cao cho sản lượng rất cao), những cánh đồng được nâng cao của nền văn minh Tiwanaku của người Andes, hệ thống tưới tiêu của người Moche trên bờ biển Peru, hay những cánh đồng được cày cấy bằng sức kéo của động vật như ở phần lớn các nước trong vùng Âu Á.
Thêm một hạn chế nữa là khí hậu ẩm ướt của Maya khiến họ khó dự trữ được ngô trong thời gian hơn một năm, trong khi đó người Anasazi sống trong khí hậu khô hanh ở tây nam nước Mỹ có thể dự trữ ngô tới ba năm.
Cuối cùng, không giống như người da đỏ Andes với những con lạc đà không bướu, và không giống như cư dân các nước thuộc Cựu Thế giới có ngựa, bò, lừa và lạc đà, người Maya không có loài vật nuôi nào có thể dùng để vận chuyển hay để kéo. Tất cả hàng hóa của người Maya vận chuyển trên bộ đều được phu khuân vác cõng trên lưng. Nhưng nếu cử một phu khuân vác cõng ngô theo một đoàn quân ra chiến trường, thì cũng cần một lượng ngô tương ứng để nuôi sống anh ta trên đường đi, và cũng thêm một chút ngô nữa cho anh ta khi trở về, như vậy chỉ còn lại một phần nhỏ lương thực cho quân đội. Chuyến đi càng dài, thì lượng lương thực dôi thừa từ nhu cầu của phu khuân vác càng ít. Trong một trận chiến kéo dài chỉ vài ngày cho tới một tuần, thì việc cử phu khuân vác mang ngô cung cấp cho quân đội hay tới các chợ là không kinh tế. Bởi sản lượng nông nghiệp quá thấp của Maya và tình trạng thiếu súc vật kéo nên các chiến dịch quân sự chỉ tiến hành trong điều kiện cực kỳ hạn chế về thời gian và khoảng cách.
Chúng ta đã quen với ý nghĩ rằng thắng lợi quân sự được quyết định bởi chất lượng vũ khí hơn là nguồn cung cấp lương thực. Nhưng trong lịch sử của người Maori New Zealand, có một ví dụ chứng minh những tiến bộ trong cung cấp lương thực ảnh hưởng tích cực tới thắng lợi quân sự như thế nào. Tổ tiên của người Maori là những người Polynesia đầu tiên tới định cư tại New Zealand. Theo truyền thống, họ thường xuyên phát động những cuộc chiến khốc liệt đánh lẫn nhau, nhưng chỉ tấn công những bộ lạc láng giềng. Những cuộc chiến này bị hạn chế bởi sản lượng nông nghiệp của họ thấp, với loại lương thực chính chỉ là khoai lang. Người Maori không thể thu hoạch đủ khoai lang để cung cấp cho một đội quân chiến đấu trong thời gian dài hay trong những cuộc chiến ở những vùng xa xôi. Người châu Âu tới New Zealand và mang theo khoai tây, bởi vậy từ khoảng năm 1815, sản lượng hoa màu của người Maori đã tăng lên đáng kể. Lúc này người Maori đã có thể trồng đủ lương thực để cung cấp cho quân đội chiến đấu trong nhiều tuần. Kết quả là trong một giai đoạn lịch sử kéo dài 15 năm của người Maori (1818-1833), khi các bộ lạc Maori kiếm được khoai tây và súng từ người Anh, quân đội của họ đã tiến hành những cuộc tấn công vào các bộ lạc cách xa họ hàng trăm kilômét và vẫn chưa biết tới khoai tây và súng. Vì vậy, sản lượng khoai tây đã giúp khắc phục những hạn chế trước đây trong chiến tranh của người Maori, tương tự như hạn chế trong chiến tranh của người Maya là nền nông nghiệp với sản lượng ngô thấp.
Những hạn chế về lương thực đó cũng có thể góp phần lý giải vì sao xã hội Maya luôn bị chia cắt về mặt chính trị thành những vương quốc nhỏ không ngừng gây chiến với nhau, và không bao giờ thống nhất thành những đế chế hùng mạnh như đế chế Aztec ở thung lũng Mexico (được cung cấp lương thực nhờ nền nông nghiệp chinampa và những biện pháp tăng cường sản lượng hoa màu khác), hay như đế chế Inca của người Andes (lương thực được đảm bảo bằng các loại hoa màu khác nhau được lạc đà không bướu vận chuyển trên những con đường xây dựng rất tốt). Quy mô quân đội và nền hành chính của Maya vẫn nhỏ và không đủ mạnh để tiến hành các chiến dịch quân sự kéo dài ở những vùng xa xôi. (Thậm chí rất lâu sau, vào năm 1848, khi người Maya nổi dậy chống lại những lãnh chúa người Mexico và dường như quân đội Maya đã tới gần chiến thắng, thì họ dừng lại để quay về quê hương thu hoạch ngô). Nhiều vương quốc Maya có dân số chỉ vỏn vẹn 25.000-50.000 người, không quốc gia nào có tới hơn nửa triệu người, và lãnh thổ chỉ gói gọn trong bán kính hai, ba ngày đi bộ từ cung vua. (Những con số thực tế lại cũng đang còn nhiều tranh cãi giữa các nhà khảo cổ). Từ đỉnh những ngôi đền của một số vương quốc Maya, có thể nhìn thấy những ngôi đền của vương quốc gần nhất. Các thành phố Maya cũng rất nhỏ (đa phần có diện tích chưa tới 1,609 kilômét vuông), số dân nhỏ và không có các chợ lớn như các thành phố Teotihuacán và Tenochtitlán trong thung lũng Mexico, hay Chan-Chan và Cuzco ở Peru, và không có các bằng chứng khảo cổ về dự trữ lương thực theo sự chỉ đạo của hoàng gia và không có hoạt động thương mại như của người Hy Lạp và người Trung Mỹ cổ đại.
Giờ chúng ta sẽ điểm qua lịch sử Maya. Maya là một phần trong vùng văn hóa cổ đại lớn của thổ dân Mỹ được gọi là Trung Mỹ (Mesoamerica), trải dài từ giáp miền Trung Mexico tới Honduras và (cùng với rặng Andes của Nam Mỹ) tạo thành một trong hai trung tâm tiên tiến của Tân Thế giới, trước khi người châu Âu tới đây. Người Maya có nhiều điểm tương đồng với những xã hội Trung Mỹ khác, không chỉ ở những gì họ có mà cả những gì họ không có. Ví dụ, có một điều gây ngạc nhiên cho những người phương Tây hiện đại với những phỏng đoán vốn dựa trên các nền văn minh Cựu Thế giới, là các xã hội Trung Mỹ không có các công cụ bằng kim loại, ròng rọc và các loại máy móc khác, xe kéo (trừ những đồ chơi của người bản địa), thuyền buồm và những loài thú nuôi đủ lớn để vận chuyển hàng hóa hay để lấy sức kéo. Tất cả những đền thờ vĩ đại của người Maya hoàn toàn được dựng lên với các công cụ bằng đá, gỗ và bằng sức người.
Trong số các thành phần của nền văn minh Maya, có nhiều yếu tố người Maya vay mượn từ những nơi khác trong nền văn hóa Trung Mỹ. Ví dụ, các hoạt động nông nghiệp, các thành phố và chữ viết đầu tiên của Trung Mỹ đều xuất hiện ngoài khu vực sinh sống của Maya, trong những thung lũng và những vùng bờ biển thấp ở phía tây và tây nam, nơi ngô, đậu, bí được thuần hóa và trở thành thành phần quan trọng trong khẩu phần ăn vào năm 3000 TrCN, đồ gốm xuất hiện vào khoảng năm 2500 TrCN, làng mạc xuất hiện vào năm 1500 TrCN, các thành phố xuất hiện ở Olmecs vào năm 1200 TrCN, chữ viết xuất hiện trong tộc người Zapotecs tại Oaxaca vào khoảng trong hoặc sau năm 600 TrCN, và các nhà nước đầu tiên xuất hiện vào khoảng năm 300 TrCN. Hai loại lịch hiện đại, lịch Mặt trời 365 ngày và lịch tín ngưỡng 260 ngày, cũng xuất hiện bên ngoài Maya. Những yếu tố khác của nền văn minh Maya thì hoặc do họ tự nghĩ ra, hoặc họ hoàn thiện hay sửa đổi.
Còn trong khu vực sinh sống của người Maya, làng mạc và đồ gốm xuất hiện vào khoảng trong hoặc sau năm 1000 TrCN, những tòa nhà chính xuất hiện vào khoảng năm 500 TrCN, và chữ viết xuất hiện vào khoảng năm 400 TrCN. Tất cả những chữ viết của người Maya cổ giữ được tới ngày nay tạo thành tổng số khoảng 15.000 câu, đều được khắc trên đá, trên những đồ gốm và chỉ nói tới những vị vua, giới quý tộc và những cuộc chinh phạt của họ (Phụ bản 13). Không hề có một dòng nào nói về những thường dân. Khi người Tây Ban Nha đặt chân tới đây, Maya vẫn sử dụng vỏ cây được phủ một lớp hồ để làm giấy viết sách, trong đó chỉ có bốn cuốn duy nhất thoát khỏi ngọn lửa tàn bạo của linh mục Landa và trở thành giáo trình về thiên văn học và cách tính lịch. Người Maya cổ cũng từng có những cuốn sách bằng vỏ cây kiểu này, thường được mô tả ngay trên đồ gốm của họ, nhưng chúng chỉ còn là những tàn tích mục nát trong các lăng mộ.
Lịch Đếm Ngày cổ đại nổi tiếng của người Maya bắt đầu vào ngày 11/8 năm 3114 TrCN, cũng giống như lịch của chúng ta bắt đầu vào ngày 1/1 của năm đầu tiên của thời kỳ công giáo. Chúng ta đều biết tầm quan trọng của ngày đầu tiên trong lịch mà chúng ta đang sử dụng: được giả thiết là ngày đầu tiên của năm Chúa ra đời. Có thể người Maya cũng gắn một số sự kiện quan trọng vào ngày đầu tiên trong lịch của họ, nhưng chúng ta không biết sự kiện đó là gì. Thời điểm đầu tiên phát hiện ra Lịch Đếm Ngày trong khu vực của người Maya là trên một lăng mộ có niên đại năm 197 và xuất hiện ở ngoài khu vực của người Maya vào năm 36 TrCN, cho thấy rằng ngày đầu tiên của Lịch Đếm Ngày đã được đề lùi lại vào ngày 11/8/3114 TrCN, rất xa những sự kiện trên; khi khắp Tân Thế giới còn chưa có loại chữ viết nào, mãi cho tới tận 2.500 năm sau.
Lịch của chúng ta được chia thành các đơn vị ngày, tháng, năm, thập kỷ, thế kỷ và thiên niên kỷ. Ví dụ, ngày 19/2/2003 là ngày tôi viết bản thảo đầu tiên của chương này, có nghĩa rằng đó là ngày thứ 19 của tháng thứ hai trong năm thứ ba của thập kỷ đầu tiên, thế kỷ thứ I của thiên niên kỷ thứ III tính từ ngày sinh của Chúa. Tương tự, Lịch Đếm Ngày của Maya đặt tên thời gian theo các đơn vị ngày (kin), 20 ngày (uninal), 360 ngày (tun), 7.200 ngày hay xấp xỉ 20 năm (katunn), và 144.000 ngày hay xấp xỉ 400 năm (baktun). Toàn bộ lịch sử Maya đều rơi vào các baktun 8, 9 và 10.
Giai đoạn được gọi là Cổ điển của nền văn minh Maya bắt đầu từ baktun 8, khoảng năm 250, khi có bằng chứng xuất hiện những vị vua và triều đại đầu tiên. Trong những nét chạm khắc (dấu hiệu của chữ viết) trên các lăng mộ của người Maya, những nhà nghiên cứu chữ viết của người Maya nhận ra vài chục nét chú trọng vào khu vực địa lý của Maya, và hiện được coi là thể hiện các triều đại hay các vương quốc. Các vị vua có những nét chạm thể hiện tên và cung điện riêng, nhiều nhà quý tộc cũng có những câu khắc và lâu đài riêng của mình. Trong xã hội Maya, vua còn có chức năng là thầy cúng quyền lực nhất, chịu trách nhiệm thực hiện các nghi lễ tôn giáo thường niên cầu cho mưa thuận gió hòa và mang lại cuộc sống thịnh vượng cho cư dân. Người dân tin rằng các vị vua có quyền năng siêu nhiên bởi họ có quan hệ họ hàng với Chúa Trời. Bởi vậy, có một sự ngầm hiểu rằng rồi công sức mà người dân đã bỏ ra để cung phụng các vị vua sẽ được Chúa Trời bù đắp bằng một cuộc sống sung túc. Đó là lý do vì sao nông dân lại sẵn sàng làm lụng để các vị vua và quần thần được sống sung sướng, cung cấp ngô và thịt hươu nai, xây dựng các cung điện nguy nga bởi các vị vua đã ngầm hứa sẽ mang lại những điều tốt lành cho nông dân. Như chúng ta sẽ thấy, các vị vua sẽ gặp nhiều rắc rối với nông dân của mình nếu xảy ra hạn hán, bởi lúc đó dường như họ đã vi phạm lời hứa long trọng của họ.
Từ năm 250 trở đi, dân số Maya (như được phỏng đoán dựa trên số các nền nhà được xác định bằng khảo cổ học), số lăng mộ và các tòa nhà, số những ngày tính theo Lịch Đếm Ngày ghi trên các lăng mộ và các đồ gốm đều tăng mạnh theo cấp lũy thừa và đạt tới đỉnh điểm vào thế kỷ VIII. Những lăng mộ lớn nhất được dựng lên cho tới tận cuối thời kỳ cổ điển. Trong suốt thế kỷ IX, số lượng của cả ba dấu hiệu này trong xã hội Maya phức tạp đều giảm, cho tới khi các nhà khảo cổ nhận ra ngày cuối cùng theo Lịch Đếm Ngày ghi trên một lăng mộ mà họ biết rơi vào baktun 10, khoảng năm 909. Sự suy giảm dân số, công trình kiến trúc và số ngày theo Lịch Đếm Ngày của người Maya giúp chúng ta biết về cái gọi là sự sụp đổ của Maya cổ điển.
Để ví dụ về sự sụp đổ, hãy xem xét chi tiết hơn một thành phố nhỏ nhưng có mật độ dân số lớn, hiện vẫn còn những di tích ở phía tây Honduras trong một vùng có tên là Copán, và đã được mô tả trong hai cuốn sách gần đây của nhà khảo cổ David Webster. Về mặt nông nghiệp, vùng đất canh tác tốt nhất của Copán gồm năm dải đất nhỏ bằng phẳng, màu mỡ dọc theo thung lũng của một con sông, với tổng diện tích chỉ 16,09 kilômét vuông; dải rộng nhất trong năm dải trên có tên là Copán với diện tích chỉ khoảng 8 kilômét vuông. Phần lớn đất đai xung quanh Copán là đồi dốc, và gần một nửa số đồi có sườn dốc trên 16% (gần gấp đôi sườn đồi dốc nhất mà bạn có thể bắt gặp trên một đường cao tốc của Mỹ). Đất đồi kém màu mỡ, nhiều axit và ít phosphate hơn đất thung lũng. Ngày nay, các cánh đồng ngô dưới đáy thung lũng có sản lượng cao gấp hai, ba lần so với những cánh đồng trên các sườn đồi, nơi phải chịu sự xói mòn nhanh và sản lượng giảm tới 3/4 trong vòng một thập kỷ.
Như phán đoán dựa trên số các ngôi nhà, dân số của thung lũng Copán tăng mạnh từ thế kỷ thứ V, và lên tới đỉnh điểm khoảng 27.000 người trong thời gian từ năm 750 - 900. Lịch sử của người Maya được ghi lại bằng chữ viết tại Copán bắt đầu vào thời điểm theo Lịch Đếm Ngày tương ứng với năm 426, khi những đền đài sau này ghi lại rằng một số quý tộc ở Tikal và Teotihuacán đã tới vùng này. Việc xây dựng các đền đài của hoàng gia nhằm tôn vinh các vị vua diễn ra ồ ạt trong giai đoạn từ năm 650 - 750. Từ sau năm 700, không chỉ các vị vua mà ngay cả giới quý tộc cũng tham gia xây dựng những cung điện cho riêng mình, trong đó có khoảng 20 cung điện được xây dựng vào năm 800, có cung điện nguy nga bao gồm 50 phòng có thể chứa được 250 người. Tất cả số quý tộc này và quần thần của mình làm tăng thêm gánh nặng mà các vị vua đã giáng xuống lưng người nông dân. Tòa nhà cuối cùng của Copán được xây dựng vào khoảng năm 800, và ngày tính theo Lịch Đếm Ngày ghi trên một bệ thờ còn chưa hoàn tất có thể ghi tên một vị vua tương ứng thời điểm năm 822.
Các khảo sát khảo cổ về các loại nơi ở khác nhau trong thung lũng Copán cho thấy chúng bị chiếm lĩnh theo một trình tự nhất định. Khu vực canh tác đầu tiên là dải đất lớn Copán trong vùng trũng của thung lũng, sau đó tới lượt bốn vùng đất trũng khác cũng trong thung lũng. Trong thời gian này, dân số cũng tăng lên nhưng người Maya vẫn chưa phải di chuyển lên các ngọn đồi. Bởi vậy, dân số tăng thúc đẩy sản lượng nông nghiệp của những dải đất trũng tăng bằng cách kết hợp một số biện pháp như rút ngắn thời gian để đất hoang, thâm canh hai vụ và có thể xây dựng một số kênh mương tưới tiêu.
Năm 650, con người bắt đầu chiếm lĩnh các sườn đồi, nhưng chúng chỉ được sử dụng làm nông nghiệp trong khoảng một thế kỷ. Tỷ lệ dân số của Copán sinh sống trên các quả đồi, so với số dân trong các thung lũng, thời kỳ đỉnh điểm lên tới 41% tổng dân số, sau đó giảm dần cho tới khi tất cả rời bỏ những quả đồi trở lại sống tập trung trong các vùng đất trũng dưới thung lũng. Nguyên nhân nào khiến con người bị đẩy trở lại thung lũng? Khai quật nền các tòa nhà dưới thung lũng cho thấy chúng được bao phủ bởi một lớp bùn đất có niên đại ở thế kỷ VIII, như vậy những sườn đồi ngày càng bị xói mòn và có thể bị bạc màu. Đất đồi cằn cỗi và có tính axit bị xói xuống thung lũng và phủ lên lớp đất màu mỡ hơn của thung lũng, làm giảm sản lượng nông nghiệp. Người Maya cổ nhanh chóng phải rời bỏ những sườn đồi, trùng hợp với kinh nghiệm của người Maya hiện đại cho rằng những cánh đồng trên các quả đồi ít màu mỡ hơn và đất đồi cũng bạc màu nhanh hơn.
Lý do khiến đất đồi bị xói mòn rất rõ ràng: những khu rừng trước đây che phủ các quả đồi và bảo vệ đất đã bị chặt. Các mẫu phấn hoa được xác định niên đại cho thấy, những rừng thông ban đầu che phủ các vùng cao trên các quả đồi đã bị chặt hết. Những tính toán cho thấy phần lớn số thông này bị chặt để làm củi đun, trong khi số còn lại dùng để xây dựng hay làm những tấm ván lát. Tại các vùng khác của Maya thời kỳ tiền cổ điển, người Maya đã sử dụng phung phí những tấm ván lát dày trong các tòa nhà, sản xuất gỗ lát có lẽ là một nguyên nhân chính gây ra tình trạng phá rừng. Ngoài việc khiến bùn đất bị rửa trôi, tích tụ trong các thung lũng và làm mất đi nguồn cung cấp gỗ cho cư dân trong thung lũng, phá rừng còn có thể bắt đầu gây ra “hạn hán nhân tạo” trong thung lũng, bởi rừng đóng một vai trò quan trọng trong chu kỳ cung cấp nước, phá rừng trên quy mô lớn dẫn tới hậu quả lượng mưa giảm.
Hàng trăm hài cốt khai quật tại các khu vực khảo cổ của Copán đã được nghiên cứu tìm ra dấu hiệu của bệnh tật và suy dinh dưỡng, như xương xốp và những bệnh răng miệng. Dấu hiệu từ số hài cốt này cho thấy sức khỏe của cư dân Copán suy giảm nghiêm trọng trong giai đoạn từ năm 650 tới 850, cả trong tầng lớp quý tộc và bình dân, tất nhiên sức khỏe của thường dân bao giờ cũng kém hơn.
Trở lại vấn đề dân số Copán tăng mạnh trong thời gian những quả đồi bị chiếm lĩnh để trồng trọt hoa màu. Khi chấm dứt canh tác trên những sườn đồi, nghĩa là gánh nặng lương thực cho số dân trước đây sinh sống trên các quả đồi giờ các vùng đất trũng trong thung lũng phải gánh chịu, và ngày càng có nhiều người tranh giành nhau trồng trọt hoa màu trên diện tích đất trũng có 16,09 kilômét vuông. Điều này gây ra tình trạng nông dân đánh lẫn nhau để tranh giành đất đai, giống như người Rwanda ngày nay (Chương 10). Bởi vua Copán không cầu được mưa thuận gió hòa và thịnh vượng để đổi lại quyền lực và cuộc sống xa hoa mà các thần dân cung phụng, nên ông ta sẽ phải là người chịu trách nhiệm trước những thất bát mùa màng. Điều này có thể lý giải tại sao những ghi chép cuối cùng về vua Copán của người Maya là vào năm 822 (ngày cuối cùng theo Lịch Đếm Ngày tại Copán), và tại sao cung điện hoàng gia bị đốt vào khoảng năm 850. Tuy nhiên, sản lượng một số hàng hóa xa xỉ liên tục tăng cho thấy một số quý tộc vẫn cố duy trì lối sống xa hoa của mình sau khi vua đã bị lật đổ, tới tận năm 975.
Dựa trên những mảnh đá vỏ chai có thể xác định niên đại, có thể thấy dân số Copán giảm nhanh hơn những dấu hiệu suy giảm của các vị vua và giới quý tộc. Ước tính dân số Copán vào năm 950 vào khoảng 15.000 người, bằng 54% tổng dân số thời kỳ đỉnh điểm là 27.000 người. Dân số vẫn tiếp tục suy giảm cho tới khi không còn một bóng người trong thung lũng Copán vào năm 1250. Sau này phấn hoa của các loại cây rừng đã xuất hiện trở lại là bằng chứng độc lập cho thấy thung lũng đã hoàn toàn vắng bóng con người, và cuối cùng rừng đã bắt đầu hồi sinh.
Nét phác thảo chung về lịch sử Maya mà tôi vừa trình bày, và minh chứng cụ thể bằng lịch sử Copán, làm rõ lý do tại sao chúng ta phải nghiên cứu “sự sụp đổ của nền văn minh Maya”. Nhưng câu chuyện còn tiếp tục phức tạp hơn nhiều, ít nhất là vì năm lý do.
Thứ nhất, không chỉ có sự sụp đổ quy mô lớn ở xã hội Maya Cổ điển, mà ít nhất trước đó đã có hai sự sụp đổ khác với quy mô nhỏ hơn ở một số vùng khác nhau, một vụ vào khoảng năm 150 khi El Mirado và một số thành phố khác của Maya bị sụp đổ (gọi là sụp đổ thời kỳ tiền Cổ điển), vụ thứ hai (gọi là Gián đoạn Maya) xảy ra vào cuối thế kỷ thứ VI và đầu thế kỷ VII, giai đoạn không có một đền đài nào được dựng lên ở vùng Tikal đã được nghiên cứu kỹ lưỡng. Ngoài ra cũng còn một số vụ sụp đổ thời kỳ hậu Cổ điển trong những vùng có dân cư sống sót sau vụ sụp đổ thời kỳ Cổ điển hay dân số tăng lên sau đó - như vụ sụp đổ của Chichén Itzá vào khoảng năm 1250 và Mayapán khoảng năm 1450.
Thứ hai, sụp đổ thời kỳ Cổ điển rõ ràng chưa phải là sụp đổ hoàn toàn, bởi vẫn còn hàng trăm ngàn người Maya tiếp xúc và chiến đấu chống lại những người Tây Ban Nha – ít hơn nhiều so với dân số Maya đông nhất trong thời kỳ Cổ điển, nhưng vẫn đông hơn nhiều xã hội cổ đại khác được thảo luận chi tiết trong cuốn sách này. Những người sống sót này đã tập trung trong các khu vực có nguồn nước ổn định, nhất là ở phía bắc với những hào chứa nước, vùng đất thấp bờ biển với những giếng nước, gần hồ phía nam, và dọc theo những con sông và những chiếc đầm ở những vùng đất thấp hơn. Tuy nhiên, vì lý do gì đó mà cư dân trong khu vực trước đây được coi là trung tâm của Maya ở phía nam đã biến mất gần như hoàn toàn.
Thứ ba, sự sụp đổ của dân số (như được phỏng đoán theo số những ngôi nhà và những công cụ bằng đá vỏ chai) trong một số trường hợp diễn ra chậm hơn nhiều so với sự suy giảm về số ngày theo Lịch Đếm Ngày, như tôi đã đề cập với trường hợp của Copán. Chỉ có thể chế của vương quyền và Lịch Đếm Ngày là sụp đổ nhanh chóng trong thời kỳ Cổ điển.
Thứ tư, nhiều vụ sụp đổ rõ ràng của các thành phố thực ra chẳng có gì bí ẩn ngoài “chu kỳ quyền lực”, ví như những thành phố cụ thể trở lên mạnh hơn, sau đó suy thoái hay bị chinh phục, rồi lại nổi lên và chinh phục những láng giềng, mà không thay đổi về dân số tổng thể. Ví dụ, năm 562 Tikal thất bại dưới tay của các địch thủ Caracol và Calakmul, vua Tikal bị bắt và bị giết. Tuy nhiên, Tikal sau đó dần dần phục hồi và cuối cùng đã trả được mối thù của mình vào năm 695, rất lâu trước khi Tikal cùng với nhiều thành phố Maya khác bị sụp đổ trong thời kỳ Cổ điển (Ngày cuối cùng ghi trên đền đài của Tikal có niên đại vào năm 869). Tương tự, Copán là vùng đất hùng mạnh cho tới năm 738, khi vua Waxaklahuun Ub’aah K’awil (cái tên được những người tâm huyết với Maya biết đến bởi ý nghĩa rất ấn tượng của nó “Thỏ 18”) bị thành phố đối thủ Quirigua bắt và giết, nhưng sau đó Copán phát triển mạnh trong khoảng 50 năm dưới sự trị vì của nhiều vị vua anh minh.
Cuối cùng, những thành phố ở những vùng khác nhau trên lãnh thổ Maya hưng thịnh và suy vong theo những quỹ đạo khác nhau. Ví dụ, vùng Puuc ở phía tây bắc bán đảo Yucatán, sau khi gần như bị bỏ hoang vào năm 700, đã bùng nổ dân số sau năm 750 trong khi những thành phố khác phía nam đang sụp đổ, và đạt tới đỉnh điểm vào giai đoạn 900- 925, sau đó tới lượt sụp đổ vào giai đoạn từ năm 950 - 1000. Vùng El Mirador, một vùng lớn trung tâm của Maya có một trong những kim tự tháp lớn nhất thế giới, được định cư vào năm 200 TrCN và bị bỏ hoang vào khoảng năm 150, rất lâu trước khi Copán xuất hiện. Chichén Itzá ở bán đảo phía bắc phát triển sau năm 850, trở thành trung tâm của miền bắc vào khoảng năm 1000, và chỉ bị phá hủy trong một cuộc nội chiến vào khoảng năm 1250.
Một số nhà khảo cổ chú trọng vào năm hình thái phức tạp này và không muốn công nhận sự sụp đổ của Maya trong thời kỳ Cổ điển. Nhưng họ đã bỏ qua những thực tế rất rõ ràng làm cơ sở lý giải cho sự sụp đổ của Maya thời kỳ này là: sự biến mất của 90 - 99% dân số Maya sau năm 800, đặc biệt là trong khu vực có số dân đông nhất ở các vùng đất thấp phía nam, và sự biến mất của các vị vua, các Lịch Đếm Ngày và những thể chế văn hóa và chính trị tiên tiến khác. Đó là lý do vì sao chúng ta nói về một sự sụp đổ của Maya thời kỳ Cổ điển, một sự sụp đổ cả về dân số và văn hóa cần được lý giải.
Tôi sẽ tiếp tục trình bày ngắn gọn hai hiện tượng khác có ảnh hưởng tới sự sụp đổ của Maya cần được thảo luận kỹ hơn, đó là: vai trò của chiến tranh và hạn hán.
Trong một thời gian dài, các nhà khảo cổ tin rằng người Maya cổ xưa là một dân tộc hiền lành và yêu chuộng hòa bình. Nhưng giờ chúng ta biết rằng những cuộc chiến của người Maya khốc liệt, kéo dài và không thể giải quyết dứt điểm bởi những hạn chế về cung cấp lương thực và vận tải khiến không một vị vua Maya nào có thể thống nhất toàn vùng thành một đế chế, theo cách mà người Aztec và người Inca đã thống nhất miền trung Mexico và vùng Andes. Các di tích khảo cổ cho thấy các cuộc chiến ngày càng trở nên khốc liệt và diễn ra thường xuyên hơn kể từ sau sự sụp đổ thời kỳ Cổ điển. Bằng chứng này xuất phát từ một số mẫu vật được phát hiện trong vòng 55 năm qua: những cuộc khai quật khảo cổ những công sự lớn xung quanh nhiều khu vực sinh sống của người Maya; những hình họa sinh động về chiến tranh và tù binh trên những đền đài và bình lọ bằng đá (Phụ bản 14), trên những bức tranh tường nổi tiếng được phát hiện tại Bonampak năm 1946; và sự giải mã chữ viết của người Maya, phần lớn là những mô tả của hoàng gia viết về những cuộc chinh phạt. Những vị vua Maya đánh nhau chỉ để bắt người khác làm tù binh, một trong những kẻ thất bại bất hạnh là vua “Thỏ 18” của Copán. Những tù binh bị tra tấn bằng những nhục hình được mô tả rõ ràng trên các đền đài và các bức tranh tường (như tháo khớp ngón tay, nhổ răng, cắt hàm dưới, cắt môi, chặt đầu ngón tay, rút móng tay và đóng đinh xuyên qua môi), đỉnh điểm là giết tù binh bằng những hình thức dã man (diễn ra vài năm sau này) như trói chân tay tù binh ôm một quả cầu, rồi lăn quả cầu xuống dưới những bậc đá của một đền thờ.
Chiến tranh của người Maya diễn ra dưới một số hình thức được ghi lại rõ ràng như: chiến tranh giữa các vương quốc; các cuộc bạo loạn của các thành phố trong một vương quốc chống lại thủ đô để đòi ly khai; và những cuộc nội chiến tiếm đoạt, tranh giành ngôi vua. Tất cả những cuộc chiến này đều được mô tả hay được vẽ trên các đền đài bởi chúng liên quan tới các vị vua và giới quý tộc. Không được coi là đáng được ghi lại trên đền đài, nhưng có lẽ diễn ra thường xuyên nhất là những cuộc chiến tranh giành đất đai của dân thường, khi dân số đã trở nên quá đông và đất đai trở nên chật chội.
Một hiện tượng quan trọng khác để tìm hiểu những sự sụp đổ của Maya là tình trạng hạn hán xảy ra liên miên, được một số nhà khoa học như Mark Brenner, David Hodell, sau này là Edward Deevey và những đồng nghiệp của họ ở trường Đại học Florida đặc biệt chú trọng nghiên cứu, và cũng được đề cập trong một cuốn sách gần đây của Richardson Gill. Những mẫu trầm tích được lấy lên từ những lòng hồ Maya chứa đựng nhiều thông số cho phép chúng ta phỏng đoán những đợt hạn hán và thay đổi khí hậu. Ví dụ, thạch cao (canxi sulphat) kết tủa mà không hòa tan trong một lòng hồ và trở thành các lớp trầm tích khi nước hồ trở nên đặc hơn do bị bay hơi trong một đợt hạn hán. Nước có chứa thành phần oxy nặng được gọi là chất đồng vị oxy-18 cũng trở thành đặc trong những đợt hạn hán, trong khi nước có chứa chất đồng vị nhẹ hơn là oxy-16 thì bị bay hơi. Các loài động vật thân mềm và các loài giáp xác sống trong hồ lấy oxy để tạo thành vỏ của chúng, hiện vẫn còn được bảo quản trong các lớp trầm tích của hồ, đang chờ các nhà khí hậu học phân tích các chất đồng vị oxy đó sau khi các loài động vật nhỏ đã chết từ lâu. Xác định niên đại bằng kỹ thuật các bon phóng xạ của một lớp trầm tích giúp xác định năm xảy ra hạn hán và lượng mưa được phỏng đoán chính xác từ những lớp thạch cao này cùng những tính toán chất đồng vị oxy. Cũng chính những mẫu trầm tích của hồ này cung cấp cho các nhà nghiên cứu phấn hoa những thông tin về nạn tàn phá rừng (thể hiện là phấn hoa từ các loại cây giảm trong khi phấn hoa của các loại cỏ lại tăng), và xói mòn đất (thể hiện qua lớp bùn sét cặn lắng dày và các loại khoáng chất từ đất bị rửa trôi).
Dựa trên những nghiên cứu về các tầng niên đại được xác định bằng kỹ thuật các bon phóng xạ từ mẫu trầm tích của các hồ, các nhà khí hậu học và cổ sinh thái học kết luận rằng trong giai đoạn từ năm 5500 đến 500 TrCN, khí hậu Maya tương đối ẩm ướt. Khí hậu khô hanh trong giai đoạn tiếp theo từ năm 475 đến 250 TrCN, trước khi xuất hiện nền văn minh Maya thời kỳ tiền Cổ điển. Sự phát triển của thời kỳ tiền Cổ điển có thể thuận lợi hơn nhờ chu kỳ khí hậu ẩm ướt trở lại sau năm 250 TrCN. Nhưng sau đó lại là hạn hán kéo dài từ năm 125 đến 250, gắn liền với sự sụp đổ thời kỳ tiền Cổ điển tại El Mirador và những khu vực khác. Sau sự sụp đổ này, khí hậu lại quay trở lại thời kỳ ẩm ướt và dựng lên các thành phố Maya thời kỳ Cổ điển, sau đó tạm thời bị gián đoạn do một đợt hạn hán xảy ra vào khoảng năm 600 khiến Tikal và một số khu vực khác sụp đổ. Cuối cùng, từ khoảng năm 760 bắt đầu xảy ra đợt hạn hán tồi tệ nhất trong vòng 7.000 năm, và lên tới đỉnh điểm vào khoảng năm 800, và có thể đợt hạn hán này gắn liền với sự sụp đổ thời kỳ Cổ điển.
Khi thận trọng phân tích tần suất của hạn hán trong lãnh thổ Maya có thể thấy hạn hán xảy ra theo chu kỳ mỗi 208 năm. Những chu kỳ hạn hán này có thể do những thay đổi nhỏ trong sự tỏa nhiệt của Mặt trời, có thể khiến hạn hán trên lãnh thổ của người Maya khắc nghiệt hơn do sự chênh lệch của lượng mưa ở Yucatán (khô hơn ở phía bắc và ẩm ướt hơn ở phía nam) xuôi dần về phía nam. Chắc hẳn các bạn sẽ cho rằng những thay đổi trong sự tỏa nhiệt của Mặt trời không chỉ ảnh hưởng tới vùng Maya mà còn ảnh hưởng tới cả thế giới, với những mức độ khác nhau. Thực tế, các nhà khí hậu học nhận thấy rằng một số nền văn minh nổi tiếng thời tiền sử ở rất xa vương quốc Maya bị sụp đổ trùng với thời điểm những chu kỳ hạn hán lên tới đỉnh điểm, như vụ sụp đổ của đế chế đầu tiên của thế giới (đế chế Akkadian của Trung Mỹ) vào khoảng năm 2170 TrCN, sự sụp đổ của nền văn minh Moche IV trên bờ biển Peru vào khoảng năm 600, và sự sụp đổ của nền văn minh Tiwanaku tại vùng Andes vào khoảng năm 1100.
Trong giả thuyết đơn giản nhất là hạn hán đã góp phần gây ra những vụ sụp đổ thời kỳ Cổ điển, thì đó có thể là đợt hạn hán xảy ra vào khoảng năm 800 gây ảnh hưởng tới toàn bộ vương quốc và đồng loạt khiến tất cả các trung tâm của người Maya sụp đổ. Thực tế, như chúng ta đã thấy, sụp đổ thời kỳ Cổ điển của các trung tâm diễn ra ở thời điểm hơi khác nhau, trong khoảng thời gian từ năm 760-910, trong khi chưa ảnh hưởng tới những trung tâm khác. Thực tế này khiến nhiều chuyên gia về Maya hoài nghi vai trò của hạn hán.
Nhưng một nhà khí hậu học thận trọng thì sẽ không đưa giả thuyết hạn hán bị đơn giản hóa một cách phi lý. Những dao động dù nhỏ trong lượng mưa