← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 4 NHỮNG DÂN TỘC CỔ XƯA: NGƯỜI ANASAZI VÀ NHỮNG NGƯỜI HÀNG XÓM

Những nông dân trên hoang mạc - Vòng tuổi thân cây - Chiến lược nông nghiệp - Những vấn đề của Chaco và bầy chuột rừng - Sự thống nhất trong vùng - Suy thoái và kết cục của Chaco - Thông điệp từ Chaco.

Trong số những vùng có xã hội bị sụp đổ được đề cập trong cuốn sách này, vùng xa nhất là các đảo Pitcairn và Henderson đã được thảo luận trong chương vừa qua. Ngược lại, những vùng gần người dân Mỹ nhất là vùng Anasazi trong Công viên Văn hóa lịch sử Quốc gia Chaco (hình 9, 10) và Công viên Quốc gia Mesa Verde, nằm ở phía tây nam nước Mỹ, trên đường cao tốc số 57 của bang New Mexico và gần đường cao tốc số 666 của Mỹ, cách nơi tôi ở tại Los Angeles chưa đầy 966 kilômét. Cũng như những thành phố Maya mà chúng ta sẽ nghiên cứu trong chương tiếp theo, những di tích này và những di tích cổ xưa khác của thổ dân Mỹ là những điểm du lịch mỗi năm thu hút hàng ngàn du khách từ những nước phát triển. Một trong những nền văn hóa cổ xưa của khu vực tây nam là Mimbres được các nhà sưu tầm nghệ thuật ưa thích bởi những đồ gồm tinh xảo của nó được trang trí với những mẫu hoa văn và những hình minh họa đời sống thực: một truyền thống độc đáo của một xã hội với dân số chỉ khoảng 4.000 người và phát triển hưng thịnh chỉ trong vài thế hệ trước khi đột ngột biến mất.

Tôi thừa nhận rằng quy mô phát triển của các xã hội tây nam nước Mỹ nhỏ hơn nhiều so với những thành phố Maya, với dân số chỉ vài ngàn chứ không phải hàng triệu người. Do vậy, các thành phố Maya có diện tích rộng hơn nhiều, với những đền đài và nghệ thuật rực rỡ hơn, là sản phẩm của những xã hội được phân tầng sâu sắc hơn mà đứng đầu là những vị vua, và có chữ viết. Nhưng người Anasazi mới là chủ nhân của những công trình kiến trúc bằng đá lớn nhất và cao nhất ở Bắc Mỹ, cho tới khi những tòa nhà chọc trời bê tông cốt thép được xây dựng ở Chicago vào những năm 1880. Mặc dù người Anasazi không có chữ viết như người Maya để cho phép chúng ta xác định chính xác niên đại qua những dòng chữ, nhưng chúng ta sẽ thấy rằng nhiều công trình kiến trúc ở tây nam nước Mỹ có thể được xác định niên đại chỉ trong vòng một năm, từ đó cho phép các nhà khảo cổ có những phân tích thời gian chính xác hơn để tìm hiểu lịch sử các xã hội so với các đảo Phục Sinh, Pitcairn và Henderson.

Ở tây nam nước Mỹ, chúng ta nghiên cứu không chỉ một nền văn hóa đơn độc và sự sụp đổ của nó, mà nghiên cứu cả một loạt các nền văn hóa (xem hình 7). Những nền văn hóa tây nam đã trải qua giai đoạn sụp đổ, tái tổ chức mạnh mẽ hay bị từ bỏ ở những khu vực và thời điểm khác nhau, trong đó có Mimbres vào khoảng năm 1130; Chaco Canyon, North Black Mesa và Virgin Anasazi trong khoảng giữa hoặc cuối thế kỷ XII; chừng khoảng năm 1300 thì tới Verde Mesa và Kayenta Anasazi; Mogollon khoảng năm 1400; và có thể tồn tại tới tận cuối thế kỷ XV như Hohokam, nổi tiếng bởi hệ thống thủy lợi nông nghiệp tinh xảo. Trong khi tất cả những chuyển biến mạnh mẽ này diễn ra trước khi Columbus đặt chân lên Tân Thế giới vào năm 1492, thì văn hóa Anasazi đã không biến mất hoàn toàn như những cư dân của nó: những xã hội thổ dân khác ở tây nam sáp nhập các lớp hậu duệ của mình để tồn tại tới tận ngày nay; như người da đỏ Hopi và Zuni. Vậy điều gì khiến tất cả những xã hội lân cận suy thoái hay đột ngột thay đổi?

Những lý giải ưa thích một chiều cho rằng nguyên nhân là do tổn hại môi trường, hạn hán hay chiến tranh và tục ăn thịt người. Thực tế, nghiên cứu thời tiền sử ở tây nam nước Mỹ không thể sử dụng những lý giải một chiều. Đã có rất nhiều yếu tố xuất hiện nhưng tất cả đều dẫn tới một vấn đề chủ yếu rằng khu vực tây nam nước Mỹ là một môi trường dễ tổn hại và bất lợi đối với nông nghiệp – như phần lớn diện tích thế giới hiện nay. Vùng này có lượng mưa thấp, thất thường, đất chóng bạc màu cùng tỷ lệ tái sinh rừng thấp. Những vấn đề môi trường, đặc biệt là những đợt hạn hán lớn và những đoạn lòng sông, lòng suối bị xói mòn có khuynh hướng diễn ra liên tục với khoảng thời gian lâu hơn cả một đời người hay dài hơn cả khả năng ghi nhớ thông tin qua các câu chuyện kể. Mặc dù khó khăn như vậy, nhưng thật ấn tượng khi thổ dân Mỹ vùng tây nam đã phát triển được những xã hội nông nghiệp tiên tiến tới vậy. Minh chứng cho sự thành công của họ là hiện phần lớn khu vực này vẫn tự trồng trọt để cung cấp lương thực cho một dân số lớn hơn nhiều so với thời Anasazi. Tôi thật sự cảm động và không thể nào quên cảm giác khi tôi lái xe qua những vùng sa mạc rải rác di tích là những căn nhà bằng đá, những chiếc đập và hệ thống thủy lợi của người Anasazi trước đây, và thấy quang cảnh nơi đây rõ ràng bị bỏ hoang, thi thoảng mới có một căn nhà có người ở. Sự sụp đổ của người Anasazi và những xã hội khác ở phía tây nam đem lại cho chúng ta không chỉ một câu chuyện hấp dẫn mà cung cấp thêm tư liệu cho cuốn sách này, minh họa rõ hơn chủ đề về sự kết hợp giữa tác động của con người tới môi trường và hiện tượng thay đổi khí hậu, các vấn đề dân số và môi trường biến thành chiến tranh, những ưu điểm cũng như những nguy cơ của các xã hội tiên tiến, không tự cung tự cấp, phụ thuộc vào hàng hóa xuất, nhập khẩu và các xã hội bị sụp đổ ngay sau khi phát triển cực thịnh về dân số và quyền lực.

Chúng ta có thể tìm hiểu chi tiết về vùng tây nam nước Mỹ thời kỳ tiền sử là nhờ các nhà khảo cổ có hai lợi thế khi tiến hành khảo cổ khu vực này. Thứ nhất là phương pháp phân tích ổ chuột rừng mà tôi sẽ trình bày dưới đây, cho phép chúng ta xác định thời gian thực của các loài thực vật sinh trưởng trong phạm vi vài chục mét tính từ ổ chuột rừng trong khoảng thời gian vài thập kỷ kể từ thời điểm chuột làm tổ. Lợi thế này cho phép các nhà cổ thực vật học tái hiện những thay đổi của thảm thực vật bản địa. Lợi thế thứ hai cho phép các nhà khảo cổ xác định niên đại những công trình kiến trúc với thời gian sát nhất bằng cách tính những vòng tuổi thân cây trong các cây xà gỗ được sử dụng trong công trình, thay vì chỉ dựa trên phương pháp đồng vị phóng xạ mà các nhà khảo cổ ở những nơi khác sử dụng, với sai số không thể tránh được từ 50 tới 100 năm.

Phương pháp vòng tuổi thân cây phụ thuộc vào lượng mưa và nhiệt độ thực tế thay đổi theo mùa ở tây nam, bởi vậy tỷ lệ sinh trưởng của cây gỗ trong từng mùa cũng khác nhau, phương pháp này cũng đúng với các khu vực khác trong các vùng ôn đới. Bởi tại những vùng ôn đới, mỗi năm cây lớn lên lại tạo ra một vòng tuổi, không giống như những cây rừng nhiệt đới sinh trưởng gần như liên tục. Nhưng tây nam là nơi rất thuận lợi để tiến hành nghiên cứu vòng tuổi thân cây so với phần lớn những vùng ôn đới khác, bởi khí hậu khô hanh ở đây giúp bảo quản rất tốt những cây xà gỗ bị chặt từ hơn một ngàn năm trước.

Các nhà khoa gọi phương pháp xác định niên đại theo vòng tuổi thân cây là dendrochronology (trong tiếng Hy Lạp dendron là cây, và chronos là thời gian) và cách tính như sau. Nếu hôm nay bạn chặt một cây gỗ, hoàn toàn có thể dễ dàng đếm số vòng tuổi thân cây bên trong, bắt đầu từ phía bên ngoài (tương ứng với vòng sinh trưởng của cây năm nay), và nếu đếm được 177 vòng tính từ vòng ngoài cùng vào đến giữa thân cây, thì vòng thứ 177 được hình thành vào năm 2005 trừ 177 bằng 1828. Nhưng tất nhiên xác định thời gian của một vòng tuổi thân cây cụ thể trong một cây xà gỗ của người Anasazi cổ đại khó hơn nhiều, bởi bạn không biết năm cây gỗ bị chặt là năm nào. Tuy nhiên, độ rộng của mỗi vòng tuổi thân cây mỗi năm cũng khác nhau, tùy thuộc vào các điều kiện khí hậu của năm đó như mưa hay hạn hán. Bởi vậy, thứ tự những vòng tuổi thân cây trên một mặt cắt ngang giống như một bức điện Morse trước đây chúng ta từng sử dụng; chấm-chấm-gạch-chấm-gạch trong mật mã Morse, rộng-rộng-hẹp-rộng-hẹp trong thứ tự vòng tuổi trên thân gỗ. Thực tế, thứ tự của vòng tuổi thân cây đặc trưng hơn và giàu thông tin hơn mật mã Morse, bởi những cây gỗ thực tế gồm những vòng tuổi thân cây có độ rộng rất khác nhau, chứ không chỉ đơn thuần là dấu chấm hay gạch trong mật mã Morse.

Các chuyên gia vòng tuổi thân cây (gọi là dendrochronologist) bắt đầu bằng cách ghi lại thứ tự những vòng rộng và vòng hẹp trên một cây gỗ đã xác định thời điểm bị chặt trong một năm gần đây, và họ cũng ghi lại thứ tự vòng tuổi thân cây của những cây xà gỗ bị chặt trong những thời điểm không xác định trong quá khứ. Sau đó họ so sánh và liên kết thứ tự những vòng có cùng độ rộng/hẹp đặc trưng của những xà rầm khác nhau. Ví dụ, giả sử năm nay (2005), bạn chặt một cây gỗ 400 năm tuổi (có 400 vòng) và thấy trên mặt gỗ có một thứ tự đặc biệt là năm vòng rộng, hai vòng hẹp và sáu vòng rộng tượng trưng cho 13 năm nằm trong khoảng vòng tuổi từ năm 1643 trở về năm 1631. Nếu bạn cũng tìm thấy thứ tự đặc biệt này bắt đầu từ năm thứ bảy, tính từ vòng ngoài cùng trong một cây xà gỗ không xác định được thời điểm bị chặt có 332 vòng tuổi, thì bạn có thể kết luận rằng cây xà gỗ cổ này được làm từ một cây bị chặt vào năm 1650 (bảy năm sau năm 1643), và cây này bắt đầu được trồng từ năm 1318 (cách thời điểm năm 1650 là 332 năm). Sau đó bạn có thể tiếp tục liên kết cây xà gỗ đó, từ những cây sống trong thời kỳ từ 1318 đến 1650, với những cây xà gỗ cổ hơn, và bạn lại thử so sánh các kiểu vòng tuổi thân cây để tìm ra một cây xà gỗ có kiểu vòng tuổi chứng tỏ nó được làm từ một cây gỗ bị chặt sau năm 1318 và được trồng trước năm 1318, từ đó mở rộng hồ sơ vòng tuổi thân cây di chuyển dần vào sâu hơn trong quá khứ. Bằng cách này, các chuyên gia vòng tuổi thân cây đã dựng được những hồ sơ vòng tuổi thân cây ở một số nơi trên thế giới lên tới hàng ngàn năm. Mỗi hồ sơ này đều rất giá trị đối với một khu vực địa lý mà quy mô phụ thuộc vào hình thái thời tiết bản địa, bởi thời tiết và hình thái sinh trưởng của cây ở mỗi nơi là khác nhau. Ví dụ, bảng niên đại vòng tuổi thân cây cơ bản của khu vực tây nam nước Mỹ có thể áp dụng (với một số dao động) với khu vực từ bắc Mexico tới Wyoming.

Thêm một lợi ích khác của phương pháp vòng tuổi thân cây là độ rộng và cấu trúc của mỗi vòng tuổi thân cây phản ánh lượng mưa và thời gian mưa cụ thể của một năm. Bởi vậy, các nghiên cứu về vòng tuổi thân cây còn cho phép chúng ta tái hiện khí hậu trước đây; ví dụ như chuỗi những vòng rộng cho thấy khí hậu thời gian đó ẩm ướt, và chuỗi những vòng hẹp là khí hậu khô hạn. Bởi vậy, những vòng tuổi thân cây cung cấp cho các nhà khảo cổ khu vực tây nam thời gian chính xác và những thông tin chi tiết về môi trường hằng năm trong khu vực.

Những người đầu tiên đặt chân tới châu Mỹ sinh sống bằng săn bắn và hái lượm và di chuyển tới vùng tây nam nước Mỹ vào năm 11000 TrCN, nhưng có thể còn sớm hơn như một phần quá trình thuộc địa hóa Tân Thế giới từ châu Á của tổ tiên những thổ dân Mỹ hiện đại ngày nay. Nông nghiệp không phát triển tự nhiên ở tây nam nước Mỹ, do không có những loài sinh vật và động vật bản địa có thể thuần hóa. Thay vào đó, những loại hoa màu được du nhập từ Mexico, nơi con người trồng trọt ngô, bí, đậu và nhiều loại hoa màu khác. Ngô du nhập vào tây nam nước Mỹ vào năm 2000 TrCN, bí vào khoảng năm 800 TrCN, đậu thì muộn hơn và bông mãi tới năm 400 mới du nhập vào đây. Cư dân nơi đây còn nuôi cả gà tây, về điều này hiện vẫn đang còn tranh cãi liệu có phải gà tây được thuần hóa đầu tiên ở Mexico và sau đó được du nhập sang tây nam hay ngược lại, hoặc chúng được thuần hóa độc lập ở cả hai nơi. Ban đầu thổ dân Mỹ ở tây nam chỉ tiến hành một số hoạt động nông nghiệp như một phần trong cuộc sống săn bắn, hái lượm của họ, giống như cuộc sống của người Apache hiện đại trong thế kỷ XVIII và XIX. Vào mùa trồng trọt, người Apache định cư ở một chỗ để trồng trọt và thu hoạch hoa màu, sau đó lại sống cuộc sống du mục săn bắn và hái lượm trong suốt thời gian còn lại trong năm. Vào năm 1, một số thổ dân Mỹ ở tây nam đã sống tập trung thành những ngôi làng và chủ yếu phụ thuộc vào hoạt động nông nghiệp và hệ thống kênh mương thủy lợi. Từ đó, dân số tăng mạnh và tản ra khắp vùng cho tới khi bắt đầu suy thoái vào khoảng năm 1117.

Ít nhất đã xuất hiện ba hình thái sản xuất nông nghiệp, tất cả đều có những giải pháp khác nhau để đối phó với khó khăn chính của vùng tây nam, đó là: làm thế nào để có đủ nước trồng trọt hoa màu trong một môi trường đa phần lượng mưa thấp và khó dự báo tới mức hiện nay chỉ duy trì được một số ít hoặc thậm chí chẳng có hoạt động nông nghiệp nào. Một trong ba giải pháp đó là tiến hành các hoạt động nông nghiệp trên những vùng đất khô, có nghĩa là chỉ trồng trọt ở những vùng đất trên cao và hoàn toàn dựa vào lượng mưa ở đó, nơi lượng mưa thực tế đủ để hoa màu sinh trưởng trên những cánh đồng có mưa. Giải pháp thứ hai không phụ thuộc trực tiếp vào lượng mưa trên cánh đồng, mà thay vào đó các cư dân chọn những vùng có mực nước ngầm sát mặt đất đủ để rễ cây có thể hút được. Phương pháp này được áp dụng ở đáy những hẻm núi với những con suối thường xuyên hoặc thi thoảng mới có nước và mực nước ngầm bồi tích nông, như ở hẻm núi Chaco. Phương pháp thứ ba đặc biệt được người Hohokam ưa chuộng và cũng được áp dụng ở hẻm núi Chaco, là dồn nước vào những kênh mương để tưới cho các cánh đồng.

Trong khi có nhiều phương pháp khác nhau được sử dụng ở tây nam để đảm bảo đủ nước tưới cho hoa màu, thì cư dân cũng áp dụng thử nghiệm các biện pháp này ở những địa điểm khác nhau với những chiến lược khác nhau để tìm ra biện pháp tối ưu. Quá trình thử nghiệm kéo dài tới gần một ngàn năm, và nhiều thử nghiệm đã thành công trong hàng thế kỷ, nhưng cuối cùng hầu hết đều thất bại vì những vấn đề môi trường do con người hoặc hiện tượng thay đổi khí hậu gây ra. Mỗi giải pháp cũng đều gây ra những nguy cơ môi trường khác nhau.

Một trong những chiến lược đó là sinh sống ở những vùng đất trên cao, nơi có lượng mưa cao hơn như người Mogollon sống ở vùng núi Verde Mesa, giống như cư dân thời kỳ đầu phát triển nông nghiệp còn gọi là thời kỳ Pueblo I đã làm. Nhưng nguy cơ gắn liền với giải pháp này là khí hậu ở vùng cao lạnh hơn ở vùng thấp, và có những năm khí hậu lạnh tới mức ngay cả hoa màu cũng không phát triển được. Một biện pháp khác trái ngược hoàn toàn với biện pháp trên là trồng trọt ở những vùng đất dưới thấp, thời tiết ở đây ấm áp hơn nhưng lượng mưa lại không đủ cho hoa màu trên những vùng đất khô cằn. Người Hohokam đối phó với khó khăn này bằng cách xây dựng một hệ thống thủy lợi lớn nhất ở châu Mỹ, trừ Peru, với hàng trăm kilômét kênh mương thứ cấp là nhánh của một con kênh chính dài 19,312 kilômét, sâu 4,87 mét và rộng 24,38 mét. Nhưng hệ thống thủy lợi lại gây ra nguy cơ mỗi khi mưa bão, lượng nước mưa quá lớn dồn vào những kênh mương do con người tạo ra, xói mòn lòng mương khiến chúng sâu như những con sông nhỏ và mực nước trong kênh mương thấp hơn đồng ruộng nên cư dân không thể lấy nước tưới cho hoa màu bởi họ không có bơm. Ngoài ra, những cơn mưa lớn hay lũ lụt còn có thể phá vỡ những con đập và kênh mương gây ra lụt lội như thực tế đã từng xảy ra với người Hohokam.

Một chiến lược khác an toàn hơn là chỉ trồng hoa màu ở những khu vực có nguồn nước ngầm và nước mặt ổn định. Giải pháp này được người Mimbres áp dụng đầu tiên, sau đó cư dân hẻm núi Chaco trong giai đoạn phát triển nông nghiệp được gọi là thời kỳ Pueblo II cũng áp dụng. Tuy nhiên, nó lại trở thành sự quyến rũ chết người, khi trong những thập kỷ khí hậu ẩm ướt với những điều kiện thuận lợi cho trồng trọt, hoạt động nông nghiệp được mở rộng sang cả những khu vực khó khăn hơn với nguồn nước ngầm và nước mặt ít ổn định hơn. Trong thời gian đó, dân số trong những khu vực khó trồng trọt này đã tăng lên gấp nhiều lần, nên khi khí hậu quay trở lại thời kỳ khô hanh thì họ không trồng được hoa màu và rơi vào tình trạng đói kém. Số phận này thực tế đã giáng xuống đầu những người Mimbres, những người ban đầu thận trọng trồng trọt ở những đồng bằng cửa sông do nước lũ tạo thành rồi sau đó mở rộng sang vùng đất lân cận, phía trên đồng bằng cửa sông, khi dân số dần tăng lên và vùng đồng bằng không còn khả năng cung cấp đủ lương thực. Với canh bạc này, trong thời kỳ khí hậu ẩm ướt, những người Mimbres đã thoát khỏi khó khăn khi thu hoạch được một nửa sản lượng lương thực cần thiết ở ngoài vùng đồng bằng. Tuy nhiên, khi khí hậu hạn hán quay trở lại, dân số trong vùng đã tăng gấp đôi so với khả năng cung cấp lương thực của vùng đồng bằng và xã hội Mimbres nhanh chóng sụp đổ dưới áp lực dân số.

Vẫn còn một giải pháp khác là lối sống du canh, du cư, nghĩa là chỉ sinh sống trên một vùng đất trong khoảng vài chục năm, khi đất và thú rừng trong khu vực cạn kiệt, cư dân sẽ di cư sang vùng khác. Phương pháp này chỉ có thể áp dụng trong thời kỳ mật độ dân số thấp, còn nhiều đất hoang để du canh du cư, và mỗi vùng đã sinh sống lại được bỏ hoang trong một thời gian đủ để khôi phục thảm thực vật và độ màu mỡ của đất. Phần lớn các khu vực tiến hành khảo cổ ở tây nam nước Mỹ thực tế chỉ là nơi sinh sống của cư dân trong vòng vài chục năm, mặc dù hiện chúng ta chỉ chú ý tới một vài khu vực lớn có cư dân sinh sống liên tục trong vài thế kỷ, như làng Bonito ở hẻm núi Chaco. Tuy nhiên, phương pháp du canh du cư trở nên bất khả thi khi mật độ dân số tăng cao, bởi lúc đó con người đã phủ kín lãnh thổ và không còn đất hoang để di cư nữa.

Một chiến lược nữa là trồng hoa màu ở nhiều nơi bất kể lượng mưa ở đó không ổn định, rồi sau đó thu hoạch hoa màu ở những nơi được mùa do có đủ lượng mưa và phân phối lại một phần cho những người sống tại những vùng năm đó gặp khó khăn do không đủ lượng mưa. Đây là một trong những giải pháp thực tế đã được áp dụng ở hẻm núi Chaco. Nhưng có một khó khăn là việc phân phối lương thực đòi hỏi phải có hệ thống chính trị và xã hội tiên tiến để thống nhất các hoạt động giữa các vùng, và nhiều người đã chết đói khi hệ thống tiên tiến này sụp đổ.

Chiến lược cuối cùng là trồng trọt và sinh sống ngay bên cạnh những nguồn nước ổn định và chắc chắn, nhưng chỉ ở vùng đất phía trên những đường thoát lũ chính để tránh nguy cơ lũ lụt xảy ra có thể quét sạch hoa màu và làng mạc; và áp dụng một nền kinh tế đa dạng, khai thác những vùng sinh thái khác nhau để mỗi khu dân cư đều có thể tự cung tự cấp lương thực. Giải pháp này được các cư dân, hiện lớp hậu duệ vẫn đang sống tại làng Hopi và làng Zuni của tây nam, áp dụng thành công trong khoảng thời gian hơn một ngàn năm. Hiện một số người Hopi và Zuni hiện đại nhìn vào sự xa xỉ của xã hội Mỹ xung quanh họ, lắc đầu và nói: “Chúng tôi đã ở đây từ lâu trước khi các anh tới và chúng tôi sẽ tiếp tục ở đây lâu dài khi các anh ra đi”.

Tất cả những giải pháp này đều phải đối mặt với một nguy cơ lớn bao trùm lên toàn bộ khu vực, đó là: Những năm thời tiết tốt, lượng mưa và mực nước ngầm thuận lợi cho hoạt động nông nghiệp sẽ khiến dân số tăng nhanh và xã hội phát triển tiên tiến hơn, phụ thuộc lẫn nhau nhiều hơn và mất đi sự độc lập của mỗi vùng. Những năm sau này, khi thời tiết xấu đi thì xã hội kiểu này không thể đối phó với những khó khăn và tự hồi phục như xã hội trước đây có dân số ít hơn, ít phụ thuộc lẫn nhau hơn và khả năng tự cung, tự cấp cao hơn. Như chúng ta sẽ thấy, chính tình trạng này đã kết liễu khu dân cư của người Anasazi ở thung lũng Long House và có thể cả ở những vùng khác.

Hoạt động nghiên cứu sâu sắc nhất là hiện tượng rời bỏ nơi sinh sống là những khu cư dân lớn nhất và lạ kỳ nhất của người Anasazi ở hẻm núi Chaco, tây bắc New Mexico. Xã hội Anasazi ở Chaco phát triển phồn thịnh trong khoảng thời gian hơn năm thế kỷ, từ khoảng năm 600, sau đó biến mất vào khoảng thời gian từ năm 1150 đến 1200. Đó là một xã hội có tổ chức tiên tiến, có diện tích địa lý rộng lớn, có tính thống nhất trong vùng cao và họ chính là những người đã dựng lên những tòa nhà lớn nhất Bắc Mỹ, thời kỳ trước khi Columbus đặt chân lên Tân Thế giới. Thậm chí còn cằn cỗi và trơ trụi hơn cả quang cảnh đảo Phục Sinh, hẻm núi Chaco ngày nay với những con sông nhỏ sâu hoắm và hệ thực vật lơ thơ vài bụi cây có thể sống trên vùng đất mặn khiến chúng tôi sửng sốt, bởi hiện hẻm núi này hầu như không có người sinh sống, ngoại trừ vài căn nhà của những người bảo vệ khu Công viên Quốc gia. Vậy tại sao những thổ dân Mỹ cổ xưa lại xây dựng được một thành phố tiên tiến trên vùng đất thiếu sự sống này, và tại sao họ lại ra đi, bỏ mặc tất cả những công trình kiến trúc này?

Khi những thổ dân Mỹ chuyển vào sinh sống trong hẻm núi Chaco vào khoảng năm 600, ban đầu họ sống trong những căn hầm khoét sâu trong lòng đất giống như những thổ dân Mỹ khác hồi đó ở vùng tây nam. Khoảng năm 700, người Anasazi ở Chaco, không có quan hệ gì với những xã hội thổ dân Mỹ khác, bắt đầu xây dựng những công trình kiến trúc bằng đá dài cả ngàn kilômét tới tận miền nam Mexico, với những kỹ thuật xây đá hoàn toàn do họ tự sáng chế ra và dùng đá cuội trang trí trên mặt các phiến đá (Phụ bản 11). Ban đầu, những công trình này chỉ cao khoảng một tầng, nhưng tới khoảng năm 920 thì công trình sau này là làng Bonito lớn nhất của người Chaco đã cao tới hai tầng. Hơn hai thế kỷ sau, chúng đã cao tới 5-6 tầng với 600 căn nhà có cột chống mái là những cây gỗ cao tới 4,87 mét và nặng tới 317,51kg.

Tại sao trong số tất cả các vùng đất của người Anasazi chỉ có hẻm Chaco Canyon có các kỹ thuật xây dựng cùng sự tiên tiến của chính trị và xã hội đạt tới tột đỉnh? Dường như câu trả lời vẫn là những lợi thế môi trường của hẻm Chaco, mà ban đầu là một môi trường màu mỡ, thuận lợi nằm ở tây bắc bang New Mexico. Hẻm núi hẹp này là nơi hứng nước mưa chảy từ các sườn núi và từ vùng cao xuống, do vậy mực nước ngầm bồi tích dâng cao cho phép một số nơi trồng trọt hoa màu mà không phụ thuộc vào lượng mưa, đồng thời tỷ lệ đất phục hồi do xói mòn cũng cao. Vùng đất rộng có thể sinh sống trong hẻm núi và trong vòng hơn 80 kilômét của nó có đủ khả năng cung cấp đủ lương thực để nuôi sống một dân số tương đối lớn trong một môi trường khô hanh như vậy. Vùng Chaco cũng có thảm thực vật đa dạng với nhiều loại động, thực vật hoang dã hữu ích, và ở độ cao tương đối thấp nên thời gian canh tác hoa màu cũng dài hơn. Ban đầu, những khu rừng thông pinyon và bách xù lân cận cung cấp gỗ xây dựng và củi đun. Những cây xà gỗ đỡ mái lâu đời nhất được xác định bằng vòng tuổi thân cây, và hiện vẫn được bảo quản tốt trong điều kiện khí hậu khô hanh của tây nam, chính là những cây thông pinyon bản địa, và những tàn tích của củi đun trong những chiếc lò thời cổ đại cũng là từ những cây thông pinyon và cây bách xù bản địa. Khẩu phần ăn của người Anasazi phụ thuộc nhiều vào việc trồng ngô, cùng với một số bí và đậu, nhưng những tầng khảo cổ sớm cũng cho thấy trong thức ăn của cư dân cổ đại có nhiều loại thực vật hoang dã như loại quả thông pinyon ăn được (chứa 75% protein), và nhiều thực phẩm là thịt hươu săn bắn được.

Đối trọng của tất cả những lợi thế tự nhiên của hẻm Chaco là hai bất lợi lớn do mức độ dễ bị tổn hại của môi trường vùng tây nam. Bất lợi thứ nhất liên quan tới những khó khăn trong việc quản lý nước. Ban đầu, nước mưa chảy tràn như một tờ giấy lớn bao phủ lên toàn bộ đáy hẻm núi bằng phẳng, cho phép hoạt động nông nghiệp ở vùng đồng bằng được tưới bằng cả nước mưa và mực nước ngầm bồi tích cao. Khi người Anasazi bắt đầu điều chỉnh dòng nước vào các kênh mương để tưới tiêu, việc tập trung nước trong các kênh mương và chặt cây rừng để lấy đất trồng trọt, cùng với các quy trình của tự nhiên khiến vào khoảng năm 900, lòng các kênh mương bị khoét sâu biến chúng thành những con sông nhỏ khiến mực nước xuống thấp hơn bề mặt cánh đồng nên không thể tưới tiêu cho nông nghiệp, kể cả trồng trọt hoa màu dựa vào các nguồn nước ngầm cũng bị ảnh hưởng, cho tới khi nước đầy kênh mương. Nước trong những dòng sông nhỏ này có thể dâng lên đột ngột. Cuối những năm 1880, các cư dân thành phố Arizona thuộc Tucson đào một con mương để chặn mực nước ngầm sát mặt đất và hướng dòng nước vào đồng bằng cửa sông. Đáng tiếc, mùa hè năm 1890, nước lũ do mưa lớn tràn vào đầu nguồn mương, chỉ trong vòng ba ngày đã biến nó thành một con sông nhỏ dài chừng 6 dặm (9,65 kilômét), chia cắt đồng bằng cửa sông gần Tucson và khiến nó trở thành mảnh đất vô dụng, không thể trồng trọt nông nghiệp. Các xã hội thổ dân Mỹ thời kỳ đầu ở Tây Nam có thể cũng đã đào những con mương chặn dòng nước ngầm kiểu này và phải hứng chịu những hậu quả tương tự. Người Anasazi ở Chaco đối phó với vấn đề lũ lụt trong hẻm bằng một số cách như: xây dựng các con đập trong các hẻm kế bên phía trên hẻm núi chính để trữ nước mưa; bố trí các cánh đồng để có thể thoát nước mưa; trữ nước mưa chảy từ đỉnh những tảng đá bao bọc xung quanh vách núi phía bắc xuống dưới giữa hai hẻm kế bên; và xây dựng một chiếc đập bằng đá ngang hẻm núi chính.

Một vấn đề môi trường khác ngoài việc quản lý nước là tình trạng phá rừng, được chứng minh bằng phương pháp phân tích ổ chuột rừng. Với những người chưa từng nhìn thấy chuột rừng (cũng giống như tôi vài năm trước), thì không biết ổ của chúng là gì và cũng không thể hình dung chúng liên quan tới thời tiền sử Anasazi như thế nào, sau đây là một giới thiệu ngắn gọn về phân tích ổ chuột rừng. Năm 1849, những người đào vàng đói ăn khi vượt hoang mạc Nevada phát hiện trên một vách đá có một số viên hình tròn lấp lánh có chất liệu như kẹo, khi liếm hoặc ăn thì thấy chúng có vị ngọt, nhưng sau đó thì thấy buồn nôn. Rõ ràng đây là những viên cặn rắn do một loài gặm nhấm nhỏ tạo ra, gọi là chuột rừng, để tự bảo vệ mình bằng cách xây ổ bằng những chiếc que, những mảnh vỏ cây và bằng phân của loài động vật có vú được thu thập ở những vùng xung quanh cùng với thức ăn thừa, xương động vật bỏ đi và phân chuột. Không biết giữ gìn vệ sinh, lũ chuột tiểu luôn trong ổ, nước tiểu của chúng khô đi và kết tinh thành đường và các chất khác, gắn những loại rác thải rắn chắc không kém những viên gạch. Do vậy, những người đào vàng đói ăn đã ăn phải những viên nước tiểu của chuột rừng khô lại trộn lẫn với phân và rác mà chúng tha về.

Theo bản năng, để bảo vệ chiếc ổ của mình và giảm nguy cơ bị các loài thú khác ăn thịt mỗi khi ra khỏi ổ, chuột rừng chỉ kiếm thức ăn là những loại thực vật cách tổ vài chục mét. Sau vài thập kỷ, lũ chuột con cháu rời bỏ ổ và chuyển đi nơi khác làm ổ mới, trong khi nước tiểu kết tinh giữ cho những chất liệu trong ổ cũ không bị phân hủy. Qua việc xác định dấu tích còn lại của hàng chục loài thực vật có trong ổ và được lớp nước tiểu của chuột bảo vệ, các nhà cổ thực vật học có thể tái hiện những loài thực vật mọc gần ổ chuột trong thời gian chúng thu thập tích lũy thức ăn, còn các nhà động vật học có thể tái hiện danh sách động vật từ dấu tích của các loài côn trùng và động vật có xương sống. Bởi vậy, có được một ổ chuột rừng là ước mơ của một nhà cổ thực vật học: nó là một quả nang thời gian bảo vệ mẫu của các loài thực vật bản địa, được thu thập trong phạm vi khoảng vài chục mét kể từ điểm phát hiện và trong thời gian vài chục năm, với thời gian cụ thể có thể được xác định bằng kỹ thuật các bon phóng xạ đối với ổ chuột.

Năm 1975, nhà cổ sinh thái học Julio Betancourt đột nhiên ghé thăm hẻm núi Chaco trong khi đang lái xe đi du lịch xuyên qua bang New Mexico. Nhìn xuống vùng đất trơ trụi xung quanh làng Bonito, ông tự hỏi: “Nơi này trông như một thảo nguyên khô cằn của Mông Cổ, không biết cư dân nơi đây lấy gỗ và củi ở đâu?”. Các nhà khảo cổ khi nghiên cứu những di tích ở đây cũng đặt ra câu hỏi tương tự. Bất chợt, ba năm sau khi một người bạn đề nghị Julio viết một đề án nghiên cứu ổ chuột rừng, ông liền nhớ lại ấn tượng đầu tiên của mình về làng Bonito. Lập tức ông liền điện thoại cho chuyên gia về ổ chuột rừng là Tom Van Devender và được biết Tom đã thu thập được được một số ổ chuột rừng ở khu cắm trại trong Công viên Quốc gia gần làng Bonito. Hầu hết trong số ổ này đều có những lá kim của thông pinyon, hiện không còn trồng trong phạm vi tìm thấy số ổ này chừng vài kilômét, trước đây từng được dùng làm xà đỡ mái trong các giai đoạn đầu tiến hành xây dựng ở làng Bonito, cũng như được tìm thấy ở nhiều than củi trong các bếp lò và những đống rác. Julio và Tom cho rằng số ổ này phải có từ thời những cây thông còn được trồng bên cạnh, nhưng họ không biết chính xác số tuổi của nó, theo họ chắc chỉ chừng một thế kỷ. Bởi vậy, họ gửi những mẫu vật của số ổ này đi giám định niên đại bằng kỹ thuật các bon phóng xạ. Khi nhận được kết quả từ phòng thí nghiệm, Julio và Tom thực sự sửng sốt khi biết rằng có nhiều ổ đã hơn một ngàn năm tuổi.

Kết quả bất ngờ đó làm bùng lên những nghiên cứu về ổ chuột rừng. Ngày nay, chúng ta biết rằng trong điều kiện khí hậu hanh khô của tây nam, rác bị phân hủy rất chậm. Nếu được bảo vệ bởi các yếu tố như nằm dưới một vách đá nhô ra biển hay trong một hang động, những loại ổ này có thể tồn tại tới 40.000 năm, lâu hơn rất nhiều so với dự đoán của bất cứ ai. Như Julio đã cho tôi xem ổ chuột rừng đầu tiên gần khu vực Chaco của người Anasazi ở Kin Kletso, tôi lặng mình khi nghĩ rằng hình như chiếc tổ trông như mới này chắc hẳn phải có từ thời điểm những con lười khổng lồ, những con sư tử châu Mỹ và những con voi ma mút đã bị tuyệt chủng từ Thời kỳ Băng hà vẫn còn đi lại trên những vùng đất nay là lãnh thổ của nước Mỹ.

Trong khu vực hẻm núi Chaco, Julio đã thu thập và tiến hành xác định niên đại bằng kỹ thuật các bon 14 với 50 ổ chuột rừng, và thấy chúng có niên đại khác nhau hầu như trong suốt thời kỳ thịnh suy của nền văn minh Anasazi, từ năm 600 tới năm 1200. Qua đó, Julio có thể tái hiện những thay đổi của thảm thực vật ở hẻm Chaco trong suốt chiều dài lịch sử tồn tại của người Anasazi. Những thông tin thu thập được từ số ổ chuột rừng này cho thấy phá rừng là một trong hai vấn đề môi trường chủ yếu (vấn đề kia là quản lý nước) xuất hiện ở hẻm Chaco vào khoảng năm 1000 do dân số tăng lên. Những ổ chuột rừng xuất hiện trước thời điểm này vẫn còn những lá kim của thông pinyon và bách xù, giống như ổ đầu tiên mà Julio đã phân tích, và giống như ổ mà ông đã cho tôi xem. Bởi vậy, khu vực dân cư của người Anasazi ở Chaco ban đầu được xây dựng trên vùng rừng thông pinyon và bách xù, không giống như quang cảnh trơ trụi ngày nay, tiện cho việc kiếm củi đun và lấy gỗ xây dựng. Tuy nhiên, những ổ có niên đại sau năm 1000 không còn lá thông pinyon và bách xù, chứng tỏ rừng đã bị phá toàn bộ và vùng này trở nên trơ trụi như quang cảnh hiện nay. Nguyên nhân rừng của hẻm Chaco lại bị tàn phá nhanh như vậy cũng giống như tôi đã trình bày trong Chương 2, khi lý giải vì sao đảo Phục Sinh và những đảo có con người sinh sống với khí hậu khô hanh ở Thái Bình Dương lại dường như phá rừng nhanh hơn những đảo có khí hậu ẩm ướt: trong vùng khí hậu khô hanh, tỷ lệ tái sinh của cây trên những vùng rừng bị tàn phá quá chậm so với tốc độ cây bị chặt.

Rừng bị tàn phá không chỉ làm mất quả thông pinyon như một nguồn cung cấp thực phẩm bản địa mà còn buộc cư dân Chaco phải tìm nguồn gỗ khác để đáp ứng nhu cầu xây dựng của mình, những thanh xà gỗ thông pinyon đã hoàn toàn biến mất khỏi những công trình kiến trúc của Chaco. Người Chaco đối phó bằng cách đi rất xa tới những cánh rừng thông vàng (ponderosa), vân sam và linh sam mọc trên những ngọn núi cách nơi ở tới hơn 80 kilômét, trên những vùng đất cao hơn hẻm Chaco tới hàng trăm mét. Không có súc vật kéo, nhưng khoảng 200.000 cây gỗ, mỗi cây nặng tới 317,5kg đã được đưa xuống núi và kéo về hẻm Chaco chỉ bằng sức người.

Một nghiên cứu gần đây của Nathan English, một sinh viên của Julio, cùng làm việc với các nhà khảo cổ Julio, Jeff Dean và Jay Quade đã xác định chính xác hơn nguồn gốc của những cây vân sam và linh sam khổng lồ. Có ba nơi trong vùng Chaco có thể là nơi cung cấp gỗ, cây gỗ mọc ở những vùng đất cao trên ba rặng núi gần như cách đều nhau tính từ hẻm núi, đó là các rặng núi Chuska, San Mateo và San Pedro. Trong số những rặng núi này, chính xác thì người Anasazi ở Chaco đã đốn những cây thông ở rặng nào? Những cây mọc trên ba rặng núi này đều cùng một chủng loại và có hình thức như nhau. Để tìm ra dấu hiệu đặc trưng của chúng, Nathan đã sử dụng các chất đồng vị stronti, một nguyên tố hóa học rất giống với canxi và vì vậy kết hợp cùng với can xi có trong các loài thực vật và động vật. Stronti tồn tại dưới các hình thức (các đồng vị) hơi khác nhau về trọng lượng nguyên tử, trong đó stronti-87 và stronti-86 xuất hiện phổ biến nhất trong tự nhiên. Nhưng tỷ lệ hai loại stronti này lại khác nhau tùy thuộc vào tuổi đá và hàm lượng rubidi của đá, bởi stronti được sinh ra do phân hóa phóng xạ của một đồng vị rubidi. Hóa ra số thông trồng trên ba rặng núi trên khác nhau rõ ràng về tỷ lệ stronti-87 và stronti-86, và không hề trùng nhau một chút nào. Từ sáu di tích của Chaco, Nathan chọn ra 52 cây gỗ thông trên cơ sở các vòng tuổi thân cây cho thấy chúng bị chặt vào khoảng thời gian từ năm 974 tới năm 1104. Kết quả giám định tỷ lệ stronti của hai phần ba số gỗ đó cho thấy chúng được trồng ở rặng núi Chuska, một phần ba trồng ở rặng núi San Mateo, và không có cây gỗ nào từ rặng núi San Pedro. Có một số trường hợp, các công trình kiến trúc của Chaco sử dụng gỗ của cả hai rặng núi trong cùng một năm, hoặc năm nay sử dụng gỗ của núi này thì năm sau sử dụng gỗ của núi khác, hoặc gỗ của cùng một rặng núi được cung cấp cho vài công trình kiến trúc xây dựng trong cùng một năm. Như vậy, có bằng chứng rõ ràng về một mạng lưới từ xa, được tổ chức chặt chẽ để cung cấp gỗ cho thủ phủ của người Anasazi ở hẻm Chaco.

Mặc dù hai vấn đề môi trường này ngày càng nghiêm trọng đã làm giảm sản lượng hoa màu và rõ ràng phá hủy những nguồn cung cấp gỗ ngay trong hẻm Chaco, hay người Anasazi đã nghĩ ra những giải pháp để đối phó với những vấn đề này, nhưng dân số của hẻm vẫn tiếp tục tăng, đặc biệt là trong thời kỳ xây dựng bùng nổ bắt đầu từ năm 1029. Sự bùng nổ này diễn ra đặc biệt mạnh mẽ trong những thập kỷ khí hậu ẩm ướt, khi lượng mưa tăng đồng nghĩa với sản lượng lương thực tăng, dân số tăng và cần nhiều nhà ở hơn. Mật độ dân số được xác định không chỉ bởi Những ngôi nhà vĩ đại (như làng Bonito) cách nhau chừng hơn một kilômét trên sườn phía bắc của hẻm Chaco, mà còn bởi những chiếc lỗ khoan vào mặt vách đá phía bắc để đỡ những rầm xà của mái nhà, chứng tỏ đã có một dãy nhà nối tiếp nhau ngay dưới chân của những vách đá giữa Những ngôi nhà vĩ đại, và những di tích của hàng trăm khu định cư nho nhỏ ở vách phía nam của hẻm núi. Quy mô tổng dân số của hẻm núi hiện vẫn còn chưa xác định và còn nhiều tranh cãi. Nhiều nhà khảo cổ cho rằng nó khoảng dưới 5.000 người và những tòa nhà lớn này có rất ít người cư trú thường xuyên, chủ yếu là các giáo sĩ và nông dân thi thoảng mới tập trung tại đây vào những dịp lễ. Các nhà khảo cổ khác thì lưu ý rằng làng Bonito, chỉ là một trong những tòa nhà lớn tại hẻm Chaco, đã có 600 căn nhà, và tất cả những lỗ cắm cọc cho thấy những căn nhà được dựng chủ yếu dọc theo chiều dài của hẻm núi, vì vậy dân số phải đông hơn số 5.000 nhiều lần. Những tranh cãi về quy mô dân số xuất hiện trong ngành khảo cổ cũng là chuyện bình thường, như đã được thảo luận trong các chương trước của cuốn sách về đảo Phục Sinh và người Maya.

Cho dù số dân là bao nhiêu thì bản thân khu vực Chaco không còn đủ khả năng cung cấp lương thực cho số dân này, và nó trở nên phụ thuộc vào các khu dân cư vệ tinh xa xôi được xây dựng cùng một phong cách kiến trúc và nối với hẻm Chaco bằng một mạng lưới hàng trăm kilômét đường tỏa ra khắp vùng, hiện vẫn còn có thể dễ dàng nhận ra. Những khu dân cư phụ cận này có những chiếc đập để giữ nước mưa, bởi lượng mưa thất thường và phân bố không đều: một cơn dông có thể mang lại lượng mưa rất lớn cho một hoang mạc nhưng hoang mạc cách đó chỉ hơn một kilômét lại không hề có một hạt mưa nào. Những chiếc đập có tác dụng giữ lại lượng nước mưa nếu may mắn có mưa dông, và các cư dân ở đó có thể nhanh chóng trồng hoa màu, tưới tiêu và thu hoạch lượng lớn lương thực ở vùng này trong năm đó. Lượng lương thực dư thừa có thể phân phối cho tất cả những vùng dân cư lân cận năm đó không có mưa.

Hẻm Chaco trở thành một hố đen chỉ nhập khẩu hàng hóa nhưng lại chẳng xuất khẩu mặt hàng hữu hình nào. Nhập vào Chaco là: hàng chục ngàn cây gỗ lớn để xây dựng; đồ gốm (tất cả đồ gốm của hẻm Chaco giai đoạn sau này đều nhập khẩu, có thể do nguồn gỗ làm củi bị cạn kiệt khiến những lò nung gốm của hẻm phải đóng cửa); đá chất lượng cao để chế tạo các công cụ bằng đá; ngọc lam để làm đồ trang sức nhập từ những vùng khác của New Mexico; cọ, đồ trang trí bằng vỏ sò và những chiếc chuông đồng nhập từ Hohokam và từ Mexico như những mặt hàng xa xỉ. Thậm chí lương thực cũng phải nhập khẩu, như một nghiên cứu gần đây đã tìm ra nguồn gốc của những chiếc lõi ngô được khai quật ở làng Bonito khi áp dụng phương pháp chất đồng vị stronti mà Nathan English đã dùng để xác định nguồn gốc của những cây xà gỗ ở làng Bonito. Hóa ra, ngay từ thế kỷ thứ IX, ngô đã được nhập khẩu từ rặng núi Chuska, cách đó hơn 80 kilômét về phía tây (cũng là một trong hai nơi cung cấp gỗ làm xà mái nhà), trong khi một lõi ngô tìm thấy ở làng Bonito được xác định là có niên đại ở thế kỷ XII và được nhập từ vùng lưu vực sông San Juan, cách đó 96,5 kilômét về phía bắc.

Xã hội Chaco trở thành một xã hội quân chủ thu nhỏ, được phân chia thành tầng lớp thượng lưu được ăn ngon và ở trong những ngôi nhà sang trọng và tầng lớp nông dân ăn uống chất lượng kém hơn, phải làm việc và sản xuất lương thực. Hệ thống đường sá và các công trình kiến trúc đã vươn ra toàn vùng chứng tỏ quy mô lớn của khu vực và sự thống nhất hoàn toàn của nền kinh tế và văn hóa Chaco với những vùng xung quanh. Các kiểu nhà cho thấy có ba tầng lớp trong xã hội: Những tòa nhà lớn, gọi là Great Houses, ở ngay trong hẻm núi Chaco (là nơi ở của những thủ lĩnh cai quản bộ tộc?); những căn nhà lớn (Great Houses) nằm ở những vùng phụ cận, phía ngoài hẻm núi (gọi là thủ phủ của địa phận) là nơi ở của các thủ lĩnh cấp trung; và những ngôi nhà nhỏ chỉ có vài phòng (là nhà của nông dân?). So sánh với những căn nhà nhỏ, những căn nhà lớn được xây dựng tinh xảo hơn, được trang trí lộng lẫy hơn với những phòng Kiva lớn dùng để tiến hành các nghi lễ tôn giáo (tương tự như những căn phòng hiện người Pueblo hiện đại vẫn sử dụng), và tỷ lệ diện tích ở so với không gian tổng thể lớn hơn, có thể chứa được nhiều người hơn. Nội thất những căn nhà lớn cũng vượt xa những căn nhà thường với những loại hàng hóa sang trọng nhập khẩu như ngọc lam, cọ, đồ trang trí bằng vỏ sò và những chiếc chuông đồng như đã nói ở trên, cùng với những đồ gốm nhập từ Mimbres và Hohokam. Nơi tập trung nhiều nhất các hàng hóa xa xỉ còn lại tới ngày nay là trong nhà số 33 của làng Bonito, nơi lưu giữ xác của 14 người với 56.000 miếng ngọc lam và hàng ngàn mảnh vỏ sò trang trí, trong đó có một vòng cổ làm từ 2.000 hạt ngọc lam và một chiếc rổ khảm ngọc lam đựng đầy những mảnh ngọc lam và vỏ sò. Còn bằng chứng chứng minh các tù trưởng được ăn ngon hơn nông dân là trong số rác được khai quật gần Những tòa nhà lớn có số xương hươu và linh dương nhiều hơn trong rác của các ngôi nhà nhỏ. Những xương người được tìm thấy cũng chứng tỏ họ cao hơn, được nuôi dưỡng tốt hơn, ít bị suy dinh dưỡng hơn và số trẻ tử vong tại Những tòa nhà lớn cũng thấp hơn.

Vậy tại sao những khu dân cư lân cận lại hỗ trợ trung tâm Chaco, có nghĩa vụ cung cấp gỗ, đồ gốm, đá, ngọc lam và lương thực mà chẳng được nhận lại gì? Câu trả lời có lẽ cũng giống như lý do vì sao các khu vực lân cận của Italy và Anh hiện nay hỗ trợ cho các thành phố như Rome hay London, những nơi cũng không sản xuất ra gỗ hay lương thực nhưng đóng vai trò là những trung tâm chính trị và tôn giáo. Cũng giống như người Italia và người Anh hiện nay, người Chaco không thể không sống trong một xã hội tiên tiến và phụ thuộc lẫn nhau. Có thể họ không còn khả năng quay trở lại những điều kiện sống ban đầu là những nhóm nhỏ du canh du cư và tự cung tự cấp, do cây cối trong hẻm đã bị tuyệt chủng, mực nước trong những kênh lạch xuống thấp hơn mặt cánh đồng, dân số tăng nhanh nên con người đã xuất hiện ở khắp nơi và không còn vùng đất hoang thích hợp nào để có thể di cư tới đó. Khi những cây thông pinyon và bách xù bị chặt xuống, đất bị xói mòn và bạc màu nhanh chóng. Ngày nay, hơn 800 năm sau thời điểm đó, vẫn không có một khu rừng thông pinyon hay bách xù nào mọc lên gần nơi phát hiện những ổ chuột rừng làm bằng những cành cây nhỏ mọc cạnh đó từ thời điểm trước năm 1000. Những vết tích lương thực còn sót lại trong rác tại những khu vực khảo cổ chứng tỏ bùng nổ dân số trong hẻm Chaco khiến lương thực, thực phẩm ngày càng thiếu trầm trọng: thịt hươu trong thức ăn của dân cư đã giảm và được thay thế bằng những loài thú nhỏ hơn có thể săn bắn được, nhiều nhất là thỏ và chuột. Dấu tích những con chuột không đầu có trong hóa thạch phân người (phân khô được bảo quản trong điều kiện khí hậu hanh khô) cho thấy con người thời đó đã bắt chuột trên những cánh đồng, chặt bỏ đầu và tống cả vào miệng.

Công trình kiến trúc cuối cùng tại làng Bonito được nhận diện, có niên đại khoảng mười năm sau năm 1110, là một bức tường bao bọc các ngôi nhà xung quanh phía nam của quảng trường, trước đó được để trống, không vây kín. Dấu hiệu đó cho thấy có sự xung đột: rõ ràng con người thời đó tới làng Bonito không chỉ để tham dự những nghi lễ tôn giáo và nhận các mệnh lệnh, mà còn tới để gây rắc rối. Phương pháp tính vòng tuổi cây cho thấy cây xà gỗ đỡ mái cuối cùng tại làng Bonito và Tòa nhà lớn của Chetro Ketl gần đó bị chặt vào năm 1117, và cây xà gỗ cuối cùng trong hẻm Chaco bị chặt vào năm 1170. Trong những khu vực sinh sống khác của người Anasazi có vô khối bằng chứng về những cuộc xung đột, bao gồm cả dấu hiệu của những kẻ ăn thịt người, cùng với việc những khu dân cư của người Anasazi Kayenta được dựng trên đỉnh những vách đá dựng đứng, cách xa nguồn nước và những cánh đồng có thể hiểu được đó là một trong những vị trí dễ phòng thủ. Những khu vực sinh sống phía tây nam tồn tại lâu hơn Chaco tới tận năm 1250, chiến tranh ở đó rõ ràng đã trở nên khốc liệt, được thể hiện bằng số lượng những bức tường phòng thủ tăng nhanh, cùng với những chiến hào và tháp canh, những ngôi làng rải rác được tập trung thành những pháo đài lớn trên đỉnh đồi. Có bằng chứng cho thấy trong những ngôi làng bị đốt do cố ý, có những thi thể không được chôn cất, những chiếc xương sọ có vết cắt để lột da đầu, cùng những bộ xương có đầu mũi tên vẫn còn mắc trong đó. Sự bùng nổ các vấn đề môi trường và dân số dưới dạng bất ổn xã hội và chiến tranh là một chủ đề thường xuyên được đề cập trong cuốn sách này, cả đối với những xã hội cổ đại (như Phục Sinh, Mangareva, Maya và Tikopia) và cả với những xã hội hiện đại (như Rwanda, Haiti và những xã hội khác).

Dấu hiệu của tục ăn thịt người bắt nguồn từ chiến tranh trong lãnh thổ của người Anasazi là một câu chuyện thú vị. Trong khi tất cả mọi người thừa nhận rằng tục ăn thịt người có thể xảy ra trong những trường hợp cấp thiết do con người quá tuyệt vọng, như nhóm người Donner bị tuyết làm cho mắc kẹt trên đèo Donner trên đường tới California mùa đông năm 1846-47, hay những người Nga quá đói trong thời kỳ thành phố Leningrad bị vây hãm trong Thế chiến Thứ hai, nhưng sự xuất hiện của tục ăn thịt người ngay cả trong trường hợp không cấp thiết hiện vẫn đang gây nhiều tranh cãi. Thực tế, tục ăn thịt người đã được ghi nhận trong hàng trăm xã hội ngoài châu Âu tại thời điểm tiếp xúc đầu tiên với người châu Âu trong những thế kỷ gần đây. Tập tục này xuất hiện dưới hai hình thức: hoặc ăn thịt những kẻ thù bị giết trong chiến tranh hoặc ăn thịt họ hàng thân thích đã chết bởi những lý do tự nhiên. Những người New Guinea mà tôi từng cùng làm việc trong suốt thời gian 40 năm qua đã miêu tả tục ăn thịt người của họ rất đơn giản, và tỏ ra ghê tởm tục chôn cất thân nhân của người phương Tây mà không tỏ lòng kính trọng người chết bằng cách ăn thịt họ. Năm 1965, một trong những công nhân New Guinea giỏi nhất của tôi đã bỏ dở công việc để tham dự buổi tổ chức ăn thịt anh con rể tương lai bị chết. Ngoài ra cũng có nhiều mẫu vật khảo cổ là những xương người cổ đại được tìm thấy trong khung cảnh chứng tỏ họ đã bị đồng loại ăn thịt.

Tuy nhiên, hầu hết các nhà nhân chủng học Mỹ và châu Âu đều coi tục ăn thịt người là man rợ trong xã hội của họ, nhưng họ cũng khiếp sợ khi nghĩ những cư dân cổ đại mà họ ngưỡng mộ và nghiên cứu lại là những kẻ ăn thịt người. Vì vậy, họ phủ nhận sự tồn tại của tập tục này và coi đó là một sự vu khống mang tính phân biệt chủng tộc. Họ bác bỏ tất cả những mô tả về tục ăn thịt người do những người ngoài châu Âu hay các nhà thám hiểm đầu tiên của châu Âu viết ra và coi đó là những lời đồn đại vô căn cứ, họ chỉ tin khi tận mắt xem những thước phim video do một nhân viên chính phủ hay, thuyết phục nhất, do chính một nhà nhân chủng học quay được. Tuy nhiên, không hề có một thước phim nào như vậy tồn tại, vì một lý do hiển nhiên là những người châu Âu đầu tiên gặp gỡ những người bị coi là kẻ ăn thịt người thường tỏ ra phẫn nộ trước tập tục này và đe dọa sẽ bắt giữ ngay kẻ nào dám làm điều đó.

Những phản đối này đã gây tranh cãi xung quanh nhiều báo cáo về dấu tích của con người, với bằng chứng khẳng định sự tồn tại của tục ăn thịt người, được tìm thấy ở các khu vực sinh sống của người Anasazi. Bằng chứng thuyết phục nhất được thu thập từ một ngôi nhà của người Anasazi với những mảnh vỡ, cùng những chiếc xương của bảy người vứt rải rác trong nhà, phù hợp với giả thiết rằng họ đã bị giết trong một cuộc đột kích trong chiến tranh chứ không phải là cách mai táng thông thường. Một số xương bị đập ra, giống như xương của các loài động vật dùng làm thực phẩm bị đập ra để lấy tủy. Những chiếc khác có phần cuối xương nhẵn, dấu tích của xương động vật bị luộc trong những chiếc chảo, những xương không bị luộc không có dấu tích này. Bản thân những mảnh chảo vỡ được tìm thấy trong ngôi nhà này của người Anasazi cũng có dính cặn đạm mioglobin có trong thịt người, chứng tỏ thịt người đã bị nấu trong những chiếc chảo. Nhưng những người hoài nghi vẫn phản đối rằng nấu thịt người trong chảo và đập vỡ xương người không có nghĩa những người khác thực sự đã ăn thịt đồng loại (vậy thì còn lý do nào khác để họ luộc và đập vỡ những chiếc xương vẫn còn rải rác trên sàn nhà?). Dấu hiệu trực tiếp nhất của việc ăn thịt người trong căn nhà này là số phân người khô, được tìm thấy trong bếp lò và vẫn trong tình trạng bảo quản tốt sau gần một ngàn năm bởi khí hậu khô hanh. Số phân này có chứa những protein của thịt người mà trong phân của người bình thường khác không có, thậm chí cả trong phân của những người có nội tạng bị thương hay bị chảy máu. Điều này chứng tỏ khả năng có một kẻ nào đó đã tấn công căn nhà này, giết những người trong nhà, đập vỡ xương và luộc thịt họ trong những chiếc chảo, sau đó rải xương khắp nhà và đại tiện vào bếp lò mà lúc trước hắn vừa nấu thịt các nạn nhân của mình.

Đòn quyết định giáng vào người Chaco là một đợt hạn hán, dựa vào những vòng tuổi thân cây cho thấy xảy ra vào khoảng năm 1130. Trước đó cũng có những đợt hạn hán tương tự xảy ra vào khoảng năm 1090 và 1040, nhưng lần này có một điều khác là cư dân hẻm Chaco giờ đã đông hơn và phụ thuộc nhiều hơn vào những khu dân cư lân cận và chẳng còn vùng đất nào bị bỏ hoang. Hạn hán khiến mực nước ngầm giảm xuống dưới mức rễ cây có thể vươn tới và không thuận lợi cho các hoạt động nông nghiệp; hạn hán nên không có những trận mưa cần thiết cho hoạt động nông nghiệp ở những vùng đất khô hanh và vô hiệu hóa hệ thống thủy lợi. Đợt hạn hán kéo dài tới hơn ba năm trở nên cực kỳ tàn khốc, bởi ngay cả bây giờ những người Pueblo hiện đại cũng chỉ có thể dự trữ ngô trong hai hay ba năm, sau thời gian đó ngô sẽ bị mục hoặc bị sâu mọt phá hoại. Có thể những khu dân cư lân cận trước đây từng cung cấp lương thực cho các trung tâm tôn giáo và chính trị của Chaco đã mất lòng tin vào các tu sĩ Chaco, những người có nghĩa vụ cầu mưa cho hoa màu nhưng không thành công, nên không tiếp tục cung cấp lương thực nữa. Có thể có một kết cục khác đối với cư dân Anasazi ở hẻm Chaco, mà người châu Âu không nhận ra, là những gì đã xảy ra trong cuộc nổi dậy của người da đỏ Pueblo vào năm 1680 chống lại người Tây Ban Nha, cuộc nổi dậy mà người châu Âu đã biết. Tại các vùng trung tâm của người Anasazi tại Chaco, người Tây Ban Nha đã bòn rút lương thực của nông dân bản địa bằng các loại sưu thuế nặng nề, và họ đã nhẫn nhục chịu đựng cho tới khi hạn hán xảy ra đẩy họ vào tình trạng thiếu ăn nên họ đã nổi dậy.

Khoảng giữa năm 1150-1200, các cư dân hẻm Chaco rõ ràng đã rời bỏ nơi này ra đi và vùng đất bị bỏ hoang khoảng 600 năm mãi tới khi những người chăn cừu Navajo đặt chân tới đây. Do người Navajo không biết ai đã xây nên những di tích vĩ đại mà họ tìm thấy, nên họ đã gọi những cư dân mất tích ở đây là Anasazi, nghĩa là “những người cổ xưa”. Điều gì thực tế đã xảy ra với hàng ngàn cư dân Chaco? Bằng phép loại suy cùng với những sự kiện rời bỏ làng mạc khác mà lịch sử ghi nhận trong một đợt hạn hán vào những năm 1670, thì có thể nhiều người đã bị chết đói, một số khác thì giết lẫn nhau và những người sống sót thì chạy trốn tới những khu dân cư khác trong vùng tây nam. Đây chắc hẳn là một cuộc sơ tán có chủ ý, bởi hầu hết trong những căn nhà của người Anasazi không còn những đồ gốm