CHƯƠNG 8 KẾT CỤC BI THẢM CỦA NGƯỜI NORSE Ở GREENLAND
Dẫn nhập - Phá rừng - Tổn hại đất đai - Dân tộc tiền nhân của người Inuit - Sự tồn tại của người Inuit - Quan hệ giữa người Inuit và người Norse - Kết
Trong chương trước, chúng ta đã thấy ban đầu xã hội của người Norse ở Greenland phát triển phồn thịnh như thế nào, nhờ hàng loạt các điều kiện thiên nhiên thuận lợi khi họ mới đặt chân lên hòn đảo. Họ may mắn phát hiện một khung cảnh nguyên sơ chưa một cây gỗ bị chặt, cỏ chưa bị phá, và rất thích hợp cho việc chăn thả gia súc. Họ tới đây đúng vào thời kỳ khí hậu tương đối ôn hòa, hầu như năm nào cũng sản xuất đủ cỏ khô, các tuyến đường biển tới châu Âu không bị đóng băng, người châu Âu đang có nhu cầu sử dụng ngà hải mã xuất khẩu của họ, và không có bất kỳ một thổ dân châu Mỹ nào lai vãng gần các khu định cư hay khu vực săn bắn của người Norse.
Tất cả những thuận lợi ban đầu đó dần dần biến mất mà chính cư dân Norse phải chịu một phần trách nhiệm. Trong khi các yếu tố như khí hậu thay đổi, người châu Âu không còn nhu cầu sử dụng ngà hải mã, và sự xuất hiện của người Inuit, tất cả đều nằm ngoài sự kiểm soát của người Norse, thì người Norse đối phó với những thay đổi như thế nào hoàn toàn phụ thuộc vào họ. Tác động của người Norse tới thiên nhiên là một yếu tố hoàn toàn chủ quan. Trong chương này chúng ta sẽ xem những điều kiện thuận lợi của Greenland thay đổi như thế nào, phản ứng của người Norse trước những thay đổi này, và sự cộng hưởng của hai yếu tố đã đánh dấu chấm hết cho sự tồn tại của xã hội người Norse ở Greenland ra sao.
Người Norse Greenland đã phá hủy môi trường của mình ít nhất dưới ba hình thức: tàn phá thảm thực vật tự nhiên, gây xói mòn đất và bóc những vạt cỏ rậm. Ngay khi chân ướt chân ráo tới Greenland, người Norse đã đốt rừng để lấy đất trồng cỏ, một số cây còn lại thì bị đốn để lấy gỗ và làm củi. Cây cối cũng không thể tái sinh do bị gia súc gặm hoặc giẫm nát, nhất là trong mùa đông, thời điểm nhạy cảm nhất của thực vật bởi đó là lúc chúng không phát triển.
Ảnh hưởng của những tác động này tới thực vật tự nhiên được các bạn chuyên nghiên cứu phấn hoa của tôi đánh giá bằng cách dùng phương pháp carbon phóng xạ xác định niên đại của trầm tích lấy lên từ đáy sông hồ và đầm lầy. Những trầm tích này cung cấp ít nhất năm loại thông số môi trường: toàn bộ những bộ phận của cây như lá hay phấn hoa đều giúp xác định những loại thực vật mọc gần hồ thời kỳ đó; hạt than củi chứng tỏ có cháy rừng xảy ra gần đó; những thông số về độ nhạy từ tính ở Greenland chủ yếu phản ánh khối lượng khoáng sản sắt từ tính có trong trầm tích, xuất hiện trên đất mặt bị rửa trôi hay bị thổi xuống đáy hồ; và tương tự cát cũng bị rửa trôi hay bị thổi xuống hồ.
Kết quả nghiên cứu trầm tích của hồ giúp tái tạo bức tranh thực vật xung quanh các trang trại của người Norse như sau. Kết thúc Kỷ Băng hà cuối cùng, nhiệt độ ấm lên, số hạt phấn hoa chứng tỏ các loại cây gỗ đã bị thay thế bằng cỏ và cây lanh. Trong suốt thời gian 8.000 năm tiếp theo, hệ thực vật tiếp tục có thêm vài thay đổi, và chỉ có rất ít hoặc hoàn toàn không có dấu hiệu phá rừng và xói mòn – cho tới khi người Viking đặt chân tới đây. Sự kiện đó được đánh dấu bằng một lớp than củi do người Viking đốt rừng để lấy đất trồng cỏ cho gia súc. Số lượng phấn hoa của cây liễu và bulô giảm, trong khi phấn hoa của cỏ, lau lách và các loại cây thân cỏ mà người Norse mang tới đây để làm thức ăn cho gia súc tăng lên. Những giá trị của độ nhạy từ tính tăng lên cho thấy lớp đất mặt bị rửa trôi xuống hồ do bị mất lớp thực vật che phủ trước kia bảo vệ đất khỏi bị gió và nước làm cho xói mòn. Cuối cùng, cát dưới lớp đất mặt cũng bị cuốn trôi khi toàn bộ lớp thực vật và đất mặt của các thung lũng đã bị bóc đi. Tất cả những thay đổi này đều đảo ngược sau khi người Viking bị diệt vong vào những năm 1400, với những dấu hiệu cho thấy thiên nhiên đang hồi sinh. Rồi chính những hiện tượng này lại xuất hiện trở lại sau năm 1924, khi chính quyền Greenland, thuộc Đan Mạch phục hồi đàn cừu sau 500 năm chúng bị diệt vong cùng những người chủ của chúng.
Vậy thì sao? - một người theo chủ nghĩa hoài nghi lý do môi trường có thể sẽ hỏi như vậy. Thật buồn cho đám liễu, nhưng còn con người thì sao? Hóa ra phá rừng, xói mòn và bóc những vạt cỏ rậm sau này đều gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho người Norse. Hậu quả rõ ràng nhất của phá rừng là người Norse nhanh chóng lâm vào tình trạng thiếu gỗ, giống như người Iceland và Mangareva. Những loại cây như liễu, bulô, và bách xù đều là những cây thấp và có thân gỗ mỏng chỉ đủ để làm vật dụng nhỏ trong gia đình. Để có những khúc gỗ lớn hơn dùng làm xà nhà, đóng thuyền, làm búa, đóng thùng rượu, làm vách nhà và đóng giường, người Norse phải phụ thuộc vào ba nguồn cung cấp gỗ chính: gỗ từ vùng Siberia trôi dạt vào các bờ biển, gỗ nhập khẩu từ Na Uy, và gỗ mà người Greenland chặt từ vùng bờ biển Labrador (còn gọi là “Markland”) được phát hiện trong quá trình thám hiểm Vinland. Rõ ràng gỗ hiếm hoi tới mức các vật dụng bằng gỗ thường được tái sử dụng chứ ít khi bị bỏ đi. Điều này có thể suy luận từ hiện tượng đa số các tàn tích của người Norse Greenland đều không có những tấm ván gỗ hoặc đồ đạc bằng gỗ loại lớn, ngoại trừ trong những ngôi nhà ở Khu Tây mà những người Norse cuối cùng đã chết. Tại một di chỉ khảo cổ nổi tiếng ở Khu Tây có tên “Trang trại dưới cát”, được bảo quản tuyệt hảo do nằm dưới những lớp cát dưới đáy sông lạnh giá, phần lớn gỗ được tìm thấy ở những tầng có niên đại muộn chứ không phải ở những tầng có niên đại sớm hơn. Điều này một lần nữa cho thấy gỗ của những căn phòng hoặc những ngôi nhà cũ cũng rất quý giá nên không bị vứt đi mà được tận dụng khi sửa chữa hay xây dựng những ngôi nhà khác. Người Norse cũng đối phó với tình trạng thiếu gỗ bằng cách bóc những vạt cỏ rậm để làm tường nhà và để đun, nhưng chúng ta cũng sẽ thấy rằng giải pháp này cũng gây ra hàng loạt vấn đề về môi trường.
Một câu trả lời khác cho câu hỏi “vậy thì sao?” trước tình trạng phá rừng là: thiếu củi. Không giống như người Inuit biết cách sử dụng mỡ cá voi để sưởi ấm và thắp sáng nơi ở, những tàn tích trong ngôi nhà của người Norse cho thấy họ liên tục dùng gỗ cây liễu và cây tổng quán sủi để làm củi trong nhà. Một nhu cầu lớn về củi khác mà những người hiện đại chúng ta chắc chẳng bao giờ nghĩ ra, đó là dùng trong sản xuất bơ sữa. Sữa là nguồn thực phẩm mau hỏng và ẩn chứa những nguy hại. Chúng ta cho rằng sữa hiển nhiên rất tốt cho sức khỏe con người, nhưng đó cũng là môi trường cư trú rất tốt của vi khuẩn, nó sẽ nhanh chóng bị hỏng nếu không tiệt trùng và để lạnh, thế nhưng người Norse, cũng như tất cả các dân tộc cổ đại khác, lại không làm như vậy. Bởi vậy, những chiếc thùng mà người Norse dùng để dồn, đựng sữa và làm pho mát phải được thường xuyên rửa sạch bằng nước sôi, và phải rửa mỗi ngày hai lần trong trường hợp đựng sữa. Gia súc được vắt sữa tại các saeter (những nông trang mùa hè được xây dựng trên đỉnh đồi) thường được giới hạn ở độ cao dưới 396 mét, cao hơn mức này sẽ không có củi để đun nước sôi, mặc dù cỏ mọc trên những vùng đất cao tới 762 mét này, lại tốt cho gia súc. Chúng ta đều biết rằng, các seater của cả Iceland và Na Uy đều phải đóng cửa khi không còn kiếm đâu ra củi, và giả thiết này cũng có thể được đặt ra với Greenland. Cũng do không có đủ gỗ nên người Norse đã sử dụng những loại vật liệu khác làm chất đốt thay cho số củi hiếm hoi, như xương, phân động vật hoặc cỏ rậm. Nhưng những giải pháp này cũng có những bất lợi: xương và phân động vật nên dùng làm phân bón cho đồng cỏ để tăng năng suất cỏ khô, và cắt cỏ làm chất đốt cũng có nghĩa là phá hủy ngành chăn nuôi gia súc.
Những hậu quả nặng nề khác của phá rừng, ngoài việc thiếu gỗ và củi, còn liên quan tới tình trạng thiếu sắt. Người Scandinavia tinh chế sắt từ quặng đầm lầy - nghĩa là chiết xuất kim loại từ trầm tích của đầm lầy có hàm lượng sắt thấp. Quặng đầm lầy sẵn có tại Greenland, cũng như Iceland và Scandinavia: Christian Keller và tôi đã nhìn thấy những đầm lầy đầy váng sắt tại Gardar ở Khu Đông, và Thomas McGovern cũng thấy những đầm lầy như thế ở Khu Tây. Vấn đề ở đây không phải là việc tìm ra quặng sắt đầm lầy ở Greenland, mà là chiết xuất sắt, bởi việc này đòi hỏi phải sử dụng rất nhiều gỗ để đốt thành than củi nhằm tạo ra lửa có nhiệt độ cao cần thiết. Thậm chí, kể cả khi người Greenland bỏ qua bước này bằng cách nhập khẩu sắt thỏi từ Na Uy, thì họ vẫn cần than củi để chế tạo sắt thành những công cụ cần thiết, tạo hình, sửa chữa và tái sản xuất công cụ bằng sắt, những công việc thường xuyên của họ.
Chúng ta biết rằng người Greenland sở hữu những công cụ bằng sắt và từng làm việc với sắt. Nhiều trang trại lớn của người Norse Greenland hiện vẫn có dấu tích của những chiếc lò rèn và xỉ sắt, mặc dù điều đó không có nghĩa là những lò rèn này từng được sử dụng để rèn sắt nhập khẩu hay để chiết xuất quặng sắt đầm lầy. Tại các di chỉ khảo cổ của người Viking ở Greenland, người ta đã tìm thấy mẫu vật của những vật dụng bằng sắt thông thường được sử dụng trong xã hội Scandinavia thời Trung cổ, bao gồm lưỡi rìu, lưỡi hái, dao, kéo xén lông cừu, đinh thuyền, lưỡi bào của thợ mộc, dùi đục lỗ và những chiếc khoan.
Nhưng những di chỉ này cũng cho thấy một điều rõ ràng rằng người Greenland cực kỳ thiếu sắt, thậm chí cả khi so sánh với người Scandinavia thời Trung cổ, nơi tài nguyên sắt cũng không phải là dồi dào. Chẳng hạn, đinh và những vật dụng bằng sắt khác được tìm thấy tại các khu vực sinh sống của người Viking ở Anh và ở Shetland, và thậm chí cả ở Iceland và ở khu vực L’Anse aux Meadows của Vinland vẫn nhiều hơn nhiều so với những gì tìm thấy ở Greenland. Những chiếc đinh sắt hỏng là vật dụng phổ biến nhất ở L’Anse aux Meadows, và rất nhiều chiếc khác cũng được tìm thấy ở những di chỉ khảo cổ của Iceland, mặc dù gỗ và sắt của Iceland cũng chẳng nhiều nhặn gì. Nhưng tình trạng thiếu sắt của Greenland là cực kỳ trầm trọng. Chỉ có vài chiếc đinh sắt được tìm thấy trong những tầng khảo cổ có niên đại sớm nhất, và hầu như không tìm thấy chiếc nào ở những tầng khảo cổ muộn hơn, bởi khi đó sắt đã trở thành vật liệu quý hiếm khó có thể vứt bỏ. Không một thanh gươm hay mũ giáp sắt, dù chỉ là một mẩu, được tìm thấy ở Greenland, mà chỉ có một vài đoạn xích trên áo giáp, có thể là của cùng một bộ áo giáp. Các công cụ bằng sắt được tái sử dụng, được mài đi mài lại cho tới khi mòn tới tận gốc. Như trong những lần khai quật tại thung lũng Qorlortoq, tôi đã rất cảm động khi tìm thấy một con dao lưỡi hầu như đã mòn hết, nhưng vẫn được gắn vào một chiếc cán quá dài so với nó, và rõ ràng nếu mài cho sắc thì vẫn có thể dùng được.
Tình trạng kiệt quệ sắt của người Greenland thể hiện rất rõ qua nhiều đồ vật khác, được tìm thấy ở những khu vực khảo cổ, mà người châu Âu thường làm bằng sắt nhưng người Greenland lại làm bằng những vật liệu khác, rất bất ngờ. Những đồ vật này bao gồm đinh làm bằng gỗ và đầu mũi tên làm bằng gạc tuần lộc caribu. Biên niên sử năm 1189 của Iceland mô tả sự ngạc nhiên khi người ta phát hiện một chiếc thuyền của Greenland trôi dạt sang Iceland được đóng bằng những chiếc đinh không phải bằng sắt mà bằng những chốt gỗ, sau đó được xâu với nhau bằng tấm sừng hàm cá voi. Tuy nhiên, hình ảnh những người Viking dữ tợn với những chiếc rìu chiến điêu luyện khiến đối phương khiếp sợ, giờ cũng không còn mấy hiệu quả do rìu được chế tạo từ xương cá voi và đây chắc là nguyên nhân chính khiến họ bị thất bại về mặt quân sự.
Thiếu sắt cũng làm giảm hiệu quả của các phương thức sản xuất chính của nền kinh tế Greenland. Chỉ với vài chiếc hái, vài chiếc dao rựa và vài chiếc kéo xén lông cừu được làm bằng sắt, còn lại hoặc được làm bằng xương động vật, hoặc từ đá khiến nông dân Greenland mất nhiều thời gian thu hoạch cỏ khô hơn, tốn nhiều công sức làm thịt gia súc và xén lông cừu hơn. Nhưng một hậu quả tức thời, nghiêm trọng hơn đó là do thiếu sắt, người Norse bị mất lợi thế quân sự so với người Inuit. Ở bất cứ nơi nào trên thế giới, trong vô vàn những trận chiến giữa những người châu Âu đi xâm chiếm thuộc địa với người bản xứ mà họ gặp, thì gươm và áo giáp sắt luôn là những lợi thế lớn của người châu Âu. Trong cuộc chinh phạt Đế chế Inca ở Peru của người Tây Ban Nha vào năm 1532-1533, xảy ra năm cuộc chiến chỉ với số người Tây Ban Nha tương ứng là 169, 80, 30, 110 và 40 người nhưng đã tàn sát những đội quân hàng ngàn, thậm chí hàng chục ngàn người Inca mà không một người Tây Ban Nha nào bị giết, mà chỉ vài người bị thương - bởi người Tây Ban Nha có gươm sắt chém đứt áo giáp bằng vải bông của người da đỏ, và áo giáp sắt bảo vệ an toàn cho người Tây Ban Nha trước những vũ khí bằng gỗ hoặc đá của người da đỏ. Nhưng cũng không có bằng chứng rằng người Norse Greenland sau vài thế hệ đầu tiên đã đánh mất hoàn toàn vũ khí và áo giáp sắt, chỉ còn lại một bộ áo giáp sắt lưới (làm bằng những vòng kim loại xâu vào nhau), có những đoạn xích mà các nhà khảo cổ phát hiện, mà nhiều khả năng bộ áo giáp ấy là của một người châu Âu nào đó ghé qua đây hơn là của người Greenland. Thay vào đó, họ xung trận với cung, tên và giáo giống như người Inuit. Cũng không có bất kỳ bằng chứng nào chứng tỏ người Norse Greenland đã dùng ngựa để lập nên những đội kỵ binh vốn mang lại những lợi thế rất lớn cho người Tây Ban Nha khi chiến đấu với người Inca và người Aztec. Chắc chắn những người bà con Iceland của họ không dùng ngựa. Người Norse Greeland cũng không được huấn luyện kỹ năng quân sự, bởi vậy cuối cùng họ chẳng còn một lợi thế quân sự nào so với người Inuit và phải hứng chịu những hậu quả thảm khốc mà sau này chúng ta sẽ thấy.
Bởi vậy, chính những tác động của người Norse tới thiên nhiên khiến họ thiếu gỗ, nhiên liệu và sắt. Hai hình thái tác động chính khác, xói mòn đất và bóc những vạt cỏ rậm, khiến họ thiếu đất canh tác. Trong Chương 6, chúng ta đã biết đất núi lửa nhẹ, dễ tổn hại của Iceland có nguy cơ xói mòn cao như thế nào. Đất của Greenland không thuộc loại quá nhạy cảm như đất Iceland, nhưng nó vẫn bị xếp loại tương đối dễ bị tổn hại so với tiêu chuẩn thế giới, bởi thời gian trồng trọt có khí hậu mát mẻ của Greenland ngắn khiến thực vật tăng trưởng chậm, đất hình thành chậm và lớp đất mặt mỏng. Thực vật tăng trưởng chậm khiến hàm lượng đất mùn và sét hữu cơ trong đất thấp, đây là những thành phần cần thiết giúp giữ nước và giữ ẩm cho đất. Bởi vậy đất của Greenland rất dễ bị khô do thường xuyên có những đợt gió mạnh.
Trình tự xói mòn đất diễn ra ở Greenland như sau: Đầu tiên là việc chặt đốn hoặc đốt những cây gỗ hoặc cây bụi che phủ mặt đất, có tác dụng giữ đất tốt hơn cỏ. Sau khi các loại cây gỗ và cây bụi đã bị chặt hết, thì tới các loại gia súc, nhất là cừu và dê, gặm sạch cỏ, mà trong điều kiện khí hậu của Greenland, cỏ thường tái sinh rất chậm. Khi lớp cỏ bao phủ bị bóc đi, để mặt đất trơ trụi lộ ra thì rất có thể đất bị những cơn gió mạnh làm xói mòn, hoặc bị những cơn mưa lớn rửa trôi, tới mức diện tích lớp đất mặt bị bóc có thể rộng tới hàng kilômét vuông, diễn ra trong khắp thung lũng. Trong những vùng có cát, như châu thổ của các con sông, cát sẽ bị gió bốc lên và cuốn đi xa.
Trầm tích trong ao hồ và trong đất chứa đựng những thông tin cho thấy xói mòn đất ở Greenland diễn ra nghiêm trọng sau khi người Norse đặt chân lên đảo, lớp đất mặt và sau đó là cát bị gió thổi tung và bị nước rửa trôi xuống ao hồ. Như tại một trang trại của người Norse bị bỏ hoang mà tôi đã đi qua, ở cửa vịnh Qoroq nằm trong hướng gió thổi từ một sông băng, rất nhiều đất đã bị những cơn gió mạnh cuốn đi, tới mức chỉ còn trơ lại những tảng đá. Tình trạng xói mòn cát do gió cuốn diễn ra rất phổ biến ở các trang trại của người Norse, một số trang trại bỏ hoang tại vùng Vatnahverfi bị cát phủ dày tới 3,04 mét.
Ngoài xói mòn đất, người Norse còn có những hành động vô tình làm đất trở nên vô dụng, đó là việc họ bóc những vạt cỏ rậm để làm nhà và làm chất đốt, do thiếu gỗ và củi. Hầu như tất cả những căn nhà của Greenland đều được xây dựng chủ yếu bằng loại đất này, thông thường chỉ có móng nhà bằng đá và một số xà gỗ đỡ mái. Thậm chí thánh đường St. Nicholas ở Gardar chỉ có 1,82 m tường bên dưới làm bằng đá, còn bên trên là bằng những vạt cỏ rậm, với mái được đỡ bằng xà gỗ và lợp bằng ván gỗ. Mặc dù nhà thờ Hvalsey là trường hợp ngoại lệ có tường hoàn toàn bằng đá, nhưng mái vẫn lợp bằng những vạt cỏ rậm. Những bức vách làm bằng những vạt cỏ rậm của Greenland dày tới 1,82 mét để chống lại khí hậu lạnh giá.
Ước tính một ngôi nhà rộng ở Greenland phải bóc tới 10 mẫu Anh (4 hecta) cỏ rậm. Hơn nữa, những vạt cỏ rậm này không dùng mãi được, mà chúng sẽ bị hỏng dần và sau vài chục năm, ngôi nhà lại phải thay một vạt cỏ rậm mới. Người Norse gọi việc bóc những vạt cỏ rậm để làm tường nhà là “bóc cánh đồng”, một cụm từ miêu tả rất rõ ràng những thiệt hại sau này đối với những đồng cỏ chăn thả gia súc. Tỷ lệ tái sinh của cỏ ở Greenland diễn ra rất chậm, có nghĩa là thiệt hại của nó kéo dài.
Một lần nữa, khi nghe nói về xói mòn đất và bóc những vạt cỏ rậm, người hoài nghi có thể lại hỏi: “Vậy thì sao?”. Câu trả lời rất đơn giản, nên nhớ rằng trong số những hòn đảo có người Norse sinh sống ở Đại Tây Dương, thậm chí ngay cả trước khi con người đặt chân lên đây, Greenland đã là đảo có khí hậu lạnh giá nhất, bởi vậy đây cũng là nơi có điều kiện bất lợi nhất cho trồng cỏ và sản xuất cỏ khô, và cũng là nơi lớp thảm thực vật dễ bị mất đi do chăn thả gia súc quá mức, xói mòn đất và bóc những vạt cỏ rậm. Một trang trại phải có một diện tích đồng cỏ đủ để nuôi số gia súc tối thiểu nhằm gây dựng lại đàn gia súc sau một mùa đông lạnh giá kéo dài khiến lượng gia súc bị giảm sút, trước khi một mùa đông mới, dài đằng đẵng lại tới. Các kết quả nghiên cứu cho thấy, chỉ 1/4 tổng diện tích cỏ tại Khu Đông hay Khu Tây bị mất cũng khiến quy mô đàn gia súc giảm xuống dưới ngưỡng tối thiểu cần thiết. Đây là thực tế đã xảy ra ở Khu Tây, và có thể là cả với Khu Đông.
Cũng như ở Iceland, các vấn đề môi trường từng gây khó khăn cho người Norse thời Trung cổ thì hiện vẫn là mối lo lắng của người Greenland hiện đại. Trong khoảng thời gian 500 năm, sau khi người Norse bị diệt vong, nằm dưới sự chiếm giữ của người Inuit và sau này là thuộc địa của người Đan Mạch, môi trường của đảo không hề bị ảnh hưởng bởi hoạt động chăn thả gia súc. Cuối cùng, năm 1915, trước khi những nghiên cứu gần đây về những tác động môi trường thời kỳ Trung cổ được tiến hành, người Đan Mạch đã thử phục hồi chăn nuôi cừu Iceland ở đây, và đàn cừu gây giống chính thức đầu tiên đã được phục hồi ở trang trại tại Brattahlid vào năm 1924. Bò cũng được nuôi thử nhưng sau đó phải chấm dứt bởi tốn quá nhiều công sức.
Hiện nay, khoảng 65 gia đình Greenland lấy việc nuôi cừu làm nghề chính, do vậy tình trạng chăn thả gia súc quá mức và xói mòn đất lại tái diễn. Trầm tích của các hồ ở Greenland cho thấy, những hiện tượng thay đổi từ năm 1924 giống hệt như những thay đổi đã từng diễn ra từ năm 984, đó là: lượng phấn hoa của các loại cây giảm, lượng phấn hoa từ cỏ dại và cỏ trồng tăng, lượng đất mặt bị rửa trôi xuống hồ cũng tăng. Từ năm 1924, ban đầu cừu được thả rông trong mùa đông để chúng tự tìm thức ăn những khi khí hậu mùa đông ôn hòa. Tình trạng này khiến thực vật bị tổn hại nghiêm trọng bởi đây là thời điểm chúng phát triển chậm nhất. Bách xù là loại cây bị ảnh hưởng đặc biệt, bởi mùa đông cả cừu và ngựa đều gặm những cành non của chúng khi không còn gì để ăn. Khi Christian Keller tới Brattahlid năm 1976, những cây bách xù vẫn còn mọc ở đây, nhưng năm 2002, khi tôi tới thì chỉ còn nhìn thấy đúng một cây bách xù đã chết.
Sau khi hơn một nửa đàn cừu của Greenland bị chết đói trong mùa đông lạnh giá năm 1966 - 1967, chính quyền đã thành lập Trạm Thí nghiệm Greenland để nghiên cứu những tác động tới môi trường từ việc chăn nuôi cừu bằng cách so sánh thực vật và đất ở những vùng bị chăn thả gia súc quá mức với những vùng chăn thả gia súc ít hơn và những cánh đồng có rào chắn cừu. Một phần trong dự án nghiên cứu này là việc tuyển dụng các nhà khảo cổ để nghiên cứu những thay đổi của đồng cỏ trong các giai đoạn sinh sống của người Viking. Sau khi hiểu rõ mức độ dễ bị tổn hại của Greenland, người dân đảo này đã làm rào chắn tất cả những đồng cỏ dễ bị tổn hại nhất, nhốt cừu trong chuồng trong suốt cả mùa đông. Cư dân Greenland cũng nỗ lực nâng cao sản lượng cỏ khô bằng cách bón phân cho những đồng cỏ tự nhiên, trồng thêm cây yến mạch, lúa mạch đen, cỏ đuôi mèo và những loài cỏ ngoại nhập khác.
Cho dù có những nỗ lực như vậy, nhưng xói mòn đất vẫn là một vấn đề lớn của Greenland ngày nay. Dọc theo các vịnh ở Khu Đông, tôi đã thấy những vùng đất trơ trụi toàn đá và sỏi, thực vật đã biến mất trên diện tích lớn do tình trạng chăn thả cừu quá mức. Trong 25 năm qua, gió mạnh cũng đã làm xói mòn đất đai của nhiều trang trại hiện đại ở trong chính những khu vực trang trại trước kia của người Norse, tại cửa thung lũng Qorlortoq, do vậy đây được coi là một mô hình cho chúng ta thấy những gì đã xảy ra tại trang trại này bảy thế kỷ trước. Mặc dù cả chính quyền Greenland lẫn nông dân chăn nuôi cừu đều hiểu rõ những tác hại lâu dài do cừu gây ra, nhưng họ cũng cảm thấy những áp lực đòi hỏi phải tạo công ăn việc làm trong một xã hội có tỷ lệ thất nghiệp cao. Trớ trêu thay, chăn nuôi cừu ở Greenland không sinh lợi ngay trong thời gian ngắn, hằng năm chính quyền vẫn phải hỗ trợ cho mỗi gia đình chăn nuôi cừu khoảng 14.000 đô-la để bù lỗ, tạo thu nhập cho họ và khuyến khích họ tiếp tục chăn nuôi cừu.
Người Inuit đóng vai trò lớn trong câu chuyện về sự diệt vong của người Viking Greenland. Đây chính là sự khác biệt lớn nhất giữa lịch sử của người Norse Greenland và người Norse Iceland; người Iceland được hưởng những điều kiện thuận lợi của một khí hậu ít khắc nghiệt hơn và tuyến đường thông thương tới Na Uy ngắn hơn so với những người anh em Greenland của họ, nhưng lợi thế rõ ràng nhất là họ không bị người Inuit đe dọa. Xét về mặt tích cực, người Inuit cũng chính là một cơ hội sống còn mà người Viking Greenland đã bỏ lỡ, lẽ ra họ đã có thể có cơ hội sống sót nếu học hỏi những kinh nghiệm hay buôn bán, trao đổi hàng hóa với người Inuit, nhưng họ đã không làm như vậy. Về mặt tiêu cực, những cuộc tấn công hay đe dọa của người Inuit với người Viking cũng có thể gây ảnh hưởng trực tiếp tới sự diệt vong của người Viking. Người Inuit cũng là nhân tố quan trọng chứng minh cho chúng ta thấy rằng sự tồn tại của xã hội loài người ở Greenland thời Trung cổ không phải là điều không thể. Tại sao cuối cùng người Viking bị diệt vong chính trên mảnh đất mà người Inuit đã thành công?
Ngày nay chúng ta thường coi người Inuit là thổ dân của Greenland và vùng Bắc cực của Canada, nhưng thực tế các bằng chứng khảo cổ cho thấy, họ chỉ là tộc người cuối cùng trong ít nhất bốn dân tộc từng bành trướng sang phía đông, vượt qua Canada và xâm nhập vùng tây bắc Greenland trong suốt thời gian khoảng 4.000 năm trước khi người Norse đặt chân tới đây. Những dân tộc này đã mở rộng lãnh thổ của mình và sinh sống tại Greenland trong hàng thế kỷ, và sau đó biến mất để lại những câu hỏi không được giải đáp về sự sụp đổ xã hội của họ tương tự như những câu hỏi mà chúng ta đang xem xét đối với các xã hội của người Norse, Anasazi và Phục Sinh. Tuy nhiên, chúng ta biết quá ít về những sự diệt vong trước đó nên không thể đưa ra thảo luận trong cuốn sách này, ngoại trừ việc lấy đó làm cơ sở để thảo luận về số phận của người Viking. Mặc dù các nhà khảo cổ đã đặt tên cho những nền văn hóa đó là Điểm Độc lập I, Điểm Độc lập II và Saqqaq, tùy thuộc vào nơi phát hiện các hiện vật, nhưng đối với chúng ta, ngôn ngữ của các dân tộc này và tên của bản thân họ đều đã mất đi vĩnh viễn.
Dân tộc sinh sống ở Greenland trước người Inuit là một nền văn hóa mà các nhà khảo cổ gọi là Dorset, do họ sinh sống tại mũi Dorset, trên đảo Baffin của Canada. Sau khi chiếm lĩnh phần lớn vùng Bắc cực của Canada, họ tiến vào Greenland vào khoảng năm 800 TrCN và sinh sống ở nhiều vùng trên đảo trong khoảng thời gian chừng một ngàn năm, trong đó có cả những khu vực sinh sống sau này của người Viking ở phía Tây Nam. Không biết vì lý do gì, sau này họ đã rời bỏ toàn bộ Greenland và phần lớn vùng Bắc cực của Canada vào khoảng năm 300 và co cụm lại sinh sống ở một số khu vực trung tâm của Canada. Mặc dù vậy, khoảng năm 700, họ lại quay trở lại, tái chiếm Labrador và phía tây bắc Greenland, nhưng lần này họ không di cư xuống phía nam, sau này là nơi sinh sống của người Viking. Tại Khu Đông và Khu Tây, những người Viking đầu tiên tới đây chỉ bắt gặp những căn nhà đổ nát, không có người sinh sống, những mảnh ván thuyền và những công cụ bằng đá mà họ cho là di sản của người bản xứ đã bị diệt vong để lại, tương tự như những đồ vật mà họ đã gặp ở Bắc Mỹ trong những lần tới Vinland.
Từ những mẫu xương thu thập được tại các khu vực khảo cổ, chúng ta biết rằng người Dorset đã săn bắt rất nhiều loại thú ở nhiều khu vực, trong nhiều giai đoạn khác nhau: như hải mã, hải cẩu, tuần lộc, gấu Bắc cực, cáo, vịt biển, ngỗng trời và các loài chim biển. Đã có sự giao thương đường dài giữa các cư dân Dorset ở Labrador, một vùng Bắc cực của Canada, với Greenland qua việc phát hiện những công cụ bằng đá có nguồn gốc từ một trong những khu vực này nhưng lại xuất hiện ở những nơi cách đó hàng ngàn kilômét. Không giống như những kẻ đến sau là người Inuit hay một số tiền nhân Bắc cực của họ, người Dorset không nuôi chó (bởi vậy cũng không có xe trượt tuyết do chó kéo) và không sử dụng cung tên. Không giống như người Inuit, họ cũng không biết làm thuyền gỗ bọc da nên không thể ra biển săn cá voi. Không có xe trượt tuyết do chó kéo nên họ ít di chuyển, không săn được cá voi nên họ không thể sản xuất đủ lương thực cho những vùng dân cư đông đúc. Thay vào đó, họ tập trung thành những khu dân cư nhỏ, chỉ gồm một hay hai nhà, làm sao không vượt quá 10 nhân khẩu và chỉ rất ít đàn ông. Do vậy, đây là nhóm dân cư yếu nhất trong số ba nhóm dân bản địa Mỹ mà người Norse đã gặp, đó là người Dorset, người Inuit và thổ dân da đỏ Canada. Và rõ ràng đó là lý do vì sao người Norse Greenland cảm thấy an toàn để trong thời gian hơn ba thế kỷ, liên tục tới khu vực sinh sống của người Dorset là bờ biển Labrador để chặt gỗ, sau khi họ đã ngừng tới “Vinland”, xa hơn về phía nam Canada, bởi người Da đỏ ở đó đông hơn và dữ tợn hơn.
Có phải người Viking và người Dorset đã gặp nhau ở tây bắc Greenland? Chúng ta không có bằng chứng chắc chắn về điều đó, nhưng dường như đúng như vậy. Bởi người Dorset đã tồn tại ở đây trong thời gian gần 300 năm, sau khi người Norse đã định cư ở Tây Nam, và bởi hằng năm người Norse thường tới khu săn bắt Nordrseta, chỉ cách khu vực sinh sống của người Dorset vài kilômét về phía nam, đồng thời cũng thường xuyên tiến hành những chuyến thám hiểm xa hơn về phía bắc. Dưới đây tôi sẽ đề cập tới một lý giải về sự gặp gỡ giữa người Norse Greenland với những người dân bản xứ, có thể đó là người Dorset. Bằng chứng là một số đồ vật rõ ràng có nguồn gốc liên quan tới người Viking, nhất là những mẩu kim loại quý, chắc chắn định dùng để chế tạo công cụ, được phát hiện tại các khu vực sinh sống của người Dorset rải rác khắp vùng tây bắc Greenland và vùng Bắc cực của Canada. Tất nhiên, chúng ta cũng không rõ liệu có phải người Dorset có được những đồ vật này thông qua những quan hệ trực tiếp, hòa bình hay một hình thức nào đó với người Norse, hay họ chỉ nhặt từ những trang trại mà người Norse bỏ hoang. Cho dù có thế nào thì chúng ta vẫn có thể tin chắc rằng quan hệ của người Norse với người Inuit ẩn chứa nhiều nguy hiểm hơn so với quan hệ gần như vô hại với người Dorset.
Văn hóa và công nghệ của người Inuit, kể cả kỹ năng điêu luyện săn cá voi trong những vùng biển không bị đóng băng, đều xuất phát từ vùng eo biển Bering vào khoảng trước năm 1000. Xe trượt tuyết do chó kéo chạy trên đất liền và những chiếc thuyền lớn trên biển cho phép người Inuit đi lại và vận chuyển các loại hàng hóa nhanh hơn nhiều so với người Dorset. Trong thời Trung cổ, khi khí hậu Bắc cực trở nên ấm áp hơn và các tuyến đường biển trước đây bị đóng băng chia tách các đảo Bắc cực của Canada giờ đã tan ra, người Inuit khi săn cá voi đã đi qua những tuyến đường biển này về hướng đông, qua Canada vào vùng tây bắc Greenland vào năm 1200, và từ đó đi theo hướng nam dọc theo bờ biển phía tây của Greenland tới Nordrseta, sau đó tới vùng phụ cận của Khu Tây vào khoảng năm 1300, và vùng phụ cận của Khu Đông vào khoảng năm 1400.
Người Inuit săn tất cả những loại thú mà người Dorset đã săn, và có thể hiệu quả cao hơn bởi họ (không giống như các bậc tiền nhân Dorset của mình) biết sử dụng cung tên. Nhưng săn cá voi mang lại cho họ một lượng lương thực bổ sung dồi dào mà người Dorset hay người Norse không thể có được. Bởi vậy, thợ săn người Inuit có thể nuôi sống vợ một cách rất thoải mái và con của họ và sống tập trung thành những khu dân cư lớn, thường gồm hàng chục người, trong đó có 10-20 đàn ông là thợ săn và chiến binh. Ngay trong khu săn bắt chính của Nordrseta tên là Sermermiut, người Inuit đã lập ra một khu dân cư lớn, dần dần tập trung thành hàng trăm ngôi nhà. Hãy thử tưởng tượng kết quả chuyến đi săn của người Norse ở Nordrseta sẽ ra sao nếu nhóm thợ săn người Norse, đông lắm cũng chỉ vài chục người, bị những người Inuit ở đây phát hiện và không thiết lập được mối quan hệ hữu hảo với nhau.
Không giống như người Norse, xã hội của người Inuit chính là nơi hội tụ những tinh hoa của nền văn hóa các dân tộc Bắc cực phát triển từ hàng ngàn năm trong cách làm chủ các điều kiện tự nhiên ở Bắc cực. Vì vậy, dù Greenland chỉ có rất ít gỗ để xây dựng, sưởi ấm hay thắp sáng cho những ngôi nhà trong những tháng mùa đông tăm tối ở Bắc cực, thì với người Inuit đó không phải là một vấn đề. Họ dựng lên những chiếc lều trú đông hoàn toàn bằng tuyết, dùng mỡ cá voi và mỡ hải cầu để làm nhiên liệu và để thắp đèn. Không có nhiều gỗ để đóng thuyền ư? Điều đó cũng chẳng khiến người Inuit bận tâm, họ căng da hải cẩu trên một chiếc khung gỗ và tạo nên những chiếc xuồng kayak (Phụ bản 18), cũng như tạo ra những chiếc thuyền umiaq lớn, đủ khả năng để săn cá voi ở những vùng biển không bị đóng băng.
Mặc dù đã đọc về những nét độc đáo của chiếc xuồng kayak và đã từng sử dụng những chiếc kayak hiện đại được làm bằng nhựa và rất phổ biến trong thời kỳ Thế chiến Thứ nhất, tôi vẫn ngạc nhiên khi lần đầu tận mắt thấy một chiếc kayak truyền thống của người Inuit ở Greenland. Tôi thấy nó như một phiên bản thu nhỏ của chiếc tàu chiến Iowa U.S.S. hẹp, dài và có tốc độ cao do hải quân Mỹ chế tạo trong Thế chiến Thứ hai, với khoảng trống trên boong đủ để đặt súng phóng ngư lôi, súng bắn máy bay và các loại vũ khí khác. Dài 5,7 mét, nhỏ so với một tàu chiến, nhưng vẫn dài hơn nhiều so với những gì tôi tưởng tượng, lòng chiếc xuồng kayak chất đầy những loại vũ khí thời đó: một cây lao, một thiết bị phóng lao có thể kéo căng ra đằng sau; một mũi lao dài 15 xăngtimét có thể gắn vào cây lao bằng một chốt gỗ; một chiếc phi tiêu để bắn chim, dưới mũi tên còn có thêm một chiếc ngạnh ba mũi rất sắc để đề phòng nếu phần tên trên đầu bắn trượt, thì phần ngạnh bên dưới vẫn có thể trúng chim; một vài chiếc bong bóng làm từ da hải cẩu để ghìm những con cá voi hay hải cẩu bị trúng lao; và một chiếc giáo để đâm chết những con trúng lao. Không giống như một chiếc tàu chiến hay bất kỳ loại thuyền nào khác mà tôi biết, chiếc kayak được chế tạo với những thông số riêng về mái chèo, kích thước xuồng, trọng lượng và sức khỏe của người sử dụng. Thực tế, nó chỉ phù hợp với người chủ, và chỗ ngồi trên xuồng là một vỏ bọc được khâu dính liền với chiếc áo parka của người sử dụng và được che bằng một tấm da hải cẩu không thấm nước để nếu những giọt nước lạnh giá bắn lên xuồng cũng không làm người chèo xuồng bị ướt. Christian Keller đã thử dùng những chiếc kayak hiện đại được chế tạo cho những bạn bè Greenland của ông, nhưng vô ích và ông phát hiện ra rằng chân ông không thể đút dưới xuồng và đùi thì quá to nên không ngồi lọt.
Xét về kỹ thuật săn bắt, người Inuit là những thợ săn điêu luyện nhất, linh hoạt nhất trong lịch sử Bắc cực. Ngoài khả năng săn tuần lộc, hải mã và các loài chim đất liền bằng những cách không giống như người Norse, người Inuit còn hơn người Norse ở chỗ họ biết điều khiển những chiếc xuồng kayak bơi rất nhanh để phóng lao giết hải cẩu và đuổi những loài chim biển trên đại dương, biết sử dụng thuyền umiaq và lao để săn cá voi trong những vùng biển không bị đóng băng. Một người Inuit thì không thể đâm chết con cá voi to khỏe chỉ bằng một nhát lao, do vậy một thợ săn phải đứng trên thuyền umiaq do những người khác chèo và phóng lao vào con cá voi. Đây không phải là việc dễ dàng, chắc hẳn tất cả những ai say mê các câu chuyện về thám tử lừng danh Sherlock Holmes vẫn còn nhớ truyện Cuộc phiêu lưu của Black Peter, kể về một vị thuyền trưởng độc ác đã nghỉ hưu bị một kẻ nào đó sử dụng chính chiếc lao trang trí trên tường nhà đâm một nhát rất gọn xuyên người, giết chết ông ta ngay trong chính ngôi nhà của mình. Mất cả một buổi sáng ở cửa hàng bán thịt, nhìn người đồ tể cố gắng xuyên chiếc lao qua xác một con lợn một cách khó nhọc, Sherlock Holmes phỏng đoán chính xác rằng tên giết người phải là kẻ phóng lao chuyên nghiệp, bởi những người không được huấn luyện sẽ không thể phóng chiếc lao ngập sâu vào mục tiêu. Có hai điều đem lại khả năng này cho người Inuit: thứ nhất, thiết bị phóng lao của họ có thể kéo căng ra đằng sau nên lao được phóng ra mạnh hơn và khả năng sát thương cao hơn; và như trong vụ án của Black Peter, thủ phạm đã phải luyện tập trong suốt thời gian dài. Với người Inuit, họ tập phóng lao ngay từ khi còn nhỏ, nên đàn ông Inuit có khả năng phóng lao rất xa, ngoài ra họ còn chế tạo ra một thiết bị phóng lao đặt ngay trên thuyền.
Khi đầu mũi lao cắm vào mình cá voi, chiếc khớp nối bằng gỗ được thiết kế rất thông minh rời ra, cho phép thợ săn thu hồi lại phần cán lao giờ đã tách ra khỏi mũi lao đang ngập sâu trong mình cá voi. Nếu phần mũi lao không tách ra thì người phóng lao sẽ phải tiếp tục giữ chặt sợi dây buộc chặt vào chiếc lao, trong cơn điên, cá voi sẽ lặn sâu xuống biển và kéo theo luôn cả chiếc thuyền umiaq cùng những người bên trên. Trên đầu mũi lao là một quả bóng làm bằng da hải cẩu được thổi đầy hơi, có tác dụng ghìm con cá voi khi nó vùng vẫy để thoát ra khỏi quả bóng và làm nó kiệt sức khi lặn xuống nước. Mỗi khi con cá voi nổi lên mặt nước để thở, người Inuit lại tiếp tục phóng một chiếc lao khác có gắn bóng khiến con cá càng kiệt sức hơn. Chỉ khi con cá đã kiệt sức hoàn toàn thì thợ săn mới bơi thuyền umiaq vào sát con vật và dùng giáo kết liễu nó.
Người Inuit cũng phát minh ra một kỹ thuật đặc biệt để săn hải cẩu vòng, một loài xuất hiện rất nhiều trong các vùng biển của Greenland nhưng có những thói quen sinh sống khiến chúng rất khó bị bắt. Không giống như những loài hải cẩu khác của Greenland, mùa đông hải cẩu vòng rời khỏi bờ biển Greenland, lặn xuống mặt băng chứ không di cư đi nơi khác. Chúng khoét một chiếc lỗ xuyên qua băng chỉ bằng đúng chiếc đầu của chúng, chứ không phải toàn bộ cơ thể, để thở. Những chiếc lỗ này rất khó phát hiện bởi hải cầu vẫn ngụy trang chiếc lỗ bằng những vụn băng mà chúng đã đục. Mỗi con có tới vài lỗ thở, giống như hang cáo có vài cửa thoát ra ngoài. Thợ săn không thể gạt chỗ băng vụn ra khỏi lỗ thở, bởi như vậy hải cẩu sẽ nhận ra có người đang rình bắt chúng. Bởi vậy, họ phải kiên nhẫn đứng rình trong nhiều giờ cạnh chỗ băng vụn, trong bóng tối lạnh lẽo của mùa đông Bắc cực, đợi cho tới khi phát hiện hơi thở của hải cầu thì phóng lao xuyên qua chỗ tuyết đùn lên, mặc dù không nhìn thấy chúng. Khi con hải cẩu trúng lao lặn xuống nước, đầu mũi lao sẽ tách ra khỏi cán lao nhưng vẫn bị buộc chặt vào một chiếc dây, và người thợ săn sẽ dùng chiếc dây này để dòng con hải cẩu cho tới khi nó kiệt sức thì mới kéo lại và đâm chết. Rất khó có thể học cách săn hải cầu vòng một cách thuần thục, và người Norse không bao giờ học được kỹ thuật này của người Inuit. Do vậy, trong những năm khí hậu đặc biệt khắc nghiệt, khi các loài hải cẩu khác bị suy giảm số lượng, thì người Inuit chuyển sang săn hải cẩu vòng, nhưng người Norse thì không có sự chọn lựa này nên họ rơi vào nguy cơ đói ăn.
Bởi người Inuit có những lợi thế so với người Norse và người Dorset, nên chỉ trong vài thế kỷ kể từ khi người Inuit tràn qua Canada xâm nhập vào vùng tây bắc Greenland, nền văn hóa Dorset, trước đây từng chiếm lĩnh cả hai khu vực này, đã biến mất. Bởi vậy chúng ta có không chỉ một mà hai điều bí ẩn liên quan tới người Inuit, đó là: sự diệt vong đầu tiên là của người Dorset, sau đó tới người Norse, cả hai dân tộc đều bị diệt vong nhanh chóng sau khi người Inuit đặt chân lên lãnh thổ của họ. Ở phía tây bắc Greenland, một số khu định cư của người Dorset đã tồn tại trong khoảng thời gian một hoặc hai thế kỷ sau khi người Inuit xuất hiện, và chắc chắn hai dân tộc này không thể không để ý tới sự hiện diện của dân tộc kia, nhưng hiện vẫn chưa có bằng chứng khảo cổ trực tiếp nào chứng minh họ có quan hệ với nhau, như những đồ vật của người Inuit xuất hiện ở những vùng sinh sống của người Dorset thời đó và ngược lại. Nhưng có những bằng chứng gián tiếp về mối quan hệ này. Người Inuit Greenland có một số nét đặc trưng văn hóa của người Dorset mà họ không có trước khi tới Greenland, đó là một con dao làm bằng xương để cắt những khối băng, những ngôi nhà hình vòm bằng tuyết, công nghệ trang trí bằng đá mềm Xtêatit và mũi lao được chế tạo giống như những mũi lao ở thị trấn Thule, phía tây bắc Greenland. Rõ ràng, người Inuit không chỉ đã có cơ hội học tập kinh nghiệm sống của người Dorset mà còn là nguyên nhân khiến người Norse biến mất sau thời gian sinh sống hơn 2.000 năm ở Bắc cực. Mỗi chúng ta có thể tự đặt ra giả thuyết của riêng mình về sự diệt vong của nền văn hóa Dorset. Một trong những phỏng đoán của tôi là, trong một mùa đông cực kỳ khắc nghiệt, do đói ăn, những phụ nữ Dorser đã rời bỏ những người đàn ông của mình và tìm tới trại của người Inuit bởi họ biết rằng người Inuit vẫn sống sung túc với thịt cá voi và hải cẩu vòng mà họ săn được.
Còn mối quan hệ giữa người Inuit và người Norse thì sao? Thật khó tin, trong nhiều thế kỷ mà cả hai dân tộc này cùng chung sống trên đảo Greenland, biên niên sử của người Norse chỉ có hai hay ba đoạn ngắn đề cập tới người Inuit.
Đoạn biên niên sử đầu tiên không rõ đề cập tới người Inuit hay người Dorset bởi nó mô tả một sự kiện xảy ra từ thế kỷ XI hoặc thế kỷ XII, khi cư dân Dorset vẫn còn sinh sống ở tây bắc Greenland, và người Inuit mới đặt chân tới đây. Bản chép tay cuốn Lịch sử của Na Uy được ghi lại vào thế kỷ XV kể lại việc người Norse lần đầu gặp những thổ dân Greenland như thế nào: “Xa hơn về hướng Bắc, ngoài khu định cư của người Norse, những người thợ săn đã tình cờ gặp một nhóm những kẻ man rợ, mà họ gọi là skraeling. Nếu những kẻ này bị đâm không nguy hiểm lắm, thì vết thương sẽ trở thành màu trắng và không bị chảy máu, nhưng nếu bị đâm mạnh thì máu của chúng sẽ chảy không ngừng. Họ không có sắt nhưng biết sử dụng ngà hải mã làm lao và những hòn đá sắc làm công cụ sản xuất.”
Đoạn viết ngắn và đơn giản trên chứng tỏ người Norse đã có một “định kiến xấu” khiến họ có sự khởi đầu đáng sợ với những người sẽ chia sẻ cùng họ mảnh đất Greenland. “Skraeling” là một từ của người Na Uy cổ có nghĩa là “những kẻ man rợ” mà người Norse sử dụng để chỉ cả ba nhóm dân bản xứ ở Tân Thế giới mà họ gặp ở Vinland hay Greenland (là người Inuit, người Dorset và người Da đỏ). Nó cũng cảnh báo một quan hệ tồi tệ, khó có thể hòa bình nếu lần đầu tiên bạn gặp những người Inuit hay người Dorset và thử đâm anh ta để xem anh ta chảy máu như thế nào. Nó cũng gợi cho chúng ta nhớ lại, ở Chương 6, rằng khi người Norse lần đầu gặp một nhóm người Da đỏ tại Vinland, họ đã khởi đầu mối quan hệ với người bản xứ bằng cách giết 8 trong số 9 người họ gặp. Kiểu quan hệ này diễn ra trong suốt một thời gian dài, lý giải vì sao người Norse không thể thiết lập mối quan hệ giao thương hữu hảo với người Inuit.
Đoạn biên niên sử thứ hai cũng tương đối ngắn, buộc tội những người “skraeling” tàn phá Khu Tây vào khoảng năm 1360; chúng ta sẽ xem xét sự kiện này sau. Người “skraeling” bị nghi ngờ chỉ có thể là người Inuit, bởi khi đó người Dorset đã biến mất khỏi Greenland. Đoạn cuối cùng trong biên niên sử năm 1379 của Iceland chỉ đúng một câu, viết: “Người “skraeling” đã tấn công những người Greenland, giết chết 18 đàn ông, bắt hai cậu bé và một nữ nô làm nô lệ.” Nếu biên niên sử không nhầm với một vụ tấn công thực tế xảy ra tại Na Uy do người Saami tiến hành, thì có khả năng sự kiện này diễn ra gần Khu Đông, bởi năm 1379 Khu Tây đã bị diệt vong và cũng không thể diễn ra tại Nordrseta bởi khó có thể có phụ nữ trong nhóm thợ săn của người Norse tới đây săn bắt thú. Vậy chúng ta phải hiểu những thông tin quá vắn tắt này như thế nào? Với người hiện đại, 18 người Norse bị giết dường như không phải là chuyện to tát bởi thế kỷ XX đã diễn ra hai cuộc chiến tranh thế giới tàn sát hàng chục triệu người. Nhưng khi so sánh với toàn bộ dân số của Khu Đông lúc bấy giờ chỉ không quá 4.000 người, thì 18 người đàn ông cũng chiếm khoảng 2% số đàn ông. Nếu nước Mỹ hiện nay với số dân 280 triệu người bị một kẻ thù tấn công và giết 2% nam giới trưởng thành, thì 1.260.000 đàn ông Mỹ sẽ chết. Như vậy có nghĩa rằng chỉ riêng cuộc tấn công năm 1379 được lịch sử ghi nhận cũng đã là một thảm họa lớn đối với Khu Đông, chưa kể còn có bao nhiêu đàn ông khác chết trong những cuộc tấn công năm 1380, 1381 và những năm sau này.
Ba đoạn biên niên sử ngắn này là nguồn tư liệu bằng văn bản duy nhất mà chúng ta có về mối quan hệ giữa người Norse và người Inuit. Nguồn thông tin từ khảo cổ chính là các mẫu vật của người Norse hay những phiên bản mẫu vật của người Norse được tìm thấy tại các di chỉ của người Inuit, và ngược lại. Tổng số 170 mẫu vật có nguồn gốc từ người Norse được tìm thấy ở các di chỉ của người Inuit, trong đó chỉ có vài đồ vật vẫn còn nguyên vẹn (một con dao, một cái hái và một cái bật lửa), còn đa phần chỉ là những mẩu kim loại (sắt, đồng, bạc hay chì), chắc hẳn người Inuit rất quý khi dùng để chế tạo các công cụ của mình. Những đồ vật của người Norse không chỉ xuất hiện ở những khu vực của người Inuit mà trước kia người Vikings đã từng sinh sống (Khu Đông và Khu Tây) hay thường tới thăm (Nordrseta), mà còn ở cả những nơi mà người Norse chưa từng đặt chân đến, như phía đông Greenland và đảo Ellesmere. Bởi vậy, chắc hẳn người Inuit rất ưa thích các vật liệu của người Norse nên chúng đã được trao đổi qua lại giữa những nhóm người Inuit sống cách xa nhau hàng trăm kilômét. Chúng ta không thể biết được rằng người Inuit có được phần lớn những đồ vật này từ người Norse là thông qua trao đổi, giết người, cướp của, hay tìm thấy ở những trang trại bỏ hoang của người Norse. Tuy nhiên, trong số những mẩu kim loại, có 10 miếng là từ những chiếc chuông của các nhà thờ ở Khu Đông, mà chắc chắn người Norse chẳng bao giờ trao đổi những vật này. Có thể người Inuit có được những chiếc chuông này sau khi người Norse đã bị diệt vong, giống như họ đã sống trong những căn nhà được họ xây dựng trên những tàn tích của người Norse.
Một bằng chứng khác thuyết phục hơn về mối quan hệ trực tiếp giữa hai dân tộc chính là chín bức tượng hình người do người Inuit tạc có thể nhận ra rõ ràng đó là người Norse dựa trên những mô tả về kiểu tóc, quần áo hay chiếc thập ác trang trí mang đặc tính của người Viking. Người Inuit cũng học được một số công nghệ hữu ích từ người Norse. Những công cụ của người Inuit có hình dáng của một chiếc dao hay chiếc cưa kiểu châu Âu nên có thể người Inuit đã bắt chước kiểu dáng các đồ vật của người Norse mà họ cướp được chứ không phải từ bất kỳ quan hệ hữu hảo nào với người Norse, những tấm ván cong để đóng thùng và những đầu mũi tên có đường ren xoáy mà người Inuit làm ra chứng tỏ họ đã nhìn thấy người Norse chế tạo hoặc sử dụng thùng và những con vít.
Mặt khác, hầu như không có bằng chứng về những đồ vật của người Inuit xuất hiện tại các di chỉ của người Norse. Một chiếc lược làm từ gạc tuần lộc, hai phi tiêu bắn chim, một chiếc dây chão có tay nắm bằng sừng, và một mảnh sắt sao băng, năm đồ vật đó của người Inuit là tất cả những gì tôi biết đã được tìm thấy trên khắp vùng lãnh thổ của người Norse ở Greenland trong suốt hàng thế kỷ người Inuit và người Norse chung sống với nhau. Thậm chí cả năm đồ vật này chắc chẳng có giá trị để trao đổi mà có thể chúng là đồ vật bị thải loại và một số người Norse tò mò đã nhặt về. Điều đáng ngạc nhiên là người Norse không hề bắt chước một công nghệ nào của người Inuit, dù công nghệ đó có thể hữu ích với cuộc sống của họ. Không một chiếc lao, thiết bị phóng lao, không một mẩu xuồng kayak hoặc thuyền umiaq xuất hiện tại bất kỳ khu vực sinh sống nào của người Norse.
Nếu quả thật đã xuất hiện quan hệ thương mại giữa người Inuit và người Norse, thì có lẽ chúng phải liên quan tới ngà hải mã, bởi người Inuit săn hải mã rất thành thạo trong khi người Norse thì cần tìm mặt hàng giá trị này để xuất khẩu sang châu Âu. Đáng tiếc là chúng ta khó có thể tìm được bằng chứng trực tiếp nào về mối quan hệ thương mại như vậy, bởi không có cách nào có thể xác định những mảnh ngà được tìm thấy trong nhiều trang trại của người Norse là từ những con hải mã do chính người Norse săn hay người Inuit săn. Nhưng chắc chắn tại các khu vực sinh sống của người Norse, chúng ta không tìm thấy bất kỳ chiếc xương nào của loài thú quý giá nhất mà người Inuit có thể trao đổi với người Norse, đó là hải cẩu vòng. Đây là loài hải cẩu đông nhất Greenland trong mùa đông, nhưng chỉ người Inuit mới có thể săn được chúng, còn người Norse thì không, và rất sẵn có tại thời điểm nguồn lương thực dự trữ trong mùa đông của người Norse đang có nguy cơ cạn kiệt và họ đang bị thiếu ăn. Điều này khiến tôi nghĩ rằng, thực tế có rất ít quan hệ thương mại, nếu có, giữa hai dân tộc này. Dựa trên những bằng chứng khảo cổ thì cứ như người Inuit sống ở một hành tinh khác cách xa người Norse, chứ không phải là cùng chung sống trên một hòn đảo và cùng chung những địa điểm săn bắt thú. Chúng ta cũng không có bằng chứng nào khi nghiên cứu gen hoặc hài cốt chứng tỏ có sự kết hôn giữa người Inuit và người Norse. Nghiên cứu kỹ xương sọ của những bộ hài cốt chôn tại các nghĩa trang của người Norse Greenland cho thấy chúng chỉ bao gồm những chiếc sọ của người Scandinavia lục địa mà không phát hiện bất kỳ sự hôn phối nào giữa người Inuit và người Norse.
Theo quan điểm của chúng ta hiện nay, sự thất bại của người Norse trong việc thiết lập mối quan hệ thương mại với người Inuit và không học hỏi kinh nghiệm sống của họ chính là những tổn thất to lớn với người Norse, mặc dù rõ ràng bản thân người Norse không nghĩ như vậy. Những thất bại này không phải vì người Norse không có cơ hội. Thợ săn người Norse chắc hẳn đã từng gặp thợ săn người Inuit ở Nordrseta, và sau đó là ở những vịnh phía ngoài Khu Tây khi người Inuit tới đây. Những người Norse với những chiếc thuyền gỗ nặng nề và kỹ thuật săn bắt cá voi và hải cẩu kém hiệu quả chắc hẳn phải nhận ra một điều rằng những chiếc thuyền nhẹ làm bằng da và các kỹ thuật săn bắt của người Inuit hiệu quả hơn nhiều. Người Inuit đã làm được những gì mà người Norse đang cố gắng làm. Sau này khi các nhà thám hiểm châu Âu tới Greenland vào cuối những năm 1500, ngay lập tức họ kinh ngạc trước tốc độ và khả năng ứng dụng trong quân sự của những chiếc xuồng kayak và nhận thấy những chiếc thuyền của người Inuit rõ ràng bơi nhanh hơn nhiều so với bất kỳ chiếc thuyền nào của châu Âu. Họ cũng khá ấn tượng bởi những chiếc thuyền umiaq, khả năng thiện xạ, những bộ quần áo da được khâu liền với thuyền và găng tay, những chiếc lao, bong bóng, xe trượt tuyết do chó kéo và các kỹ thuật săn hải cẩu. Năm 1721, khi Greenland trở thành thuộc địa của người Đan Mạch, lập tức người Đan Mạch liền học hỏi những công nghệ hữu ích của người Inuit, sử dụng những chiếc thuyền umiaq của người Inuit để đi dọc bờ biển Greenland và thiết lập quan hệ thương mại với họ. Chỉ trong vòng vài năm, những gì người Đan Mạch học được về cách săn cá voi bằng lao và săn hải cẩu vòng đã nhiều hơn những gì người Norse học trong vài thế kỷ. Nhưng cũng giống như người Norse thời Trung cổ, một số người Đan Mạch mới định cư tại đây là người Cơ đốc giáo có tư tưởng phân biệt chủng tộc, coi thường những người Inuit ngoại đạo.
Hãy thử hình dung những quan hệ giữa người Norse và người Inuit sẽ như thế nào nếu không có những định kiến? Nhiều khả năng sẽ có mối quan hệ giống như đã xảy ra trên thực tế trong hàng thế kỷ sau này khi những người châu Âu như người Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp, Anh, Nga, Bỉ, Hà Lan, Đức và Italy cũng như bản thân người Đan Mạch và người Thụy Điển gặp những người dân bản xứ ở khắp nơi trên thế giới. Nhiều người châu Âu từ những người đi khai hoang đã trở thành những nhà buôn và tạo nên các nền kinh tế thương mại thống nhất: những nhà buôn châu Âu chung sống cùng với dân bản xứ v