← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 9 NHỮNG CON ĐƯỜNG TỚI THÀNH CÔNG

Phương pháp từ dưới lên trên và từ trên xuống dưới - Cao nguyên New Guinea - Tikopia - Những khó khăn của Tokugawa - Giải pháp của Tokugawa - Lý do thành công của Nhật Bản - Những xã hội thành công khác.

Các chương trước chúng ta đã nghiên cứu sáu xã hội cổ đại không thể xử lý được những vấn đề môi trường do họ tự gây ra hoặc vấp phải, góp phần khiến xã hội sụp đổ, đó là các xã hội đảo Phục Sinh, đảo Pitcairn, đảo Henderson, người Anasazi, người Maya cổ điển ở vùng đất thấp và người Norse ở Greenland. Tôi chú trọng vào những thất bại của họ bởi chúng mang lại cho chúng ta nhiều bài học bổ ích. Tuy nhiên, chắc chắn không phải tất cả các xã hội cổ đại đều bị diệt vong bởi thảm họa môi trường: người Ireland đã tồn tại trong một môi trường khắc nghiệt trong thời gian hơn 1.100 năm, và nhiều xã hội khác đã tồn tại tới hàng ngàn năm. Những câu chuyện về những xã hội thành công này mang lại những bài học quý giá, những hy vọng cũng như sức mạnh cho chúng ta. Qua đó chúng ta nhận ra hai phương pháp giải quyết các vấn đề môi trường trái ngược nhau, mà chúng ta có thể gọi là phương pháp từ dưới lên trên và từ trên xuống dưới.

Sự nhận biết này có công lao to lớn của công trình nghiên cứu của nhà khảo cổ học Patrick Kirch về những hòn đảo Thái Bình Dương với quy mô và những hậu quả xã hội khác nhau. Cư dân trên hòn đảo Tikopia nhỏ bé (chỉ có 2,89 km vuông) vẫn tồn tại sau 3.000 năm, đảo Mangai quy mô trung bình 43,4 km vuông thì bị sụp đổ do phá rừng, giống như đảo Phục Sinh; và đảo lớn nhất trong số ba đảo là Tonga (463,4 km vuông) tồn tại lúc thăng lúc trầm trong 3.200 năm. Tại sao hai đảo nhỏ nhất và lớn nhất lại thành công trong việc kiểm soát những vấn đề môi trường, trong khi đảo có quy mô trung bình lại bị sụp đổ? Theo Kirch, hai đảo này đã áp dụng phương pháp trái ngược với đảo kia nên thành công và cũng bởi phương pháp của đảo Mangai không thể thực hiện được.

Các xã hội nhỏ sinh sống trên một đảo hay một lãnh thổ nhỏ thì có thể áp dụng phương pháp từ dưới lên trên để quản lý môi trường. Bởi diện tích nhỏ, nên những cư dân trên đảo không những nắm rõ mọi vấn đề của đảo, mà còn biết rằng mỗi biến đổi của đảo đều ảnh hưởng tới bản thân họ và tất cả mọi người đều có chung những đặc tính cũng như những lợi ích. Bởi vậy mọi người nhận ra rằng họ sẽ được lợi từ những biện pháp môi trường đúng đắn mà họ và những người xung quanh áp dụng. Đó là phương pháp quản lý từ dưới lên trên, trong đó mọi người cùng nhau giải quyết những vấn đề chung.

Đa phần chúng ta đều đã từng tham gia mô hình quản lý từ dưới lên trên ở những nơi chúng ta sống hay làm việc. Ví dụ, tất cả những chủ nhà ở Los Angeles, nơi tôi sống đều tham gia Hội những người láng giềng với mục đích giữ cho các khu vực chung được an toàn, hài hòa và đẹp đẽ vì lợi ích chung của cộng đồng. Hằng năm, các thành viên bầu ra chủ tịch, thảo luận chính sách hoạt động tại các cuộc họp thường niên và đóng góp một khoản tiền để gây dựng ngân quỹ. Với số tiền đó, Hội duy trì những vườn hoa tại các điểm giao cắt giữa các tuyến phố, yêu cầu các chủ nhà không được chặt cây mà không có lý do chính đáng, xem xét kế hoạch xây dựng để ngăn chặn kịp thời việc xây dựng những ngôi nhà quá lớn hoặc xấu xí, giải quyết các tranh chấp giữa những người hàng xóm, và vận động các quan chức chính quyền thành phố đối với các vấn đề ảnh hưởng tới toàn bộ khu vực. Một ví dụ khác mà tôi đã đề cập trong Chương 1, đó là những cư dân sống gần Hamilton trong thung lũng Bitterroot ở Montana đã cùng nhau lập ra Khu Bảo tồn hoang dã Teller, từ đó góp phần nâng cao giá trị đất đai, lối sống và những cơ hội câu cá hay săn bắn của họ, mặc dù nó không giải quyết được các vấn đề của nước Mỹ hay của toàn thế giới.

Một phương pháp trái ngược khác là phương pháp từ trên xuống dưới phù hợp với một xã hội lớn có tổ chức chính trị tập trung, như xã hội Tonga của người Polynesia. Tonga rộng tới mức cư dân không thể biết tất cả các nơi trên quần đảo, hay thậm chí chỉ một đảo lớn của nó. Do vậy, một số vấn đề có thể đang diễn ra ở một nơi xa xôi nào đó trên quần đảo, sau này có thể ảnh hưởng rất lớn tới cuộc sống của một người nông dân, nhưng ban đầu ông ta không biết gì cả. Thậm chí nếu có biết thì có thể ông ta cũng không thèm để ý với lý do ISEP thường thấy, có nghĩa là “It’s someone else’s problem - Đó là việc của người khác”, bởi có thể ông ấy cho rằng việc đó không ảnh hưởng tới ông ta, hay nếu có thì cũng còn lâu. Ngược lại, một nông dân có thể sẵn sàng bao biện cho các vấn đề trong khu vực sinh sống của mình (như phá rừng) bởi ông ta nghĩ rằng chắc ở những nơi khác vẫn còn nhiều gỗ, nhưng thực tế ông ta không biết rừng ở những nơi khác như thế nào.

Nhưng Tonga vẫn đủ lớn để xuất hiện một chính quyền tập trung dưới sự kiểm soát của một thủ lĩnh hay một vị vua tối cao. Vị vua này có tầm nhìn bao quát hết cả quần đảo, không hạn hẹp như những nông dân. Cũng không giống những nông dân, vị vua có thể rất tích cực chú trọng những lợi ích lâu dài của toàn quần đảo, bởi chính quần đảo mang lại sự giàu có cho vị vua, ông là người mới nhất trong hàng ngũ những người lãnh đạo ở đây trong suốt một thời gian dài, và ông mong lớp con cháu sẽ trị vì Tonga mãi mãi. Bởi vậy, vị vua hay chính quyền tập trung có thể áp dụng phương pháp quản lý các nguồn tài nguyên môi trường từ trên xuống dưới, và ban hành những chính sách tốt cho cuộc sống lâu dài của tất cả các thần dân, nếu không họ sẽ không tự nghĩ ra được.

Phương pháp từ trên xuống dưới cũng như phương pháp từ dưới lên trên cũng không xa lạ với công dân của các nước thuộc Thế giới thứ nhất. Chúng ta quen với thực tế rằng các tổ chức chính quyền, nhất là (tại Mỹ) chính quyền các bang và liên bang, theo đuổi các chính sách môi trường và các chính sách khác ảnh hưởng tới toàn bang hoặc cả nước, bởi những người cầm quyền có một tầm nhìn bao quát cả bang hay cả nước, mà đa phần các cá nhân khác không có được. Ví dụ, khi các công dân thung lũng Bitterroot của Montana lập ra Khu Bảo tồn hoang dã Teller, thì có tới một nửa diện tích của thung lũng thuộc sở hữu hay nằm dưới sự quản lý của chính quyền liên bang, như những khu rừng quốc gia hay thuộc quản lý của Hội đồng quản lý đất đai.

Các xã hội cổ quy mô trung bình, sinh sống trên những hòn đảo hay những lãnh thổ quy mô trung bình, không thể thích hợp với cả hai phương pháp này. Hòn đảo sẽ là quá lớn để một cư dân bản xứ có thể nhận thức hay tham gia giải quyết mọi vấn đề xảy ra trên đảo. Tình trạng thù địch giữa thủ lĩnh các thung lũng sát nhau sẽ khiến cho khó có thể đưa ra được một thỏa thuận thống nhất hay tiến hành một công việc chung của toàn đảo; và thậm chí còn góp phần tàn phá môi trường khi các thủ lĩnh chỉ huy những vụ đột kích nhằm chặt cây hay tàn phá đất đai của đối phương để trả thù. Nhưng những hòn đảo này lại quá nhỏ để có thể thành lập một chính quyền tập trung, có khả năng kiểm soát toàn bộ hoạt động trên đảo. Đó chính là số phận đáng thương của đảo Mangaia, và có thể cả những xã hội quy mô trung bình khác trước đây. Hiện nay, khi cả thế giới đã được tổ chức thành các nhà nước, thì càng ít các xã hội quy mô trung bình phải đối mặt với nguy cơ này, nhưng nó vẫn có thể xuất hiện ở những nước có hoạt động kiểm soát nhà nước yếu kém.

Để minh họa về những phương pháp thành công trái ngược nhau này, giờ tôi sẽ kể một câu chuyện ngắn gọn về hai xã hội nhỏ áp dụng phương pháp quản lý từ dưới lên trên (cao nguyên New Guinea và đảo Tikopia), và một xã hội quy mô lớn hơn áp dụng phương pháp quản lý từ trên xuống dưới (đó là Nhật Bản thời Tokugawa, hiện là nước đông dân thứ tám trên thế giới). Trong cả ba xã hội này, các vấn đề môi trường nổi bật đều là phá rừng, xói mòn và đất bạc màu. Tuy nhiên, nhiều xã hội khác trước đây cũng đã áp dụng những phương pháp tương tự để xử lý những vấn đề về tài nguyên nước, thủy sản và săn bắn. Cũng nên hiểu rằng hai phương pháp quản lý từ dưới lên trên và từ trên xuống dưới có thể cùng tồn tại trong một xã hội quy mô lớn được tổ chức theo hệ thống đơn vị hình chóp. Ví dụ như ở Mỹ và các nước dân chủ khác chúng ta có thể nhận ra phương pháp quản lý từ dưới lên trên do các nhóm công dân hay các vùng lân cận trong nước áp dụng tồn tại song song với phương pháp quản lý từ trên xuống dưới do nhiều cấp chính quyền thực hiện (thành phố, hạt, bang và quốc gia).

Minh chứng đầu tiên là cao nguyên New Guinea, một trong những điển hình thành công nhất thế giới về phương pháp quản lý từ dưới lên trên. Người dân New Guinea đã tự túc cuộc sống trong khoảng 46.000 năm, mãi tới gần đây vẫn không có bất kỳ tác động kinh tế lớn nào từ các xã hội bên ngoài cao nguyên và cũng không nhập bất kỳ loại hàng hóa nào, ngoại trừ những đồ vật chỉ dùng để tôn thêm địa vị của người dùng (như vỏ ốc và lông chim thiên đường). New Guinea là một đảo lớn ở phía Bắc Australia (xem hình 4 và 5), với vị trí địa lý gần như nằm trên đường xích đạo nên có rừng nhiệt đới nóng bức ở những vùng đất thấp, nhưng có địa hình đất liền gồ ghề với những dãy núi và thung lũng nối tiếp nhau, có những đỉnh núi cao tới 5.029 mét, băng tuyết bao phủ quanh năm. Địa hình hiểm trở khiến các nhà thám hiểm châu Âu chỉ loanh quanh ở những vùng ven sông, biển tại những vùng đất thấp trong suốt thời gian 400 năm, và thời kỳ đó các nhà thám hiểm phỏng đoán rằng vùng nội địa được rừng che phủ và không có người sinh sống.

Những năm 1930, khi các nhà sinh học và các kỹ sư mỏ lần đầu tiên thuê máy bay bay sâu vào đất liền, các phi công thực sự kinh ngạc khi nhìn thấy bên dưới là một khung cảnh tự nhiên đã bị hàng triệu người mà trước đó thế giới bên ngoài chưa hề biết tới thay đổi. Quang cảnh nhìn như những khu vực dân cư đông đúc của Hà Lan (Phụ bản 19): những thung lũng rộng bao la chỉ có vài lùm cây, bị chia thành những khu vườn rộng ngút tầm mắt, được bố trí gọn gàng, phân tách bằng những con kênh tưới tiêu, những sườn núi có địa hình dốc đứng giống như đảo Java hay Nhật Bản, và những ngôi làng được bao quanh bằng những hàng rào bảo vệ bằng đá. Sau phát hiện của các phi công, ngày càng nhiều người châu Âu thám hiểm New Guinea bằng đường bộ, họ phát hiện những cư dân nơi đây là nông dân, họ trồng khoai nước, chuối, khoai mỡ, mía, khoai lang, nuôi lợn và gà. Giờ đây chúng ta biết rằng bốn loại hoa màu đầu tiên (khoai nước, chuối, khoai mỡ, mía và một số loại khác ít phổ biến hơn) là do chính người New Guinea thuần dưỡng, và cao nguyên New Guinea là một trong chín trung tâm duy nhất trên thế giới tự mình thuần dưỡng thực vật. Nền nông nghiệp New Guinea đã phát triển từ 7.000 năm nay, và là một trong những vùng có kinh nghiệm lâu đời nhất thế giới trong phát triển sản xuất lương thực.

Với những nhà thám hiểm và khai hoang người châu Âu, những người dân cao nguyên New Guinea dường như là những người “nguyên thủy”. Họ sống trong những túp lều mái lá, thường xuyên đánh lẫn nhau, không có vua hay thậm chí cả tù trưởng, không có chữ viết và mặc rất ít quần áo hoặc hoàn toàn trần truồng, kể cả trong các điều kiện lạnh giá với mưa lớn. Họ không có kim loại nên các công cụ sản xuất được làm bằng đá, gỗ và xương động vật. Họ dùng rìu đá để chặt cây, dùng gậy gỗ để xới vườn và đào kênh mương, sử dụng vũ khí là giáo, tên bằng gỗ và dao bằng tre trong những cuộc xung đột.

Đánh giá người New Guinea qua bề ngoài “nguyên thủy” rõ ràng là một sự nhầm lẫn, bởi các kỹ thuật canh tác của họ rất tiên tiến, tới mức các nhà nông học châu Âu tới giờ vẫn không hiểu vì sao trong một số trường hợp các phương pháp nông nghiệp của người New Guinea tỏ ra hiệu quả, trong khi những phương pháp cải tiến canh tác của người châu Âu lại thất bại. Ví như, một cố vấn nông nghiệp châu Âu đã phải choáng váng khi thấy một vườn khoai lang của người New Guinea trồng trên một sườn núi dốc đứng, trong một khu đất ẩm ướt có những con mương dẫn nước chảy thẳng từ trên đỉnh núi xuống. Ông liền thuyết phục dân làng sửa chữa sai lầm khủng khiếp đó, rằng nên để các mương dẫn nước chảy theo chiều ngang, vòng quanh đồi núi theo kinh nghiệm canh tác của châu Âu. Kính sợ người châu Âu, dân làng liền đổi hướng dòng chảy của kênh mương, hậu quả là nước bị dồn ứ đằng sau các kênh mương, và những trận mưa lớn đã gây ra lở đất cuốn toàn bộ khu vườn trượt theo sườn núi xuống dòng sông bên dưới. Để tránh hậu quả đó, từ rất lâu trước khi người châu Âu xuất hiện, người New Guinea đã nhận ra tác dụng của những kênh mương dọc trong các điều kiện thổ nhưỡng và mưa của cao nguyên.

Đó chỉ là một trong những kỹ thuật mà người New Guinea thử nghiệm và thất bại, trong suốt lịch sử hàng ngàn năm, để trồng các loại hoa màu trên các vùng đất có lượng mưa lên tới 1.016 xăngtimét mỗi năm, thường xuyên xảy ra động đất, lở đất, và (ở những độ cao hơn) có sương giá. Để duy trì độ màu của đất, nhất là trong những khu vực có mật độ dân cư đông đúc, thời gian đất bỏ hoang ngắn hay thậm chí canh tác liên tục để đảm bảo sản xuất đủ lượng lương thực cần thiết, người New Guinea phải viện đến toàn bộ các kỹ thuật cùng với việc trồng rừng mà tôi sẽ giải thích ngay sau đây. Họ vùi xuống đất các loại cỏ dại, cây thân cỏ, cây dây leo và bổ sung những chất hữu cơ khác cho đất như một hình thức bón phân, với số lượng lên tới 16 tấn mỗi mẫu. Họ phủ lên mặt ruộng tro, rác và các loại thực vật cắt từ những mảnh đất hoang, các khúc gỗ mục và phân gà để tăng cường chất dinh dưỡng cho đất. Họ đào những con mương xung quanh cánh đồng để hạ thấp mực nước và ngăn chặn tình trạng ngập úng, bốc phân chuồng hữu cơ ngâm dưới những con mương này đổ lên trên mặt ruộng. Các loại hoa màu họ đậu có tác dụng hút nitơ trong không khí, như đậu, được trồng luân canh với những loại hoa màu khác để duy trì lượng nitơ cho đất, thực tế sáng kiến này của người New Guinea hiện vẫn được các nước thuộc Thế giới thứ nhất áp dụng phổ biến trong hoạt động nông nghiệp. Trên những sườn đồi núi dốc đứng, người New Guinea làm ruộng bậc thang, đắp bờ giữ đất, và tất nhiên phải tiêu thoát lượng nước dư thừa bằng những con mương chạy dọc sườn đồi núi đã từng khiến một nhà nông học châu Âu giận dữ. Người châu Âu tin tất cả những kỹ thuật đặc biệt của người New Guinea bởi họ phải sinh sống nhiều năm trong một ngôi làng để học những phương pháp canh tác thành công của người New Guinea. Các bạn bè cao nguyên của tôi, thời nhỏ từng sống xa ngôi làng của mình vì lý do học tập, khi trở về làng họ không thể làm nông nghiệp thuần thục bởi thiếu quá nhiều kiến thức cơ bản.

Phát triển nông nghiệp bền vững ở cao nguyên New Guinea gặp rất nhiều khó khăn, không chỉ về độ màu của đất mà còn cả nguồn cung cấp gỗ, do rừng bị chặt phá để làm vườn và làm đất ở. Cư dân New Guinea sử dụng gỗ vào nhiều mục đích như làm nhà và làm hàng rào, làm công cụ sản xuất, đồ dùng sinh hoạt và vũ khí, làm chất đốt đun nấu và sưởi ấm túp lều trong những đêm lạnh giá. Ban đầu, vùng núi này được che phủ bởi những rừng sồi, nhưng qua hàng ngàn năm canh tác, rừng ở những khu vực có mật độ dân cư đông nhất (đặc biệt là thung lũng Wahgi của Papua New Guinea và thung lũng Baliem của New Guinea Indonesia) đã bị chặt phá hoàn toàn cho tới độ cao 2.438 mét. Vậy toàn bộ số gỗ cần thiết cho cuộc sống những người dân cao nguyên lấy ở đâu?

Ngay trong ngày đầu tiên tới cao nguyên này vào năm 1964, tôi đã thấy những lùm phi lao nhỏ trong các ngôi làng và các khu vườn. Còn được gọi là cây sheoak (một loại phi lao Australia) hay cây thiết mộc, phi lao thuộc nhóm vài chục loại cây lá kim, có nguồn gốc từ những đảo Thái Bình Dương, Australia, Đông Nam Á và Đông Phi nhiệt đới, nhưng hiện đã được trồng rộng rãi ở những nơi khác bởi đặc tính dễ xẻ nhưng gỗ rất rắn (nên mới có tên là thiết mộc). Một loài thực vật bản địa khác của cao nguyên New Guinea là phi lao oligodon, là một loại cây được hàng triệu dân cư cao nguyên trồng trên quy mô lớn bằng cách gieo hạt để cây phát triển tự nhiên dọc theo các bờ suối. Cư dân cao nguyên còn trồng một số loài cây khác, nhưng phi lao là loài được trồng nhiều nhất. Quy mô trồng phi lao trên cao nguyên lớn tới mức nó còn được gọi là “trồng rừng silviculture”, họ trồng cây gỗ thay cho các loại hoa màu như một nền nông nghiệp bình thường (silva, ager và cultura là những từ Latinh chỉ rừng, cánh đồng và trồng trọt)

Các nhà lâm học châu Âu dần dần đánh giá được những ưu điểm cụ thể của loài phi lao oligodon và lợi ích mà chúng mang lại cho những cư dân cao nguyên. Loài cây này lớn nhanh, thân cây làm gỗ xây dựng và làm củi rất tốt. Rễ cây có những mẩu nhỏ có tác dụng hút nitơ, và lượng lá dồi dào của nó rơi xuống sẽ làm tăng nitơ và carbon cho đất. Bởi vậy, những cây phi lao được trồng rải rác trong những khu vườn còn có tác dụng làm tăng độ màu của đất, còn ở những mảnh đất bỏ hoang thì nó có tác dụng rút ngắn thời gian phục hồi độ màu của đất trước khi trồng một loại hoa màu mới. Rễ cây có tác dụng giữ đất trên những sườn đồi dốc đứng và làm giảm xói mòn. Nông dân New Guinea cho rằng những loại cây này có tác dụng giữ cho vườn khỏi bị bọ cánh cứng phá hoại, và kinh nghiệm cho thấy rằng họ đúng cũng như những kỹ thuật nông nghiệp khác của họ, mặc dù các nhà nông học vẫn chưa tìm ra cơ sở người dân cho rằng cây có tác dụng chống bọ cánh cứng. Những cư dân cao nguyên còn đánh giá cao những lùm cây phi lao bởi những lý do rất lãng mạn như vì họ thích nghe tiếng gió thổi qua những rặng cây và bởi cây che mát cho những ngôi làng. Bởi vậy, thậm chí những khu rừng nguyên sinh trong những thung lũng bao la đã bị chặt phá hoàn toàn, việc trồng phi lao vẫn cung cấp đủ gỗ để xã hội New Guinea tiếp tục phát triển.

Vậy người dân New Guinea đã trồng rừng từ bao lâu? Những biện pháp mà các nhà cổ thực vật học sử dụng để tái dựng lịch sử thực vật của cao nguyên New Guinea về cơ bản giống như những gì chúng ta đã nghiên cứu về đảo Phục Sinh, Maya, Ireland và Greenland trong các chương từ Chương 2 đến Chương 8. Đó là, phân tích trầm tích của các hồ và đầm lầy để xác định lượng phấn hoa của các loài thực vật; tìm ra sự hiện diện của than củi hay các hạt các bon do những vụ cháy gây ra (hoặc do thiên nhiên hoặc do con người đốt nương làm rẫy); từ những gì tích tụ trong các trầm tích cho thấy xói mòn xuất hiện sau khi rừng bị tàn phá; và các nhà khoa học còn sử dụng phương pháp xác định niên đại bằng các bon phóng xạ.

Hóa ra con người lần đầu tiên đặt tới New Guinea và Australia vào khoảng 46.000 năm trước, trong làn sóng di cư từ châu Á về phía đông qua các đảo Indonesia bằng bè hoặc xuồng. Khi đó, New Guinea vẫn gắn với một mảnh đất rộng lớn của Australia, hiện nơi đây vẫn còn những dấu tích của con người khi lần đầu đặt chân tới đây. Khoảng 32.000 năm trước, xuất hiện than củi từ những đám cháy xảy ra thường xuyên, và lượng phấn hoa của các loài cây không phải cây rừng cũng tăng so với những loại cây rừng tại các khu vực cao nguyên của New Guinea, chứng tỏ con người đã tới những vùng này có thể là để săn bắn hay để hái những quả dứa dại như hiện nay họ vẫn làm. Những vết tích về phá rừng và sự xuất hiện của những con mương tiêu nước nhân tạo trong các đầm lầy của thung lũng xuất hiện cách đây khoảng 7.000 năm chứng tỏ hoạt động nông nghiệp của New Guinea đã có từ thời đó. Phấn hoa của các loài cây rừng tiếp tục giảm so với phấn hoa của các loại cây không phải cây rừng cho tới tận thời điểm cách đây khoảng 1.200 năm, khi lượng phấn hoa của phi lao đột nhiên tăng mạnh hầu như đồng thời ở hai thung lũng cách nhau 805 km, tại thung lũng Baliem ở phía tây và thung lũng Wahgi ở phía đông. Ngày nay chúng là hai thung lũng cao nguyên có rừng bị tàn phá khốc liệt nhất, với quy mô lớn nhất nhưng lại có số dân đông nhất và mật độ dân số lớn nhất, và có lẽ cách đây 1.200 năm, hai thung lũng này cũng có những đặc tính như vậy.

Nếu chúng ta coi hiện tượng phấn hoa của phi lao tăng như dấu hiệu cư dân bắt đầu trồng phi lao, vậy tại sao nó lại xuất hiện vào thời kỳ đó, và rõ ràng ở hai khu vực hoàn toàn cách xa nhau? Thời kỳ đó có hai hay ba yếu tố xuất hiện, kết hợp với nhau gây ra khủng hoảng thiếu gỗ. Thứ nhất là tình trạng phá rừng ngày càng nghiêm trọng, bởi số dân cư làm nông nghiệp tăng mạnh kể từ thời điểm cách đây 7.000 năm. Yếu tố thứ hai liên quan tới một lớp tro núi lửa dày, gọi là Ogowila, tại thời điểm đó đang bao trùm phía đông New Guinea (kể cả thung lũng Wahgi) nhưng không bị thổi xuống phía tây tới thung lũng Baliem. Lớp tro Ogowila là do một núi lửa lớn hoạt động dữ dội trên đảo Long Island, ngoài khơi bờ biển phía đông của New Guinea. Khi tôi tới Long Island năm 1972, đảo này có một vành đai là những ngọn núi với bán kính lên tới 25,7 kilômét, bao quanh một chiếc hồ trên miệng núi lửa lớn, đây là một trong những chiếc hồ lớn nhất trên các đảo Thái Bình Dương. Như đã đề cập trong Chương 2, các chất dinh dưỡng trong tro núi lửa sẽ kích thích hoa màu phát triển, kéo theo dân số phát triển, từ đó khiến nhu cầu tiêu thụ gỗ xây dựng và làm chất đốt tăng mạnh, và người dân cũng tăng cường trồng phi lao khi phát hiện ra những ưu điểm của nó. Cuối cùng, từ những ghi nhận về các hiện tượng El Nino xảy ra với Peru thì có thể suy đoán rằng hạn hán và sương giá có thể đã gây ảnh hưởng nặng nề với các xã hội cao nguyên New Guinea và đây là yếu tố thứ ba.

Dựa trên hiện tượng phấn hoa của phi lao tiếp tục tăng mạnh trong giai đoạn cách đây từ 300-600 năm, chứng tỏ các cư dân cao nguyên hồi đó có thể mở rộng hơn nữa hoạt động trồng rừng dưới sự thúc đẩy của hai sự kiện khác: Thứ nhất là vùng Tibito, một vùng đất có tro lửa núi bao phủ dày hơn và làm tăng độ màu của đất và dân số cao hơn so với vùng Ogowila, mặc dù lớp tro này đều từ vụ núi lửa phun trên đảo Long Island và trực tiếp tạo ra chiếc hồ lớn nhất hiện nay mà tôi đã thấy; và thứ hai có thể sự xuất hiện khoai lang của người Andes tại cao nguyên New Guinea thời điểm đó cho phép sản lượng hoa màu tăng gấp mấy lần so với các loại hoa màu trước đó của New Guinea. Sau khi xuất hiện tại các thung lũng Wahgi và Baliem, phi lao tiếp tục được trồng ở các khu vực khác của cao nguyên (bằng chứng là các hạt phấn hoa), vào những thời điểm khác nhau, thậm chí một số vùng xa xôi, hẻo lánh mới trồng ở những cây phi lao này trong thế kỷ XX. Cây phi lao được trồng ở nhiều nơi có lẽ do kỹ thuật trồng loại cây này từ hai khu vực đầu tiên đã được phổ biến rộng rãi, và cũng có thể đó là sáng kiến độc lập của những vùng khác sau này.

Tôi trình bày về lịch sử trồng phi lao ở cao nguyên New Guinea bởi coi đó như một điển hình trong việc giải quyết vấn đề bằng phương pháp quản lý từ dưới lên trên, mặc dù không có di cảo nào của New Guinea để cho chúng ta biết chính xác kỹ thuật đó đã được chấp nhận như thế nào. Nhưng khó có thể có hình thức nào khác để xử lý vấn đề, bởi các xã hội cao nguyên New Guinea được coi là biểu tượng trong việc ra quyết định từ dưới lên trên một cách cực kỳ dân chủ. Cho tới khi người Hà Lan đặt chân tới đây và rồi đến khi trở thành thuộc địa của chính quyền Australia vào những năm 1930, New Guinea vẫn chưa hề có bất kỳ sự thống nhất chính trị ở bất kỳ vùng nào của. Nó chỉ đơn thuần là những ngôi làng riêng biệt thường xuyên đánh lẫn nhau hoặc tạm thời liên minh với nhau chống lại những làng bên. Trong mỗi làng, thay vì có những người chỉ huy hoặc các thủ lĩnh theo kiểu cha truyền con nối, thì ở đây chỉ xuất hiện vai trò của những cá nhân được gọi là “bigmen- những người mạnh mẽ”, đây là những người có uy tín hơn những người khác nhưng vẫn sống trong những túp lều và làm vườn giống như mọi người. Các quyết định được đưa ra theo hình thức tập thể (hiện vẫn còn được áp dụng), tất cả mọi người trong làng ngồi lại với nhau, bàn bạc, bàn bạc và bàn bạc. Những người mạnh mẽ không thể ra mệnh lệnh, họ có thể hoặc không thể thành công trong việc thuyết phục những người khác chấp nhận đề xuất của mình. Ngày nay, với những người từ thế giới bên ngoài (không chỉ tôi mà cả bản thân những quan chức trong chính quyền New Guinea), có thể thất vọng với phương pháp ra quyết định kiểu này, bởi họ không thể tới gặp thẳng một thủ lĩnh được dân làng bầu ra để có ngay câu trả lời cho yêu cầu của họ; họ phải kiên nhẫn đối thoại với từng người trong hàng giờ, hoặc hàng ngày với tất cả những ai trong làng có ý kiến về yêu cầu đó.

Đây chắc hẳn cũng là cách chấp nhận thực tế đối với việc trồng phi lao và tất cả những thực tiễn nông nghiệp hữu ích khác của cao nguyên New Guinea. Cư dân trong các làng có thể nhận ra việc phá rừng đang diễn ra xung quanh họ, có thể nhận thấy tốc độ sinh trưởng của mùa màng, vườn tược thấp do đất đai bị bạc màu sau khi rừng bị chặt phá, và họ cũng đã phải hứng chịu những hậu quả của việc thiếu gỗ và chất đốt. Người New Guinea ham hiểu biết và thử nghiệm hơn bất kỳ dân tộc nào mà tôi biết. Những năm đầu ở New Guinea, tôi thấy một số người có những chiếc bút chì, một đồ vật hồi đó vẫn chưa phổ biến, chắc hẳn chiếc bút sẽ được thử sử dụng vào vô số mục đích khác chứ không phải chỉ để viết như để làm tóc? làm vũ khí? để nhai trong miệng? để làm hoa tai dài thượt? hay để xuyên qua vách mũi? Bất cứ khi nào cùng với người New Guinea làm việc ở những vùng cách xa nơi ở của họ, tôi thấy họ thường để ý tới các loài thực vật bản địa và hỏi cư dân ở đó về công dụng của chúng, rồi chọn một số cây mang về thử trồng ở nhà. Chắc hẳn 1.200 năm trước, ai đó cũng đã để ý thấy những cây phi lao mọc cạnh một con suối và mang nó về nhà trồng thử như những loại cây khác và thấy chúng rất có ích cho khu vườn của mình. Rồi những người khác lại quan sát những khu vườn trồng phi lao này và lại thử trồng trong vườn nhà mình.

Không chỉ phải giải quyết vấn đề thiếu gỗ và tăng độ màu cho đất, cư dân New Guinea cũng còn phải đối mặt với vấn đề dân số tăng lên. Trước đây, New Guinea kiểm soát tình trạng dân số tăng bằng những biện pháp diễn ra từ thời thơ ấu của nhiều người bạn New Guinea của tôi, như chiến tranh, tục giết trẻ em, sử dụng các loại cây rừng để tránh thai hay nạo thai, và hạn chế quan hệ tình dục hay không cho trẻ sơ sinh bú trong thời gian vài năm. Bằng những cách đó, các xã hội New Guinea không phải chịu chung cảnh bất hạnh giáng xuống đầu các cư dân đảo Phục Sinh, Mangareva, Maya, Anasazi và nhiều dân tộc khác do phá rừng và dân số tăng nhanh. Những cư dân cao nguyên đã duy trì được hoạt động của xã hội trong hàng chục ngàn năm trước khi hoạt động nông nghiệp xuất hiện, và còn tiếp tục phát triển thêm 7.000 năm sau khi nông nghiệp xuất hiện, mặc dù hiện tượng thay đổi khí hậu và tác động của con người tới môi trường liên tục khiến điều kiện sống bị thay đổi.

Ngày nay, người New Guinea đang phải đối mặt với một đợt bùng nổ dân số mới bởi chăm sóc sức khỏe cộng đồng được nâng cao, du nhập nhiều loại hoa màu mới và những cuộc chiến tranh liên miên giữa các bộ tộc cũng đã chấm dứt hoặc suy giảm. Xã hội không còn chấp nhận kiểm soát tăng dân số bằng cách giết trẻ em. Nhưng trong quá khứ, người New Guinea cũng từng thích nghi với những thay đổi lớn trong đời sống như việc tuyệt chủng hệ động vật thuộc kỷ Pleitoxen, tình trạng băng tuyết tan và nhiệt độ ấm lên ở cuối Thời kỳ Băng hà và sự phát triển của nông nghiệp, phá rừng hàng loạt, tro núi lửa, tình trạng El Nino, sự xuất hiện của khoai lang và người châu Âu. Giờ đây liệu họ có thể thích nghi với những thay đổi khiến dân số bùng nổ như hiện nay không?

Tikopia, một hòn đảo nhiệt đới nhỏ, biệt lập nằm ở tây nam Thái Bình Dương, là một câu chuyện khác về sự thành công của phương pháp quản lý từ dưới lên trên (xem hình 4 và 5). Với tổng diện tích chỉ có 2,89 kilômét vuông, dân số 1.200 người với mật độ dân số 400 người mỗi kilômét vuông trên số đất có thể canh tác. Xét về mật độ dân số thì đây là một dân số tương đối đông trong một xã hội truyền thống, không có kỹ thuật nông nghiệp hiện đại. Tuy nhiên, con người vẫn sinh sống liên tục trên đảo này trong thời gian gần 3.000 năm.

Đảo gần Tikopia nhất thậm chí còn nhỏ hơn là đảo Anuta chỉ rộng 0,2 kilômét vuông, cách Tikopia 85 hải lý và chỉ có 170 cư dân. Những đảo lớn hơn và gần Tikopia nhất là đảo Vanua Lava và Vanikoro thuộc các quần đảo Vanuatu và Solomon, cách Tikopia 140 hải lý và mỗi đảo chỉ rộng 160 kilômét vuông. Theo cách nói của nhà nhân chủng học Raymond Firth, người từng sống ở Tikopia trong thời gian một năm (từ 1928 - 1929) và sau đó thường xuyên trở lại đây, thì “với những người chưa từng sống trên đảo thì thật khó nhận ra sự biệt lập của đảo với thế giới bên ngoài. Đảo bé tới mức hiếm khi bạn không nhìn thấy biển hay không nghe thấy tiếng sóng. [khoảng cách tối đa từ trung tâm đảo tới bờ biển là 1,2 kilômét]. Khái niệm về không gian của người dân bản xứ chỉ có vậy, họ không thể hình dung ra lại còn có vùng đất khác lớn hơn, đông người hơn… một nhóm dân bản xứ từng hỏi tôi rất nghiêm túc: ‘Này bạn, có vùng đất nào mà không nghe thấy tiếng sóng biển không?’. Sự tù túng của họ còn có những hậu quả là mỗi khi đề cập tới bất kỳ vấn đề gì có liên quan tới không gian, họ đều sử dụng thuật ngữ ‘đất liền’ và ‘về phía biển’. Bởi vậy, một chiếc rìu nằm trên nền một ngôi nhà như thế nào cũng được nói theo lối địa phương này, tôi từng nghe thấy một người đàn ông khi muốn nói cho một người khác biết mặt anh ta lấm bùn liền nói: ‘bên má về phía biển của anh có một vết bùn’. Ngày tháng qua đi nhưng chân trời vẫn phẳng lặng và không có dấu hiệu nào để họ có thể biết rằng vẫn còn có những mảnh đất khác đang tồn tại”.

Với những chiếc xuồng cổ nhỏ bé của Tikopia, thì một chuyến đi biển về hướng tây nam Thái Bình Dương, nơi thường xuyên xảy ra lốc xoáy để tới bất kỳ một hòn đảo láng giềng nào gần đó đều rất nguy hiểm, tới mức người Tikopia coi đó là một cuộc phiêu lưu đầy mạo hiểm. Do thuyền nhỏ và không thường xuyên đi biển nên người Tikopia cực kỳ hạn chế hàng nhập khẩu, họ chỉ nhập những mặt hàng có giá trị lớn về mặt kinh tế như đá để chế tạo các công cụ, và mang theo những người trẻ tuổi, độc thân từ Anuta tới để kết hôn với cư dân trên đảo. Bởi đá Tikopia có chất lượng kém nên không dùng để chế tạo công cụ được (giống như loại đá chúng ta đã thấy trên các đảo Mangareva và Henderson ở Chương 3), nên các loại đá như đá vỏ chai, đá thủy tinh núi lửa, đá basalt và đá phiến silic được nhập khẩu từ Vanua Lava và Vanikoro, một số khác có nguồn gốc từ những đảo xa hơn thuộc các quần đảo Bismarck, Solomon và Samoa. Ngoài ra họ còn nhập khẩu một số mặt hàng xa xỉ khác như vỏ sò để làm đồ trang sức, cung tên và (trước đây) cả đồ gốm.

Chắc chắn rằng người Tikopia không phải nhập các loại lương thực với số lượng lớn để duy trì sự sống của họ. Họ sản xuất và dự trữ lượng lương thực dôi thừa đủ để không bị rơi vào tình trạng thiếu lương thực trong mùa khô hằng năm của tháng Năm và tháng Sáu, hoặc khi những cơn gió xoáy xảy ra đột ngột tàn phá những khu vườn của họ. (Tikopia nằm trong vành đai gió xoáy chính của Thái Bình Dương, trung bình mỗi thập kỷ xảy ra khoảng 20 cơn gió xoáy). Bởi vậy trong suốt 3.000 năm tồn tại, Tikopia luôn phải giải quyết hai vấn đề: Làm thế nào để có thể sản xuất đủ lương thực cho 1.200 người một cách ổn định? Và làm thế nào để kiểm soát dân số không tăng lên mức cao hơn bởi sẽ không thể duy trì được hoạt động của xã hội?

Nguồn thông tin chính của chúng ta về lối sống truyền thống của người Tikopia chính là từ những ghi chép của nhà nhân chủng học Raymond Firth, những quan sát của ông được coi là một trong những nghiên cứu cổ điển về nhân chủng học. Mặc dù Tikopia được người châu Âu “phát hiện” từ năm 1606, nhưng chắc chắn vị trí địa lý biệt lập của nó khiến ảnh hưởng của châu Âu là không đáng kể, cho tới tận những năm 1800. Năm 1857, những nhà truyền giáo đầu tiên của châu Âu mới đặt chân tới đây, và mãi tới sau những năm 1900 thì mới có những cư dân đầu tiên trên đảo cải sang đạo Thiên Chúa. Bởi vậy, trong thời gian sống ở đây từ năm 1928-1929, nhà nhân chủng học Firth có cơ hội quan sát nền văn hóa Tikopia tốt hơn những nhà nhân chủng học sau này, bởi khi đó nền văn hóa Tikopia vẫn mang nhiều giá trị truyền thống, mặc dù đang trong quá trình thay đổi.

Khả năng duy trì sản xuất lương thực của Tikopia được tăng cường bởi một số yếu tố môi trường đã được thảo luận trong Chương 2 nên khiến các xã hội trên một số đảo Thái Bình Dương phát triển bền vững hơn, và ít nhạy cảm với suy thoái môi trường so với những xã hội trên các đảo khác. Những lợi thế môi trường đảm bảo cho sự phát triển của Tikopia là lượng mưa cao, vĩ độ trung bình và nằm trong khu vực có tro núi lửa rơi xuống nhiều (bay từ những núi lửa của các đảo khác sang). Những yếu tố này đã tạo nên những lợi thế về mặt địa lý cho người Tikopian, những điều kiện thuận lợi mà bản thân họ có thể khẳng định rằng đó hoàn toàn là những điều kiện khách quan. Những yếu tố còn lại tạo nên vận mệnh của họ là do chính những người dân ở đây tạo ra. Rõ ràng, toàn bộ hòn đảo được quản lý một cách vi mô để sản xuất lương thực được diễn ra ổn định và liên tục so với hình thức canh tác đốt nương làm rẫy phổ biến ở nhiều đảo Thái Bình Dương khác. Hầu như mọi loài thực vật ở Tikopia đều được người dân sử dụng bằng cách này hay cách khác, thậm chí cỏ cũng được sử dụng để che phủ cho đất vườn, và cây dại được sử dụng như một nguồn lương thực bổ sung mỗi khi nạn đói xảy ra.

Nếu tới Tikopia bằng đường biển, bạn có thể nhìn thấy những cánh rừng nhiệt đới nguyên sinh nhiều tầng với những cây gỗ cao che phủ hòn đảo, trông giống như những hoang đảo trên biển Thái Bình Dương bị rừng rậm che phủ. Chỉ khi bạn đặt chân lên đảo và đi giữa những cây rừng thì bạn mới nhận ra rằng rừng nhiệt đới thực sự chỉ giới hạn trong vài vùng đất với những vách đá dựng đứng, và phần đất còn lại của đảo là dành để sản xuất lương thực. Phần lớn diện tích trên đảo được phủ kín bởi những vườn cây ăn quả với tầng cao là những cây cao thuộc các loài thực vật bản địa hoặc du nhập cho hạt hoặc hoa quả có thể ăn được hoặc những sản phẩm hữu ích khác, trong đó quan trọng nhất là dừa, quả mít bột, cọ sagu với thân cây có lõi bột. Những loại cây có tán mặc dù số lượng không nhiều nhưng cũng rất giá trị là cây quả hạnh bản địa (Canarium harveyi), cây Burckella ovovata cho hạt, cây hạt dẻ Inocarpus fagigerus Tahiti, cây Barringtonia procera cho hạt và cây hạnh nhiệt đới Terminalia catappa. Những cây hữu ích nhưng thấp hơn nằm ở tầng giữa có cọ cau cho hạt có chứa chất gây nghiện, táo Tahiti Spondias dulcis, và cây mami cao trung bình Antiaris toxicara, rất thích hợp khi trồng xen với những vườn quả này bởi vỏ của nó có thể được sử dụng để làm vải, thay cho cây dướng được sử dụng tại các đảo Polynesia khác. Dưới những tầng cây này là những loại hoa màu như khoai lang, chuối, khoai nước khổng lồ Cyrtosperma chamissonis, đa phần những loại này đều đòi hỏi điều kiện đất ẩm ướt nhưng người Tikopia trồng những loại cây có gen vô tính thích nghi rất tốt với điều kiện khô hanh trong những vườn quả trên sườn đồi được thoát nước. Những vườn quả nhiều tầng này chỉ có duy nhất ở Thái Bình Dương với cấu trúc giống hệt như một khu rừng nhiệt đới, chỉ khác là tất cả những loại cây của nó đều ăn được, còn đa phần những cây rừng nhiệt đới là không ăn được.

Ngoài những vườn quả rộng này còn có hai khu vực khác nhỏ hơn nhưng cũng rộng rãi, không có cây cối và cũng được sử dụng để sản xuất lương thực. Thứ nhất là một đầm lầy nước ngọt nhỏ dùng để trồng những loại khoai nước lớn, thích nghi với môi trường ẩm ướt chứ không phải là dòng vô tính trồng trên các sườn đồi thích hợp với môi trường hanh khô. Thứ hai là những cánh đồng có thời gian bỏ hoang đất ngắn, đòi hỏi nhiều nhân công và trồng ba loại hoa màu cho củ gần như liên tục, đó là: khoai nước, khoai mỡ và hiện là sắn Nam Mỹ mới du nhập đã thay thế khoai mỡ bản địa trên những diện tích lớn. Những cánh đồng này đòi hỏi nhiều nhân công để thường xuyên nhổ cỏ dại, nhưng cũng trồng thêm cỏ và cây bụi để che phủ cho hoa màu khỏi bị chết khô.

Các sản phẩm lương thực chính của những vườn quả, đầm lầy và những cánh đồng này là những loại lương thực thực vật tinh bột. Còn về nguồn cung cấp protein, do không có loài vật nuôi to hơn gà và chó, nên người Tikopia chủ yếu dựa vào những loài vật nhỏ hơn như vịt và cá bắt được từ một hồ nước lợ trên đảo, và cũng phụ thuộc nhiều vào cá và các loài giáp xác đánh bắt ở biển. Để khai thác hải sản được duy trì ở mức hợp lý, các thủ lĩnh đặt ra những quy định cho phép cư dân đánh bắt hoặc ăn cá; chính những quy định này đã giúp ngăn chặn tình trạng đánh bắt cá quá mức.

Tuy vậy, người Tikopia vẫn phải dựa vào hai nguồn thực phẩm khác trong trường hợp khẩn cấp để giúp họ qua được mùa khô hằng năm khi sản lượng hoa màu thấp, và khi những cơn lốc diễn ra bất ngờ có thể tàn phá những khu vườn và những cánh đồng. Loại thứ nhất là để mít bột lên men trong các nhà kho tạo thành một loại bột nhão có thể tích trữ được từ 2-3 năm. Loại thứ hai là khai thác những loại hoa quả, hạt và những phần khác của cây có thể ăn được từ một mảnh rừng nguyên sinh nhỏ, mặc dù đây không phải là loại lương thực mà người Tikopia ưa thích nhưng có thể giúp họ thoát khỏi tình trạng đói ăn. Năm 1976, khi tôi đang ở một đảo khác của người Polynesia tên là Rennell, tôi đã hỏi cư dân ở đó về những loại cây rừng có thể ăn được ở Rennell, thì được trả lời: một số loại cây hoa quả “có thể ăn được”, một số loại “không thể ăn được” và một số loại cây khác có hoa quả “chỉ có thể ăn khi hungi kenge”. Chưa từng nghe về hungi kenge, tôi liền tìm hiểu và được biết rằng đó là cơn lốc lớn nhất trong lịch sử, đã tàn phá những khu vườn của Rennell vào khoảng năm 1910 và đẩy cư dân nơi đây rơi vào tình trạng đói ăn, để tự cứu mình, họ đã phải ăn cả những loại hoa quả dại mà trước đó họ không thích và bình thường sẽ chẳng bao giờ ăn. Tại Tikopia, mỗi năm trung bình có hai cơn gió xoáy thì chắc hẳn các loại hoa quả này sẽ có vai trò quan trọng hơn ở Rennell rất nhiều.

Đó là những cách mà người Tikopia đảm bảo cung cấp đủ lương thực cho bản thân. Nhưng còn một điều kiện tiên quyết khác đảm bảo sự sinh tồn của Tikopia là giữ cho dân số ổn định và không tăng lên. Trong thời gian nhà nhân chủng học Firth ở trên đảo năm 1928 - 1929, ông đếm được dân số trên đảo tất cả là 1.278 người. Từ năm 1929 - 1952, dân số tăng trung bình 1,4% mỗi năm, một tỷ lệ trung bình mà những tưởng với những thế hệ sinh sống ở Tikopia cách đây 3.000 năm tỷ lệ này sẽ cao hơn. Mặc dù vậy, nhưng tỷ lệ tăng dân số của Tikopia thời kỳ đầu cũng chỉ là 1,4%/năm, mà số người định cư ban đầu chỉ có 25 người, chỉ một chiếc xuồng cũng chở hết. Như vậy, nếu tỷ lệ tăng trưởng dân số cứ tiếp tục được duy trì ở mức này thì số dân trên một hòn đảo có diện tích chỉ 2,89 kilômét vuông, sau một ngàn năm sẽ tăng tới một mức vô lý là 25 triệu người, hay lên 25 triệu nghìn tỷ người vào năm 1929. Rõ ràng đó là điều vô lý, dân số không thể tăng liên tục với tỷ lệ này, bởi nó đã đạt tới mức dân số hiện nay là 1.278 người chỉ sau 283 năm, kể từ khi con người đặt chân tới đây. Vậy người Tikopia đã làm thế nào để giữ được số dân ổn định như vậy trong suốt 283 năm?

Nhà nhân chủng học Firth đã tìm ra sáu phương pháp kiểm soát dân số vẫn còn được áp dụng trên đảo vào năm 1929, và phương pháp thứ bảy thì trước đó đã từng được áp dụng. Đa phần độc giả của cuốn sách này chắc hẳn cũng đã từng áp dụng ít nhất một trong số các phương pháp này, như tránh thai hoặc nạo thai, và những quyết định này của chúng ta có thể ngầm bị ảnh hưởng bởi những lý do của áp lực dân số hay từ điều kiện sống của gia đình. Tuy nhiên, cư dân Tikopia tuyên bố công khai rằng động cơ tránh thai và những biện pháp khác của họ là để dân số trên đảo không tăng quá cao, và để ngăn chặn tình trạng số thành viên trong gia đình đông hơn khả năng đất đai của họ có thể cung cấp đủ lương thực. Ví dụ, hằng năm các thủ lĩnh người Tikopia tiến hành một nghi lễ để họ cầu cho dân số trên đảo không tăng thêm, mà không biết rằng một tổ chức có cái tên tương tự (nhưng sau này đã đổi tên), cùng chung mục đích như vậy đã được thành lập ở Thế giới thứ nhất. Các bậc cha mẹ người Tikopia cảm thấy có lỗi khi sinh thêm một đứa con nữa khi cậu con trưởng của họ đã tới tuổi lập gia đình, hoặc có số con nhiều hơn mô hình gia đình phổ biến là bốn con, hoặc một con trai và một con gái, hoặc một con trai và một hoặc hai con gái.

Trong số bảy phương pháp kiểm soát dân số của Tikopia, biện pháp đơn giản nhất là tránh thai bằng cách xuất tinh ngoài âm đạo. Một phương pháp khác là nạo thai bằng cách ép bụng hay đặt đá nóng lên bụng của phụ nữ mang thai sắp tới kỳ sinh nở. Một giải pháp khác là giết trẻ sơ sinh bằng những cách như chôn sống, bóp chết hoặc đặt trẻ sơ sinh nằm sấp. Những chàng trai trẻ sống trong những gia đình nghèo thì phải chịu cảnh sống độc thân, do vậy nhiều cô gái tới tuổi lập gia đình cũng phải sống độc thân chứ không chấp nhận cảnh đa thê. (Độc thân ở Tikopia có nghĩa là không có con, nhưng không loại trừ việc có quan hệ tình dục và phải áp dụng các phương pháp xuất tình ngoài âm đạo, nạo thai hay giết trẻ sơ sinh nếu cần thiết). Vẫn còn một phương pháp nữa là tự sát, đã có bảy trường hợp tự sát bằng cách treo cổ (nạn nhân là 6 nam giới và 1 phụ nữ) và 12 người (đều là phụ nữ) bơi ra biển trong giai đoạn 1929 - 1952. Trường hợp phổ biến hơn tình trạng tự sát công khai đó là “chấp nhận chết” bằng cách tổ chức những chuyến đi biển rất nguy hiểm, và hình thức này đã cướp đi sinh mạng của 81 nam giới và 3 phụ nữ trong giai đoạn từ 1929 - 1952. Hơn 1/3 số nạn nhân của những chuyến đi biển kiểu này là thanh niên độc thân. Liệu có phải một bộ phận thanh niên “cảm tử” trong những chuyến đi biển đó hay họ chết vì bất cẩn, điều này cũng tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể, nhưng chắc chắn một phần bởi những thanh niên nghèo thấy trước được tương lai ảm đạm của mình trên một hòn đảo đông dân và đói ăn nên đã chấp nhận cái chết. Nhà nhân chủng học Firth được biết rằng năm 1929, khi trên đảo đang bị hạn hán nghiêm trọng và xảy ra nạn đói, một người đàn ông Tikopia tên là Pa Nukumara, em trai của một thủ lĩnh hồi đó, đã cùng hai con trai lên thuyền đi ra biển với mục đích rõ ràng là để chết cho nhanh, còn hơn là chết dần chết mòn trên đất liền.

Khi Firth đặt chân lên đảo thì phương pháp kiểm soát dân số thứ bảy không còn được cư dân trên đảo áp dụng, mà ông chỉ nghe họ kể lại. Khoảng những năm 1600 và đầu 1700, theo lời kể lưu truyền qua nhiều thế hệ kể từ khi sự việc xảy ra, thì trước kia Tikopia có một vịnh nước mặn lớn bị cải tạo thành hồ nước lợ như hiện nay bằng cách đắp một doi cát chặn ngang cửa vịnh. Hành động này đã làm chết vô số loài giáp xác trong vịnh và làm số lượng cá giảm mạnh, đẩy bộ lạc Nga Ariki sống trong vùng đó rơi vào tình trạng thiếu lương thực. Để sinh tồn, bộ lạc này đã tấn công và tiêu diệt bộ lạc Nga Ravenga để chiếm thêm nhiều đất đai và bờ biển hơn. Sau đó một hoặc hai thế hệ, bộ lạc này lại tiếp tục tấn công bộ lạc Nga Faea còn lại, buộc họ phải lên thuyền chạy ra biển (và rơi vào tình trạng “cầm chắc cái chết”) chứ không chịu để đối phương giết trên đất liền. Những truyền thuyết này được khẳng định bằng những bằng chứng khảo cổ của việc chặn vịnh và những khu làng từng tồn tại ở đây.

Tới thế kỷ XX, đa phần bảy biện pháp kiểm soát dân số của Tikopia đã biến mất hay ít được áp dụng do chịu ảnh hưởng của châu Âu. Chính quyền thuộc địa Anh trên quần đảo Solomon cấm cư dân đi biển và cấm gây hấn với nhau, trong khi các nhà truyền giáo khuyên răn không nạo thai, không giết trẻ em hoặc tự sát. Do vậy, dân số Tikopia tăng từ 1.278 người năm 1929 lên 1.753 người vào năm 1952, năm xảy ra hai vụ gió xoáy tàn khốc chỉ trong vòng 13 tháng tàn phá một nửa hoa màu của Tikopia và gây ra nạn đói trên diện rộng. Phản ứng trước cuộc khủng hoảng này, chính quyền thuộc địa Anh trên quần đảo Solomon lập tức gửi lương thực cứu trợ, và sau đó giải quyết vấn đề một cách lâu dài là cho phép và khuyến khích người Tikopia giảm bớt áp lực dân số bằng cách di cư sang những đảo khác ít dân hơn trong quần đảo Solomon. Ngày nay, các thủ lĩnh Tikopia chỉ giới hạn dân số ở quy mô như tổ tiên họ trước kia từng duy trì bằng những biện pháp như giết trẻ sơ sinh, tự sát và những biện pháp khác mà giờ không thể chấp nhận được.

Khi nào và làm thế nào mà nền kinh tế Tikopia phát triển vượt bậc? Các cuộc khai quật khảo cổ do Patrick Kirch và Douglas Yen thực hiện cho thấy nó không diễn ra ngay lập tức mà phát triển dần dần trong suốt quá trình khoảng 3.000 năm. Vào khoảng năm 900 TrCN, người Lapita, tổ tiên của người Polynesia hiện đại là những cư dân đầu tiên đặt chân lên đảo này, như đã đề cập trong Chương 2. Những cư dân đầu tiên này đã gây ảnh hưởng lớn tới môi trường của đảo. Dấu tích than củi tại những khu vực khảo cổ cho thấy họ đã đốt rừng. Họ săn bắt những đàn chim biển, chim đất liền đang vào mùa sinh sản, bắt dơi ăn hoa quả, cá, các loài giáp xác và rùa biển. Trong vòng 1.000 năm định cư đầu tiên, năm loài chim của Tikopia là chim điêu Abbott, chim hải âu Audubon, gà nước, chim đất và nhạn biển xám đã bị tuyệt chủng, sau đó tới lượt chim điêu chân đỏ. Cũng trong thiên niên kỷ đầu tiên này, các loại xương khai quật được cho thấy xương dơi ăn hoa quả hoàn toàn không còn, xương cá và xương chim giảm 3/4, các loài giáp xác giảm 10 lần và kích thước các loài trai và sò xếp loại to cũng giảm (có lẽ bởi trước đó con người đã đánh bắt hết những con to).

Khoảng năm 100 TrCN, nền kinh tế bắt đầu thay đổi khi những nguồn lương thực tự nhiên ban đầu đã biến mất hay cạn kiệt. Trong thời gian 1.000 năm tiếp theo, sự tích tụ của than củi đã chấm dứt, và xuất hiện dấu tích của những quả hạnh bản địa (Canarium harveyi) trong những khu khảo cổ, chứng tỏ người Tikopia đã từ bỏ hình thức canh tác đốt nương làm rẫy, và chuyển sang làm vườn trồng những loại cây cho hoa quả ăn được. Để khôi phục những loài chim và hải sản bị suy giảm mạnh mẽ, cư dân trên đảo chuyển sang chăn nuôi lợn trên quy mô lớn, cung cấp tới một nửa lượng protein mà người dân tiêu thụ. Một thay đổi bất ngờ trong nền kinh tế và các đồ tạo tác diễn ra vào khoảng năm 1200 chính là sự xuất hiện của người Polynesia, hậu duệ của những người Lapita đầu tiên cũng đã từng đặt chân tới Tikopia, từ phía đông tràn xuống mang theo những nét văn hóa đặc trưng của các đảo Fiji, Samoa và Tonga. Chính những người Polynesia đã mang theo những kỹ thuật ủ men và lưu trữ mít bột trong nhà kho tới Tokipia.

Vào khoảng năm 1600, một quyết định quan trọng được cư dân Tokipia thực hiện nghiêm túc và vẫn còn lưu truyền trong dân gian, nhưng được chứng thực bằng những hiện vật khảo cổ, đó là giết tất cả số lợn trên đảo, nguồn cung cấp protein được thay thế bằng cách tăng cường ăn cá, các loài giáp xác và rùa biển. Theo lời kể của những người Tikopia, lý do tổ tiên họ đưa ra quyết định này bởi lợn tàn phá vườn tược và dũi tung các rễ cây, cạnh tranh với nguồn lương thực của con người, giá trị lương thực đối với con người thấp (phải mất 10 kg rau ăn được thì mới được 1 kg thịt lợn), bởi vậy thịt lợn trở thành loại thực phẩm xa xỉ chuyên dành cho các thủ lĩnh. Với việc diệt trừ lợn, và cải tạo vịnh Tikopia thành hồ nước lợ diễn ra cùng thời điểm, nền kinh tế Tikopia đã tìm ra những phương thức quan trọng để tồn tại cho tới khi những người châu Âu đầu tiên tới đây cư trú vào những năm 1800. Bởi vậy, trước khi ảnh hưởng của chính quyền thuộc địa và các nhà truyền giáo Thiên Chúa gia tăng trong thế kỷ XX, thì người Tikopia đã tự nuôi sống mình trong suốt ba thiên niên kỷ trên chính mảnh đất nhỏ bé, xa xôi này.

Người Tikopia hiện chia thành bốn thị tộc, đứng đầu là những thủ lĩnh theo tục cha truyền con nối, quyền lực của những người này lớn hơn nhiều so với những “người mạnh mẽ”, không theo tục cha truyền con nối như cao nguyên New Guinea. Tuy nhiên, sự phát triển của xã hội người Tikopia thực chất lại theo phương pháp từ dưới lên trên chứ không phải từ trên xuống dưới. Chưa đến nửa ngày đã có thể đi khắp bờ biển của Tikopia, nên tất cả mọi người Tikopia đều thông thuộc mọi ngõ ngách trên đảo. Dân số ít đủ để tất cả mọi người trên đảo biết đến nhau. Mỗi mảnh đất trên đảo đều được đặt tên và thuộc sở hữu của một số nhóm cư dân có quan hệ huyết thống với nhau, mỗi gia đình sở hữu những mảnh đất trên các vùng khác nhau của đảo. Nếu một khu vườn còn bị bỏ hoang, thì bất cứ ai cũng có thể tạm thời trồng hoa màu trên khu vườn đó. Ai cũng có thể đánh bắt cá tại bất kỳ dải san hô nào mà không cần biết rằng nó nằm ngay trước cửa nhà của người khác. Khi xảy ra gió lốc hoặc hạn hán, thì toàn bộ hòn đảo sẽ bị ảnh hưởng. Bởi vậy, mặc dù thuộc các thị tộc khác nhau và diện tích đất sở hữu cũng khác nhau, nhưng tất cả cư dân Tikopia đều phải đối mặt với những khó khăn và nguy hiểm như nhau. Sự biệt lập và quy mô nhỏ của Tikopia đòi hỏi mọi vấn đề phải được quyết định bằng hình thức tập thể ngay từ khi con người mới định cư trên đảo. Nhà nhân chủng học Raymond Firth đã đặt tên cho cuốn sách đầu tiên của ông là Chúng tôi, người Tikopia bởi đó là nghĩa của cụm từ “Matou nga Tikopia” mà ông thường xuyên nghe thấy những người Tikopia nói mỗi khi giải thích về xã hội của họ với ông.

Các thủ lĩnh Tikopia đóng vai trò như lãnh chúa đối với đất đai và thuyền bè của thị tộc, và họ có trách nhiệm phân phối lại các