CHƯƠNG 11 MỘT HÒN ĐẢO, HAI DÂN TỘC, HAI LỊCH SỬ: -CỘNG HÒA DOMINICA VÀ HAITI
Những khác biệt của hai nước - Hai lịch sử - Nguyên nhân gây ra sự khác biệt - Những tác động môi trường của Dominica - Balaguer - Môi trường Dominica ngày nay - Tương lai của hai nước.
Với những ai quan tâm tìm hiểu những vấn đề của thế giới hiện đại, thì sẽ là một thách thức lớn khi tìm hiểu khu vực biên giới dài 193 kilômét giữa cộng hòa Dominica và Haiti, hai quốc gia phân chia hòn đảo Caribbe lớn là Hispaniola nằm ở phía đông nam Florida (xem hình 11). Từ trên máy bay nhìn xuống, biên giới trông như một đường kẻ sắc nét với những đoạn quanh co, một nhát dao cắt tùy tiện ngang hòn đảo, và đột ngột phân chia màu đen sẫm và màu xanh của phong cảnh phía đông ranh giới (phía cộng hòa Dominica) với phong cảnh màu vàng và xám xịt ở phía tây ranh giới (phía Haiti). Trên mặt đất, có thể đứng bất kỳ ở chỗ nào trên biên giới, quay mặt về hướng đông, bạn sẽ nhìn thấy những rừng thông, sau đó quay lại, hướng về phía tây và chỉ thấy những vùng đất trơ trụi, không một bóng cây.
Những hình ảnh tương phản đó không chỉ thể hiện sự khác biệt giữa biên giới hai nước mà còn trên khắp cả nước. Ban đầu, phần lớn diện tích của cả hai phần đảo đều được rừng che phủ, những du khách châu Âu đầu tiên tới đây đã ghi lại rằng cảnh ấn tượng nhất của Hispaniola chính là những khu rừng um tùm, đầy các loại gỗ quý. Cả hai nước hiện đều không còn lớp rừng che phủ, nhưng Haiti bị mất nhiều hơn nhiều (Phụ bản ảnh 23, 24), tới mức hiện nước này chỉ còn bảy khu rừng lớn, trong đó chỉ có hai khu rừng được bảo vệ như những công viên quốc gia, nhưng cả hai cũng là mục tiêu của bọn lâm tặc. Ngày nay, rừng vẫn che phủ 28% diện tích lãnh thổ của cộng hòa Dominica, nhưng Haiti chỉ có 1%. Tôi sửng sốt trước quy mô của những khu rừng, thậm chí nằm cả trong vùng đất canh tác tốt nhất Dominica, giữa hai thành phố lớn nhất là Santo Domingo và Santiago. Cũng giống như những nước khác trên thế giới, những hậu quả mà Haiti và Dominica phải hứng chịu do phá rừng là thiếu gỗ và các vật liệu xây dựng khác từ rừng, xói mòn đất, đất bạc màu, bùn đất lắng đọng trong các lòng sông, mất thảm thực vật bảo vệ nguồn nước, và từ đó đánh mất tiềm năng thủy điện, làm giảm lượng mưa. Tất cả những vấn đề môi trường ở Haiti nghiêm trọng hơn ở cộng hòa Dominica. Tại Haiti, hậu quả nghiêm trọng nhất trong số những hậu quả vừa đề cập là vấn đề thiếu gỗ để sản xuất than củi, nhiên liệu chính để đun nấu của người Haiti.
Sự chênh lệch giữa diện tích rừng của hai nước song song với sự chênh lệch trong nền kinh tế của họ. Cả Haiti và Dominica đều là những nước nghèo, với những bất lợi như hầu hết các nước nhiệt đới khác trên thế giới từng là thuộc địa của châu Âu như: một chính phủ yếu kém hoặc tham nhũng, những vấn đề nghiêm trọng về y tế công cộng và sản lượng nông nghiệp thấp hơn do nằm trong vùng ôn đới. Nhưng bao giờ những khó khăn của Haiti cũng trầm trọng hơn Dominica. Haiti là nước nghèo nhất Tân Thế giới, đồng thời là một trong những nước ngoài châu Phi nghèo nhất Thế giới. Chính quyền tham nhũng kéo dài chỉ cung cấp những dịch vụ công tối thiểu; rất nhiều hoặc phần lớn dân cư phải sống trong tình trạng thi thoảng hoặc thường xuyên lâm vào cảnh thiếu điện, nước, vệ sinh, y tế và giáo dục. Haiti nằm trong số những nước đông dân nhất Tân Thế giới, đông hơn nhiều so với Dominica, mặc dù chỉ chiếm 1/3 diện tích đảo Hispaniola, nhưng chiếm tới 2/3 dân số toàn đảo (khoảng 10 triệu người), với mật độ dân số trung bình khoảng 1.000 người trên mỗi dặm vuông. Phần lớn cư dân sinh sống bằng nghề nông. Kinh tế thị trường rất nhỏ bé, chủ yếu là xuất khẩu sản phẩm cà phê và đường, với khoảng 20.000 người được tuyển dụng với mức lương rẻ mạt làm việc trong các khu tự do thương mại, may mặc và sản xuất một số mặt hàng xuất khẩu khác. Vài khu nhà nghỉ trên bờ biển nơi du khách nước ngoài có thể tách mình ra khỏi những vấn đề của Haiti, và tình trạng buôn bán ma túy diễn ra tràn lan tới mức Haiti bị coi như một điểm trung chuyển ma túy từ Colombia sang Mỹ. (Đó là lý do vì sao đôi khi Haiti còn có biệt danh là “quốc gia ma túy”). Xã hội Haiti có sự phân hóa sâu sắc giữa đám đông những người nghèo khổ sống ở các vùng nông thôn hay trong các khu nhà ổ chuột ở thủ đô Port-au-Prince, và một số nhỏ lớp người giàu có sống ở những vùng ngoại ô miền núi mát mẻ ở Pétionville, cách trung tâm Port-au-Prince khoảng nửa giờ lái xe, thưởng thức rượu vang và những món ăn hảo hạng trong những tiệm ăn của Pháp. Tỷ lệ tăng trưởng dân số của Haiti cùng với tỷ lệ người mắc bệnh AIDS, bệnh lao và sốt rét cũng thuộc hàng cao nhất Tân Thế giới. Tất cả những du khách tới Haiti đều tự hỏi mình liệu còn chút hy vọng nào cho đất nước này không, và câu trả lời thường là “không”.
Cộng hòa Dominica cũng là nước đang phát triển có chung những vấn đề như của Haiti, nhưng đây là nước phát triển hơn và những vấn đề cũng ít nghiêm trọng hơn, với thu nhập đầu người cao gấp năm lần, số dân và tỷ lệ tăng trưởng dân số cũng thấp hơn. Trong 38 năm qua, cộng hòa Dominica, ít nhất là trên danh nghĩa, là nước dân chủ không diễn ra bất kỳ một cuộc đảo chính quân sự nào, và từ năm 1978 tới nay một số tổng thống đã được bầu cử một cách dân chủ sau khi đánh bại được vị tổng thống độc tài đầu tiên cùng với chính phủ được dựng lên bằng những hành vi gian dối và hăm dọa cử tri. Trong nền kinh tế đang bùng nổ, những ngành công nghiệp mang ngoại tệ về cho đất nước là một mỏ sắt và nickel, gần đây thêm một mỏ vàng, và trước đây có một mỏ bauxit; các khu tự do thương mại và công nghiệp tuyển dụng 200.000 công nhân và chuyên sản xuất hàng xuất khẩu; nông sản xuất khẩu bao gồm cà phê, cacao, thuốc lá, xì gà, hoa tươi và lê tàu (cộng hòa Dominica là nhà xuất khẩu lê tàu lớn thứ ba thế giới); viễn thông và một ngành du lịch phát triển hơn Haiti. Dominica còn có vài chục chiếc đập thủy điện. Chắc hẳn những người Mỹ hâm mộ thể thao đều biết, Dominica là nơi sản sinh và “xuất khẩu” nhiều cầu thủ bóng chày vĩ đại. (Tôi viết bản thảo đầu tiên của chương này trong trạng thái bàng hoàng bởi tôi vừa xem ngôi sao ném bóng người Dominica là Pedro Martínez chơi cho đội bóng Boston Red Sox mà tôi yêu thích đã bị bại trong hiệp phụ dưới tay của đối thủ New York Yankees trong trận cuối cùng của Giải Vô địch Liên đoàn Bóng chày Mỹ năm 2003). Ngoài ra còn có danh sách dài những cầu thủ bóng chày Dominica thành danh tại Mỹ, như anh em nhà Alou, Joan quín Andujar, Goerge Bell, Adrian Beltre, Rico Carty, Mariano Duncan, Tony Fernández, Pedro Guerrero, Juan Marichal, José Offerman, Tony Pena, Alex Rodríguez, Juan Samuel, Ozzie Virgil, và tất nhiên cả “vua jonrón” Sammy Sosa. Khi lái xe dọc theo những con đường của Dominica, hầu như lúc nào tôi cũng thấy có một biển chỉ đường tới sân vận động để chơi béisbol, theo cách gọi môn bóng chày của người bản xứ.
Sự tương phản giữa hai nước còn được phản ánh rõ ràng trong các hệ thống công viên quốc gia của họ. Hệ thống công viên quốc gia của Haiti nhỏ, chỉ bao gồm bốn công viên đang có nguy cơ bị nông dân xâm phạm chặt cây để làm than củi. Ngược lại, hệ thống bảo tồn thiên nhiên của Dominica tương đối hoàn thiện và lớn nhất châu Mỹ, với 74 công viên và khu bảo tồn chiếm 32% tổng diện tích đất của cả nước, và bao gồm mọi loại hình môi trường sống chủ yếu. Tất nhiên, hệ thống này cũng gặp phải vô số vấn đề và thiếu kinh phí hoạt động, nhưng dù sao cũng rất ấn tượng với một nước nghèo còn nhiều vấn đề và những ưu tiên cần thiết khác. Đằng sau hệ thống bảo tồn là một phong trào bảo tồn thiên nhiên trong nước diễn ra mạnh mẽ với sự tham gia của nhiều tổ chức phi chính phủ của chính người Dominica, chứ không để đất nước phụ thuộc vào các nhà tư vấn nước ngoài.
Giữa hai nước có những khác biệt lớn về diện tích rừng, nền kinh tế và hệ thống bảo tồn thiên nhiên mặc dù có một thực tế rằng cả hai đều sinh sống trên cùng một hòn đảo. Hai nước cũng có những điểm chung về mặt lịch sử như đều từng là thuộc địa của châu Âu và từng nằm dưới sự chiếm đóng của người Mỹ, đạo Thiên Chúa nổi bật cùng tồn tại với tà thuật tôn thờ các thần thánh (nổi bật hơn ở Haiti), và tổ tiên của hai dân tộc đều có sự pha trộn giữa người châu Phi và người châu Âu (tỷ lệ tổ tiên là người Phi ở Haiti cao hơn). Trong ba thời kỳ lịch sử của mình, hai nước từng được sáp nhập thành một thuộc địa hoặc một đất nước thống nhất.
Những khác biệt này vẫn tồn tại mặc dù những nét tương đồng trở nên nổi bật hơn khi chúng cho thấy Haiti từng là nước giàu mạnh hơn nhiều so với nước láng giềng. Trong thế kỷ XIX, đã vài lần Haiti phát động những cuộc xâm lược lớn nhằm vào Dominica và đã từng chiếm đóng nước này trong thời gian 22 năm. Vậy tại sao số phận của hai nước lại khác nhau tới vậy, và tại sao Haiti chứ không phải Dominica lại bị suy thoái nghiêm trọng? Giữa hai nửa của hòn đảo có tồn tại một số khác biệt về mặt môi trường và ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế-xã hội của mỗi nước, nhưng đó chỉ là một nguyên nhân nhỏ. Đa phần những giải thích đều liên quan tới sự khác biệt giữa hai dân tộc về mặt lịch sử, quan điểm, sự tự nhận thức bản thân và các thể chế cũng như sự khác biệt giữa những người đứng đầu hai nước trong thời gian gần đây. Với bất cứ ai có ý thiên về lịch sử môi trường như “thuyết môi trường là yếu tố quyết định”, thì những tương phản trong lịch sử Dominica và Haiti quả là một liều thuốc giải hiệu nghiệm. Vâng, các vấn đề môi trường quả thật gây cản trở tới sự phát triển của xã hội loài người, nhưng giải pháp của xã hội trước các vấn đề này cũng tạo ra sự khác biệt. Cũng bởi vậy, việc những người đứng đầu đất nước hành động hay không hành động của cũng gây ra những kết quả nhất định, dù tốt hay xấu cho đất nước đó.
Chương này sẽ bắt đầu bằng việc lần theo những bước phát triển khác nhau của lịch sử kinh tế và chính trị của cộng hòa Dominica và Haiti từ những khác biệt hiện tại của họ và những lý do đằng sau những bước phát triển đó. Sau đó tôi sẽ thảo luận về sự phát triển các chính sách môi trường của Dominica, và đó là sự kết hợp hiệu quả các biện pháp quản lý từ dưới lên trên và từ trên xuống dưới. Chương này sẽ kết thúc bằng việc xem xét hiện trạng của các vấn đề môi trường, tương lai cùng hy vọng của mỗi phần đảo và ảnh hưởng của nó với nước kia và với thế giới.
Khi Christopher Columbus đặt chân lên đảo Hispaniola trong chuyến đi biển đầu tiên xuyên Đại Tây Dương của ông vào năm 1492, thì các thổ dân Mỹ đã cư trú trên hòn đảo này được khoảng 5.000 năm. Tại thời điểm Columbus tới đây thì cư dân trên đảo là một nhóm người Da đỏ Arawak được gọi là Tainos, sinh sống bằng trồng trọt, được tổ chức thành năm vương quốc và có dân số chừng nửa triệu người (dao động từ 100.000 cho đến 2.000.000 người). Ban đầu thổ dân trên đảo quan hệ rất thân thiện và hữu nghị với Columbus cho tới khi ông ta và những người Tây Ban Nha của mình bắt đầu ngược đãi họ.
Bất hạnh cho những người Tainos là vùng đất của họ có tài nguyên vàng, người Tây Ban Nha thèm khát vàng nhưng lại không muốn tự mình khai thác. Bởi vậy, những kẻ xâm lược liền chia nhỏ hòn đảo và những người dân Da đỏ cho từng người Tây Ban Nha, để bắt người Da đỏ làm nô lệ, vô tình truyền những căn bệnh Âu-Á sang họ và tàn sát họ. Năm 1519, 27 năm sau khi Columbus đặt chân tới đây, dân số thổ dân từ nửa triệu người giảm xuống chỉ còn khoảng 11.000 người, trong năm đó lại xảy ra dịch bệnh đậu mùa tiếp tục giết chết phần lớn số dân còn lại, khiến người Da đỏ chỉ còn 3.000 người, và chỉ trong vài thập kỷ sau, những người sống sót cũng chết dần hay bị đồng hóa. Không còn người lao động buộc người Tây Ban Nha phải đi tìm nguồn nô lệ bổ sung ở nơi khác.
Khoảng năm 1520, người Tây Ban Nha phát hiện Hispaniola thích hợp với việc trồng mía, bởi vậy họ bắt đầu nhập khẩu nô lệ từ châu Phi. Trong phần lớn thế kỷ XVI, những đồn điền trồng mía đã biến hòn đảo trở thành một thuộc địa giàu có. Tuy nhiên, người Tây Ban Nha bắt đầu không còn quan tâm tới Hispaniola vì nhiều lý do, trong đó có việc họ phát hiện ra những xã hội thổ dân Da đỏ khác giàu có hơn và đông dân hơn nhiều trên lục địa châu Mỹ, nhất là Mexico, Peru và Bolivia, với số dân Da đỏ đông hơn để bóc lột, thể chế chính trị tiên tiến hơn để tiếp quản và những mỏ đồng trữ lượng cao ở Bolivia. Bởi vậy, người Tây Ban Nha hướng sự chú ý sang những vùng đất mới và dành ít nguồn lực cho đảo Hispaniola, nhất là việc mua bán và vận chuyển nô lệ từ châu Phi sang rất tốn kém, trong khi có thể sử dụng ngay thổ dân châu Mỹ mà chỉ mất chi phí chế ngự họ. Hơn nữa, cướp biển của Pháp, Anh và Hà Lan cũng hoành hành trên vùng biển Caribe và tấn công các khu định cư của người Tây Ban Nha trên đảo Hispaniola và những nơi khác. Bản thân Tây Ban Nha cũng đang dần lâm vào tình trạng suy thoái kinh tế và chính trị, để các lợi ích kinh tế rơi vào tay người Anh, Pháp và Hà Lan.
Cùng với cướp biển người Pháp, các thương gia và các nhà thám hiểm của Pháp cũng xây dựng một khu định cư tại cực tây của Hispaniola, xa khu vực phía đông nơi tập trung người Tây Ban Nha. Nước Pháp, khi đó mạnh hơn Tây Ban Nha cả về chính trị và kinh tế, đã chú trọng đầu tư nhập khẩu nô lệ và phát triển các đồn điền ở vùng đất phía tây của hòn đảo tới mức người Tây Ban Nha không thể theo kịp, và lịch sử của hai vùng đất trên đảo bắt đầu có sự khác biệt. Trong những năm 1700, vùng thuộc địa của Tây Ban Nha có dân số thấp, ít nô lệ và một nền kinh tế nhỏ chủ yếu dựa trên chăn nuôi gia súc để lấy da, trong khi vùng thuộc địa của Pháp có dân số lớn hơn nhiều, nô lệ đông hơn (700.000 nô lệ vào năm 1785 so với chỉ 30.000 nô lệ trên vùng thuộc địa của Tây Ban Nha), tỷ lệ dân tự do thấp hơn nhiều (chỉ 10% so với 85%), và một nền kinh tế với những đồn điền trồng mía làm chủ đạo. Vùng thuộc địa của Pháp với cái tên France Saint-Domingue trở thành thuộc địa châu Âu giàu nhất Tân Thế giới và đóng góp tới 1/4 thu nhập của toàn nước Pháp.
Cuối cùng năm 1795, Tây Ban Nha nhượng lại phần đảo phía đông không còn giá trị cho Pháp, bởi vậy Hispaniola được thống nhất trong một thời gian ngắn dưới sự cai trị của Pháp. Sau cuộc nổi loạn của nô lệ tại France Saint-Domingue vào năm 1791 và năm 1801, Pháp đưa quân đội đến đây nhưng bị đội quân nô lệ đánh bại, đồng thời bị thiệt hại nặng nề do dịch bệnh. Năm 1804, sau khi bán đất đai ở vùng Bắc Mỹ cho nước Mỹ lập thành bang Lousiana, Pháp từ bỏ và để mặc Hispaniola. Không hề ngạc nhiên, các cựu nô lệ của Pháp tại Hispaniola tiếp quản và đổi tên đất nước thành Haiti (cái tên đầu tiên của đảo do thổ dân Da đỏ Tainos đặt), tàn sát nhiều người da trắng của Haiti, phá hủy các đồn điền và cơ sở hạ tầng của người da trắng để khiến hệ thống nô lệ đồn điền không thể khôi phục được, và chia các đồn điền thành những mảnh đất canh tác nhỏ cho các gia đình. Những hành động trên của các cựu nô lệ chỉ để nhằm chứng tỏ họ là những người tự do, nhưng nó lại gây ra thảm họa lâu dài ảnh hưởng đến sản lượng nông nghiệp, xuất khẩu và kinh tế của Haiti bởi nông dân nhận được rất ít sự giúp đỡ của các chính phủ sau này để phát triển các loại hoa màu. Haiti cũng mất các nguồn nhân lực do giết phần lớn cư dân người da trắng bị giết, còn những người sống sót thì di cư sang các nước khác.
Tuy nhiên, tại thời điểm Haiti giành được độc lập năm 1804, đây vẫn là phần đảo giàu mạnh và đông dân hơn phần kia. Năm 1805, người Haiti đã hai lần xâm lược phía đông hòn đảo (trước kia là thuộc địa của người Tây Ban Nha), khi đó mang tên là Santo Domingo. Bốn năm sau, theo trưng cầu dân ý, những cư dân người Tây Ban Nha tại Santo Domingo tự khôi phục địa vị vùng đất của mình thành thuộc địa của Tây Ban Nha, tuy nhiên vẫn phải tự mình quản lý đất nước một cách yếu kém, mà Tây Ban Nha cũng chẳng mấy quan tâm tới việc đám cư dân này tuyên bố độc lập vào năm 1821. Ngay sau đó họ bị người Haiti chiếm đóng, cho tới khi giành lại độc lập vào năm 1844, sau này người Haiti vẫn tiếp tục phát động những cuộc xâm lược nhằm chinh phục phía đông trong những năm 1850.
Bởi vậy, năm 1850, Haiti ở phía tây kiểm soát diện tích đất ít hơn người láng giềng nhưng dân số đông hơn cùng với một nền nông nghiệp tự cung tự cấp, sản lượng xuất khẩu rất thấp, và thành phần dân số chủ yếu là người da đen, hậu duệ của người châu Phi và một phần nhỏ người da trắng lai đen (những người có tổ tiên là người da trắng và da đen). Mặc dù những người lai nói tiếng Pháp và tự nhận mình có nguồn gốc từ người Pháp, nhưng do Haiti đã từng trải qua và sợ hãi bóng ma của chế độ nô lệ nên họ đã ban hành hiến pháp cấm người nước ngoài sở hữu đất đai hay kiểm soát các phương tiện sản xuất thông qua các hoạt động đầu tư. Đa phần người Haiti sử dụng thổ ngữ được phát triển từ tiếng Pháp là tiếng Creole. Người Dominica ở phía đông có diện tích đất rộng hơn nhưng dân số nhỏ hơn, nền kinh tế vẫn chủ yếu dựa vào chăn nuôi gia súc nhưng họ sẵn sàng tiếp nhận và trao quyền công dân cho người nước ngoài nhập cư, và người Dominica nói tiếng Tây Ban Nha. Trong suốt thế kỷ XIX, cộng hòa Dominica tiếp nhận những nhóm nhỏ người nhập cư nhưng có những đóng góp kinh tế quan trọng cho đất nước như những nhóm người Do thái Curacao, người đảo Canary, người Li Băng, người Palestine, người Cuba, người Puerto Rico, người Đức và người Italia, ngoài ra còn có thêm người Do Thái Australia, người Nhật và sau năm 1930 có thêm người Tây Ban Nha. Yếu tố chính trị chung của cả Haiti và Dominica chính là sự bất ổn chính trị, với những vụ đảo chính liên tiếp xảy ra, và quyền kiểm soát đất nước bị rơi hết từ tay phe này tới tay phe khác. Trong số 22 tổng thống của Haiti giai đoạn từ 1843 - 1915 thì 21 người bị ám sát hay bị lật đổ, trong khi ở Dominica giai đoạn từ 1844 - 1930 có tới 50 đời tổng thống, trong đó có 30 cuộc cách mạng. Trên cả hai phần đảo, mục đích cai trị đất nước của tổng thống chỉ là làm giàu cho bản thân và tay chân.
Các quốc gia bên ngoài cũng có sự nhìn nhận và đối xử với Haiti và Dominica khác nhau. Trong mắt người châu Âu, hình ảnh đơn giản nhất là Dominica là nước nói tiếng Tây Ban Nha, mang dáng dấp xã hội châu Âu và sẵn sàng tiếp nhận người di cư và hàng hóa từ châu Âu, trong khi Haiti bị coi là một xã hội châu Phi nói tiếng Creoleo, cư dân gồm toàn những cựu nô lệ và có tư tưởng thù địch với người nước ngoài. Với sự giúp đỡ đầu tư vốn của châu Âu, và từ Mỹ sau này, cộng hòa Dominica bắt đầu phát triển nền kinh tế thị trường hướng tới xuất khẩu, trong khi đó nền kinh tế Haiti vẫn còn kém xa. Kinh tế thị trường của Dominica dựa vào các đồn điền trồng cacao, thuốc lá, cà phê và (bắt đầu từ những năm 1870) là mía, (có một nghịch lý là) trước kia mía từng được trồng ở Haiti chứ không phải ở Dominica. Cả hai phần đảo tiếp tục rơi vào tình trạng bất ổn chính trị. Cuối thế kỷ XIX, một tổng thống Dominica vay tiền từ các chủ nợ châu Âu nhiều tới mức khi không còn khả năng thanh toán, tất cả các nước chủ nợ là Pháp, Italia, Bỉ và Đức đồng loạt phái tàu chiến sang đe dọa tấn công nước này nếu không trả nợ. Lường trước nguy cơ chiếm đóng của châu Âu, Mỹ nhanh chân tiếp quản dịch vụ hải quan của Dominica, nguồn thu duy nhất của chính quyền nước này, và dùng một nửa số tiền thu được để trả các khoản nợ nước ngoài đó. Trong Thế chiến Thứ nhất, lo lắng trước nguy cơ kênh đào Panama bị ảnh hưởng bởi tình trạng bất ổn chính trị trong khu vực Caribe, Mỹ đã áp đặt chiếm đóng quân sự lên cả hai phần đảo, kéo dài từ 1915 - 1934 ở Haiti và từ 1916 - 1924 ở Dominica. Sau đó, cả hai nước này lại nhanh chóng quay trở lại tình trạng rối loạn và xung đột chính trị như trước kia giữa những người muốn tranh giành chiếc ghế tổng thống.
Bất ổn ở cả hai vùng đất trên đảo chấm dứt dưới tay hai nhà độc tài độc đoán nhất lịch sử châu Mỹ Latinh, Dominica ổn định trước Haiti rất lâu. Tại Dominica, Rafael Trujillo là Giám đốc Cảnh sát quốc gia và sau đó trở thành chỉ huy lực lượng quân sự do Mỹ thiết lập và huấn luyện. Sau khi lợi dụng vị trí đó để đưa mình trở thành tổng thống dân cử vào năm 1930 và trở thành nhà độc tài, để củng cố quyền lực, ông ta đã làm việc hết sức chăm chỉ và trở thành một nhà quản lý lỗi lạc, một quan tòa sáng suốt của dân, một chính trị gia thông minh, cực kỳ tàn nhẫn - và hành động vì lợi ích của xã hội Dominica. Ông ta tra tấn hoặc hành hình những phần tử đối lập và thiết lập một nhà nước cảnh sát.
Trong nỗ lực nhằm hiện đại hóa Dominica, Trujillo đã chú trọng phát triển kinh tế, cơ sở hạ tầng và các ngành công nghiệp, ông điều hành đất nước như doanh nghiệp riêng của mình. Ông ta và gia đình sở hữu hoặc kiểm soát phần lớn nền kinh tế đất nước. Hoặc trực tiếp hoặc thông qua họ hàng hay những người thân tín làm bình phong, Trujillo giữ độc quyền kinh doanh các mặt hàng xuất khẩu là thịt bò, xi măng, sô cô la, thuốc lá, cà phê, bảo hiểm, sữa, gạo, muối, các cơ sở giết mổ gia súc, các đồn điền trồng cây thuốc lá và gỗ. Ông sở hữu hay kiểm soát phần lớn các hoạt động lâm nghiệp và sản xuất đường, và là chủ của các hãng hàng không, ngân hàng, khách sạn, phần lớn đất đai và vận tải đường biển. Ông nắm giữ một phần lợi nhuận từ hoạt động mại dâm và bắt tất cả các nhân viên nhà nước phải trích lại 10% lương. Ông quảng bá tên tuổi mình ở khắp nơi, thủ đô được đổi tên từ Santo Domingo thành Cuidad Trujillo (thành phố Trujillo), ngọn núi cao nhất nước được đổi tên từ Pico Duarte thành Pico Trujillo, hệ thống giáo dục dạy dỗ học sinh khắc sâu công ơn của Trujillo, và dấu hiệu tỏ lòng biết ơn thậm chí còn được gắn cả lên các vòi nước công cộng với tuyên bố: “Trujillo cho dân nước uống”. Để ngăn chặn nguy cơ nổi loạn hay bị xâm lược, chính quyền của Trujillo đã tiêu tới một nửa ngân sách nhà nước cho quân đội, hải quân và không quân, xây dựng nên lực lượng quân sự lớn nhất khu vực Caribe, thậm chí còn lớn hơn cả Mexico.
Tuy nhiên, trong những năm 1950, ảnh hưởng của một loạt diễn biến khiến Trujillo bắt đầu mất đi sự ủng hộ trước kia mà ông đã duy trì bằng các biện pháp khủng bố, tăng trưởng kinh tế và phân phối đất đai cho nông dân. Kinh tế suy thoái do ảnh hưởng từ một loạt vấn đề như việc chính phủ bội chi cho lễ hội kỷ niệm lần thứ 25 năm Trujillo lên cầm quyền, bội chi để thu mua toàn bộ các nhà máy đường và các nhà máy điện của tư nhân, giá cà phê và một số mặt hàng xuất khẩu của Dominica trên thị trường thế giới hạ và chủ trương đầu tư lớn để phát triển ngành công nghiệp mía đường quốc gia bị thất bại. Chính phủ phản ứng tiêu cực trước cuộc xâm lược bất thành của những người Dominica lưu vong được Cuba hậu thuẫn năm 1959 và trước làn sóng phát thanh của Cuba kích động người dân nổi dậy, bằng cách tăng cường bắt bớ, ám sát và tra tấn. Đêm 30/5/1961, khi từ nhà người tình trở về trên chiếc xe chỉ có lái xe mà không có cận vệ, Trujillo đã bị phục kích và ám sát trong một cuộc truy đuổi và đấu súng đầy kịch tính do các phần tử Dominica đối lập thực hiện, rõ ràng có sự hậu thuẫn của CIA.
Trong suốt phần lớn thời gian Trujillo cầm quyền ở cộng hòa Dominica, Haiti vẫn không thể tìm kiếm được một vị tổng thống ổn định, mãi cho tới năm 1957 nhà độc tài François “Papa Doc” Duvalier mới lên cầm quyền. Mặc dù là một nhà vật lý và có trình độ văn hóa cao hơn Trujillo, nhưng mức độ thông minh và tàn bạo của ông ta cũng chỉ bằng người đồng sự ở Dominica. Ông ta cũng thành công trong việc sử dụng cảnh sát mật tiến hành khủng bố trên khắp đất nước, tổ chức những cuộc tàn sát đồng bào còn tàn bạo hơn cả Trujillo. Papa Doc Duvalier khác Trujillo ở chỗ ông ta không quan tâm tới việc hiện đại hóa đất nước hay phát triển nền kinh tế công nghiệp cho đất nước và cho bản thân ông ta. Năm 1971, “Papa Doc” Duvalier chết vì bệnh và con trai ông ta là Jean-Claude “Baby Doc” Duvalier kế nhiệm và nắm quyền cho tới khi bị buộc phải đi lưu vong vào năm 1986.
Kể từ khi chấm dứt chế độ độc tài của nhà Duvalier, Haiti lại rơi vào tình trạng bất ổn chính trị, và nền kinh tế của nó vốn đã yếu kém lại càng suy thoái nghiêm trọng. Haiti vẫn xuất khẩu cà phê, nhưng sản lượng xuất khẩu vẫn giữ nguyên trong khi dân số không ngừng phát triển. Chỉ số phát triển con người và chỉ số tổng hợp của tuổi thọ với giáo dục và tiêu chuẩn sống của Haiti thuộc hạng thấp nhất thế giới, không kể châu Phi. Sau khi Trujillo bị ám sát, tình trạng bất ổn chính trị cũng tái diễn ở Dominica cho tới tận năm 1966, trong đó có cuộc nội chiến năm 1965 khiến lực lượng thủy quân Mỹ quay trở lại đây và bắt đầu làn sóng người Dominica di cư qua Mỹ trên quy mô lớn. Giai đoạn bất ổn đó chấm dứt khi Joaquín Balaguer, một cựu thống đốc dưới thời Trujillo, được bầu làm tổng thống vào năm 1966 nhờ các sĩ quan quân đội từ thời Trujillo tiến hành một chiến dịch khủng bố nhằm vào đảng đối lập. Balaguer, một con người đặc biệt mà chúng ta sẽ đề cập chi tiết hơn ở phần sau, tiếp tục lãnh đạo nền chính trị của người Dominica trong thời gian suốt 34 năm, giữ cương vị tổng thống từ 1966 - 1978 và tái cử từ 1986 - 1996, và vẫn có nhiều ảnh hưởng thậm chí cả khi tạm rời chức vụ tổng thống giai đoạn từ 1978 - 1986. Can thiệp kiên quyết cuối cùng của ông vào nền chính trị Dominica đã cứu được hệ thống bảo tồn thiên nhiên của đất nước được đưa ra vào năm 2000, khi ông đã 94 tuổi, sức khỏe suy yếu, mắt mù và chỉ sau đó hai năm thì ông chết.
Trong những năm hậu Trujillo từ 1961 tới nay, cộng hòa Dominica tiếp tục sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Một thời gian, hoạt động xuất khẩu của nước này chủ yếu dựa vào đường, sau đó bị lép vế trước ngành công nghiệp khai mỏ, các khu tự do thương mại sản xuất hàng xuất khẩu và chú trọng xuất khẩu các loại nông sản, như đã đề cập ở phần đầu của chương này. Một yếu tố cũng rất quan trọng với nền kinh tế của cả Dominica và Haiti là xuất khẩu lao động. Hơn một triệu người Haiti và chừng một triệu người Dominica hiện đang sinh sống ở nước ngoài, nhất là Mỹ, số kiều hối mà họ chuyển về nước đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của cả hai nước. Cộng hòa Dominica vẫn bị xếp hạng là nước nghèo (thu nhập đầu người chỉ 2.200 đô-la/năm), nhưng có nhiều dấu hiệu rõ ràng của một nền kinh tế đang phát triển tại thời điểm tôi đến đây, kể cả hiện tượng bùng nổ xây dựng và tắc đường ở đô thị.
Với nền tảng lịch sử như vậy, giờ chúng ta hãy trở lại với một trong những khác biệt đáng kinh ngạc mở đầu cho chương này: Tại sao lịch sử sinh thái, kinh tế và chính trị của hai nước cùng chung sống trên một hòn đảo lại khác nhau tới vậy?
Một phần câu trả lời liên quan tới những khác biệt môi trường. Lượng mưa của Hispaniola chủ yếu từ phía đông. Bởi vậy phần phía đông của hòn đảo (thuộc cộng hòa Dominica) có lượng mưa cao hơn nên tốc độ tăng trưởng của thực vật cũng cao hơn. Những ngọn núi cao nhất của Hispaniola (cao hơn 3.048 mét) đều nằm trên lãnh thổ Dominica, và những dòng sông bắt nguồn từ những ngọn núi cao này chủ yếu đổ về phía đông, vào vùng đất của Dominica. Phía Dominica có những thung lũng, đồng bằng và cao nguyên rộng, với lớp đất mặt dày hơn; đặc biệt, thung lũng Cibao ở phía bắc là một trong những khu vực nông nghiệp phát triển nhất thế giới. Ngược lại, khí hậu phía Haiti khô hơn bởi những dãy núi cao đã giữ lượng mưa ở phía đông. So với cộng hòa Dominica, Haiti có tỷ lệ diện tích núi lớn hơn, diện tích đất bằng phẳng thuận lợi cho chuyên canh nông nghiệp nhỏ hơn nhiều, với địa hình đá vôi lớn hơn, đất mặt mỏng hơn, ít màu mỡ hơn và khả năng phục hồi cũng thấp hơn. Lưu ý một nghịch lý là: Phía đảo Haiti ít thuận lợi về mặt môi trường nhưng lại phát triển một nền kinh tế nông nghiệp phong phú trước Dominica. Lý do của nghịch lý này đó là nền kinh tế nông nghiệp của Haiti bùng nổ là do khai thác quá mức nguồn vốn môi trường là rừng và đất đai. Bài học này, tương tự như một tài khoản hào nhoáng có thể che đậy một dòng tiền mặt tiêu cực, là một chủ đề mà chúng ta sẽ trở lại ở chương cuối cùng.
Mặc dù những khác biệt môi trường này khiến nền kinh tế hai nước phát triển khác nhau, nhưng phần lớn nguyên nhân lại liên quan tới những khác biệt về mặt chính trị và xã hội, trong đó có nhiều yếu tố rõ ràng cản trở nền kinh tế Haiti phát triển so với nền kinh tế Dominica. Về mặt này, những phát triển khác nhau của hai nước đã bị đánh giá quá mức: hàng loạt yếu tố riêng lẻ xảy ra cùng một lúc đã tạo nên những kết quả như nhau.
Một trong những khác biệt chính trị và xã hội đó liên quan tới sự kiện Haiti từng là thuộc địa của nước Pháp giàu có và là thuộc địa giá trị nhất của Pháp ở hải ngoại, trong khi cộng hòa Dominica là thuộc địa của Tây Ban Nha và cuối những năm 1500 Tây Ban Nha không còn mấy quan tâm tới đảo Hispaniola, bởi chính họ khi đó cũng đang bị suy thoái về kinh tế và chính trị. Bởi vậy, Pháp có khả năng và đã chọn cách đầu tư phát triển nền nông nghiệp đồn điền dựa trên sức lao động của nô lệ ở Haiti, trong khi đó người Tây Ban Nha không có khả năng nên đã bỏ mặc phía đảo mà họ cai trị. Pháp nhập khẩu nô lệ vào thuộc địa của mình nhiều hơn Tây Ban Nha. Kết quả là Haiti có dân số cao gấp bảy lần dân số nước láng giềng trong thời kỳ thuộc địa, và dân số ngày nay vẫn có phần nhỉnh hơn, khoảng 10.000.000 người so với 8.800.000 người. Nhưng phần đất của Haiti chỉ bằng hơn một nửa của cộng hòa Dominica, bởi vậy Haiti với một số dân lớn hơn và diện tích đất nhỏ hơn nên mật độ dân số cao gấp đôi Dominica. Sự cộng hưởng của mật độ dân số cao và lượng mưa thấp là yếu tố chính khiến tình trạng phá rừng và đất bạc màu ở phía Haiti diễn ra nhanh hơn. Ngoài ra, tất cả những con thuyền của Pháp chở nô lệ tới Haiti, khi chở về châu Âu đều mang theo gỗ của người Haiti, bởi vậy tới giữa thế kỷ XIX, rừng ở những vùng đất thấp và những sườn núi đã bị chặt phá rất nhiều.
Yếu tố chính trị và xã hội thứ hai là cộng hòa Dominica, với cư dân nói tiếng Tây Ban Nha và tổ tiên đa phần là người châu Âu, có tư tưởng cởi mở hơn và thu hút được nhiều người di cư và nhà đầu tư châu Âu hơn Haiti với dân cư nói thổ ngữ Creole và xuất thân chủ yếu từ những nô lệ da đen. Bởi vậy nhập cư và đầu tư của châu Âu vào Haiti không đáng kể và bị hạn chế bởi những quy định trong hiến pháp ban hành năm 1804, nhưng đây lại là hai yếu tố quan trọng với chính trị và xã hội Dominica. Người nhập cư Dominica có nhiều người là doanh nhân thuộc tầng lớp trung lưu và những chuyên gia lành nghề góp phần to lớn vào sự phát triển đất nước. Người Dominica thậm chí còn tự nguyện quay trở lại chế độ thuộc địa của Tây Ban Nha trong giai đoạn từ 1812 - 1821, và tổng thống của nước này cũng chọn đặt đất nước mình dưới sự bảo hộ của Tây Ban Nha từ 1861 - 1865.
Vẫn còn một khác biệt xã hội khác tạo nên sự khác biệt giữa hai nền kinh tế này là, do hai nước đều có di sản là lịch sử nô lệ cùng với những cuộc cách mạng nô lệ, nên hầu hết những người Haiti đều được chia đất riêng để nuôi sống bản thân và hoàn toàn không được chính phủ hỗ trợ để phát triển các loại hoa màu xuất khẩu sang châu Âu, trong khi Dominica đã phát triển được một nền kinh tế chú trọng xuất khẩu và ngoại thương. Giới cầm quyền ở Haiti gắn bó với nước Pháp chặt chẽ hơn là với đất nước mình, bởi vậy họ không mua đất hay phát triển nền nông nghiệp thương mại, mà chủ yếu là bòn rút của cải từ nông dân.
Một nguyên nhân gần đây tạo ra sự khác biệt chính là lý tưởng khác nhau của hai nhà độc tài: Trujillo của Dominica chủ trương phát triển nhà nước dựa trên nền kinh tế công nghiệp và hiện đại (vì lợi ích của bản thân ông ta), nhưng Duvalier của Haiti thì không. Điều này có thể được coi như một sự khác biệt giữa cá tính của hai nhà độc tài, nhưng nó cũng phản chiếu những xã hội khác biệt của họ.
Cuối cùng, trong khi Haiti vẫn đang phải đối mặt với các vấn đề như phá rừng và đói nghèo, thì Dominica đã giải quyết xong những vấn đề này từ hơn 40 năm qua. Bởi cộng hòa Dominica vẫn duy trì được diện tích rừng che phủ lớn và bắt đầu tiến hành công nghiệp hóa, chính quyền của Trujillo lập ra kế hoạch để chính quyền của Balaguer và những tổng thống sau này thực hiện xây dựng, đắp đập để phát triển thủy điện. Balaguer đã phát động một chiến dịch lớn nhằm hạn chế khai thác rừng làm nhiên liệu đốt bằng cách tăng cường nhập khẩu khí prôban và khí tự nhiên hóa lỏng. Nhưng tình trạng đói nghèo của Haiti đã buộc người dân tiếp tục phụ thuộc vào loại nhiên liệu than củi khai thác từ rừng, khiến những mảnh rừng cuối cùng của nước này vẫn tiếp tục bị tàn phá.
Bởi vậy có rất nhiều lý do giải thích vì sao phá rừng và các vấn đề môi trường khác của Haiti lại diễn ra sớm hơn, phát triển trong một thời gian dài hơn so với cộng hòa Dominica. Những lý do đó liên quan tới bốn yếu tố trong khung năm yếu tố của cuốn sách này, đó là: khác biệt trong hình thức tác động của con người tới môi trường, trong những chính sách thân thiện hay không thân thiện với môi trường của mỗi nước, và trong cách đối phó của mỗi xã hội và nhà lãnh đạo đối với các vấn đề môi trường. Trong các trường hợp nghiên cứu cụ thể được mô tả trong cuốn sách này, sự tương phản giữa Haiti và cộng hòa Dominica được thảo luận trong chương này, và sự tương phản giữa số phận của người Norse và người Inuit ở Greenland đã thảo luận trong Chương 8, là những minh chứng rõ ràng nhất rằng số phận của một xã hội nằm trong tay những cư dân của nó và cơ bản phụ thuộc vào những lựa chọn của chính xã hội đó.
Thế còn những vấn đề môi trường của cộng hòa Dominica và những biện pháp đối phó mà nước này đã áp dụng? Trở lại những thuật ngữ tôi đã giới thiệu trong Chương 9, các biện pháp bảo vệ môi trường mà người Dominica áp dụng bắt đầu từ phương pháp quản lý từ dưới lên trên, sau đó chuyển sang phương pháp kiểm soát từ trên xuống dưới kể từ năm 1930, và hiện nay kết hợp cả hai phương pháp này. Khai thác các loại cây gỗ quý ở cộng hòa Dominica tăng mạnh trong những năm 1860 và 1870, khiến các loại gỗ quý ở một số vùng của Dominica bị tuyệt chủng hoặc cạn kiệt. Cuối thế kỷ XIX, tình trạng phá rừng tăng mạnh do nông dân phá rừng lấy đất làm đồn điền trồng mía và các loại hoa màu thương mại khác, và vẫn tiếp tục tăng mạnh cho tới đầu thế kỷ XX do nhu cầu gỗ làm tà vẹt đường sắt và tình trạng đô thị hóa bắt đầu bùng nổ. Ngay từ năm 1900, Dominica đã nhận ra những tác hại đầu tiên do phá rừng là lượng mưa thấp ở những vùng khai thác gỗ làm nhiên liệu, và các dòng suối bị ô nhiễm do các hoạt động nông nghiệp dọc hai bên bờ suối. Những quy định pháp luật đầu tiên của Dominica cấm chặt gỗ và làm ô nhiễm các dòng suối được ban hành vào năm 1901.
Bảo vệ môi trường bằng phương pháp từ dưới lên trên được phát động một cách nghiêm túc trong giai đoạn 1919 - 1930 tại khu vực xung quanh Santiago, thành phố lớn thứ hai của cộng hòa Dominica và là trung tâm nông nghiệp giàu nhất và bị khai thác nặng nề nhất. Luật sư Juan Bautista Pérez Rancier và nhà vật lý và đo vẽ địa hình Miguel Canela y Lázaro lo ngại trước tình trạng khai thác gỗ và những hệ thống đường sá dẫn tới các khu dân cư nông thôn và những lưu vực sông bị phá hoại nên đã vận động Phòng Thương mại Santiago mua lại rừng để lập ra một khu rừng bảo tồn, đồng thời cũng vận động tìm kiếm những nguồn tài chính cần thiết từ các doanh nghiệp thành viên của Phòng Thương mại. Và họ đã thành công khi năm 1927, Bộ trưởng Nông nghiệp của Dominica cũng đóng góp một phần tiền của chính phủ để mua rừng lập ra khu bảo tồn thiên nhiên đầu tiên Vedado del Yaque. Yaque là dòng sông lớn nhất đất nước, và vedado là một vùng đất có kiểm soát hoặc hoàn toàn cấm con người ra vào.
Sau năm 1930, nhà độc tài Trujillo đã thúc đẩy chuyển hoạt động quản lý môi trường sang phương pháp từ trên xuống dưới. Chính phủ của ông mở rộng khu vực Vedado del Yaque, thành lập thêm những vedado khác, công viên quốc gia đầu tiên được thành lập năm 1934 với một lực lượng kiểm lâm có nghĩa vụ bảo vệ rừng, trấn áp tình trạng đốt nương làm rẫy, và nghiêm cấm chặt bất kỳ cây thông nào trong khu vực xung quanh Constanza, miền Trung Cordillera mà không được sự phê chuẩn của Trujillo. Trujillo áp dụng tất cả các biện pháp này nhân danh bảo vệ môi trường, nhưng có thể ông ta còn có những động cơ kinh tế mạnh mẽ, trong đó có cả những lợi ích kinh tế của cá nhân ông. Năm 1937, Chính phủ Dominica ủy thác cho nhà khoa học môi trường nổi tiếng người Puerto Rico, tiến sĩ Carlos Chardón, tiến hành khảo sát tài nguyên thiên nhiên của cộng hòa Dominica (các tiềm năng về lâm nghiệp, nông nghiệp và khoáng sản). Đặc biệt, Chardón đã tính toán tiềm năng khai thác gỗ thương mại từ rừng thông của Dominica, hiện là rừng thông lớn nhất khu vực Caribe có trị giá khoảng 40 triệu đô-la, một khoản doanh thu lớn vào thời điểm đó. Dựa trên báo cáo này, bản thân Trujillo cũng tham gia khai thác gỗ và chiếm những diện tích rừng thông lớn, đồng thời góp vốn thành lập các nhà máy chế biến gỗ trên cả nước. Trong những lần khai thác gỗ, những nhân viên lâm nghiệp của Trujillo áp dụng một biện pháp thân thiện với môi trường, có nghĩa là để lại các cây lâu năm như nguồn cung cấp hạt giống để tái tạo rừng tự nhiên, hiện những cây gỗ lớn lâu năm này vẫn còn có thể nhận ra trong khu rừng tái sinh. Các biện pháp môi trường dưới thời Trujillo trong những năm 1950 còn bao gồm một nghiên cứu của người Thụy Điển về tiềm năng xây dựng đập thủy điện của Dominica, lập kế hoạch xây dựng các đập này và tổ chức hội nghị môi trường đầu tiên trong nước vào năm 1958, thành lập thêm nhiều công viên quốc gia khác, ít nhất cũng bảo vệ được một phần các nguồn nước sẽ rất cần thiết cho các nhà máy thủy điện sau này.
Dưới chế độ độc tài của mình, Trujillo (như thường lệ, thường lấy các thành viên trong gia đình hay những người thân cận làm bình phong) tiến hành một loạt hoạt động khai thác gỗ làm lợi riêng cho ông ta, nhưng lại ngăn chặn những người khác khai thác gỗ và thành lập các khu dân cư bất hợp pháp. Sau cái chết của Trujillo vào năm 1961, bức tường bảo vệ môi trường của Dominica cũng sụp đổ theo. Những người lấn chiếm liền nhảy vào chiếm đất rừng và đốt nương làm rẫy; những cuộc di cư hỗn độn trên quy mô lớn từ nông thôn vào thành phố tăng mạnh; và bốn gia đình quyền thế nhất trong khu vực Santiago bắt đầu khai thác gỗ với tốc độ nhanh hơn cả dưới thời Trujillo. Hai năm sau khi Trujillo chết, tổng thống dân cử Juan Bosch đã cố thuyết phục những người khai thác gỗ không đụng chạm tới những rừng thông để có thể bảo vệ được nguồn nước cho các đập Nizao và Yaque như đã định, nhưng thay vào đó, những kẻ khai thác gỗ đã bắt tay với những nhóm lợi ích khác lật đổ Bosch. Tình trạng khai thác gỗ diễn ra mạnh cho tới khi Joaquín Balaguer được bầu làm Tổng thống vào năm 1966.
Balaguer nhận thấy đất nước đang rất cần duy trì các nguồn nước được rừng che phủ để đáp ứng những nhu cầu năng lượng của Dominica bằng thủy điện, và để đảm bảo nguồn cung cấp nước hiệu quả phục vụ nhu cầu công nghiệp và sinh hoạt. Ngay sau khi nhậm chức tổng thống, ông đã có một hành động quyết liệt cấm mọi hoạt động khai thác gỗ thương mại và đóng cửa tất cả các nhà máy chế biến gỗ trên cả nước. Hành động này đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ từ những gia đình giàu có và quyền lực, họ đối phó bằng cách ngừng khai thác gỗ công khai và chuyển vào khai thác gỗ ở những vùng sâu, vùng xa và cho các nhà máy chế biến gỗ hoạt động vào ban đêm. Không nhân nhượng, Balaguer phản ứng bằng một biện pháp quyết liệt hơn, ông chuyển trách nhiệm bảo vệ rừng từ Bộ Nông nghiệp sang cho lực lượng quân đội, đồng thời tuyên bố các hoạt động khai thác gỗ bất hợp pháp sẽ bị khép vào tội xâm phạm an ninh quốc gia. Để ngăn chặn tình trạng khai thác gỗ, đầu tiên các lực lượng quân sự tiến hành những chuyến bay khảo sát và các hoạt động quân sự, mà đỉnh điểm là sự kiện mang tính bước ngoặt trong lịch sử môi trường Dominica diễn ra vào năm 1967, khi quân đội tiến hành một cuộc đột kích ban đêm tấn công một trang trại khai thác gỗ lậu lớn. Trong cuộc đấu súng, khoảng hơn 10 tên lâm tặc đã bị tiêu diệt. Hành động mạnh mẽ này đã khiến những kẻ khai thác gỗ bất hợp pháp khác bàng hoàng. Mặc dù, hoạt động khai thác gỗ bất hợp pháp sau đó vẫn tiếp tục và quân đội Dominica vẫn liên tục tiến hành những cuộc truy quét và tiêu diệt những tên lâm tặc, nhưng nó đã giảm mạnh trong giai đoạn đầu Balaguer làm tổng thống (từ 1966 - 1978 với ba nhiệm kỳ tổng thống liên tiếp).
Đó chỉ là một trong số hàng loạt biện pháp môi trường có ảnh hưởng lớn của Balaguer. Tiếp sau đó là những biện pháp khác. Trong tám năm khi Balaguer không nắm quyền, giai đoạn từ 1978 - 1986, những tổng thống kế nhiệm ông lại cho phép một số trang trại khai thác gỗ và nhà máy chế biến gỗ hoạt động trở lại, và hoạt động sản xuất than củi hợp pháp cũng tăng lên. Ngay ngày đầu tiên trở lại cương vị tổng thống năm 1986, Balaguer ban hành một loạt quyết định đóng cửa các trang trại khai thác gỗ và các nhà máy chế biến gỗ, ngày hôm sau cho triển khai trực trăng quân sự trinh sát, phát hiện những hoạt động khai thác gỗ lậu và những vụ xâm nhập các công viên quốc gia. Ông cho nối lại các hoạt động quân sự bắt giữ và bỏ tù những tên lâm tặc, dỡ bỏ nhà cửa của những người lấn chiếm nghèo khổ, kể cả các khu nông nghiệp và những khu nhà nghỉ của những người giàu có (trong đó có cả những người là bạn của Balaguer) xâm phạm khu vực công viên quốc gia. Nổi bật nhất trong các chiến dịch này là năm 1992, tại công viên quốc gia Los Haitises, với 90% diện tích rừng đã bị phá, quân đội đã trục xuất hàng ngàn người lấn chiếm đất rừng. Hai năm sau, thêm một chiến dịch tương tự được thực hiện, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Balaguer, quân đội đã dùng máy ủi san phẳng những ngôi nhà sang trọng của những người Dominica giàu có xây dựng trong công viên quốc gia Juan B. Pérez. Balaguer cấm sử dụng lửa để đốt nương làm rẫy, và thậm chí còn ban hành một đạo luật (nhưng rất khó thực hiện) rằng mỗi trụ hàng rào đều phải là những cây còn sống, chứ không phải là những khúc gỗ đã bị chặt. Ông đưa ra hai biện pháp để làm giảm nhu cầu tiêu thụ gỗ trên thị trường Dominica và thay thế bằng các vật liệu khác, ông mở cửa thị trường nhập khẩu gỗ từ Chile, Honduras và Mỹ (như vậy đáp ứng được phần lớn nhu cầu gỗ của Dominica trên thị trường mà không gây áp lực khiến rừng trong nước bị chặt phá); và giảm hoạt động sản xuất than củi truyền thống từ gỗ rừng (một thảm họa môi trường của người Haiti) bằng cách hợp đồng nhập khẩu khí hóa lỏng từ Venezuela, xây dựng một số cảng nhập khẩu loại khí này, trợ cấp kinh phí để khuyến khích các cơ sở công cộng bỏ than củi để chuyển sang dùng khí tự nhiên, phân phát miễn phí các lò và ống dẫn sử dụng khí prôban để khuyến khích người dân chuyển sang sử dụng khí. Ông mở rộng hệ thống bảo tồn thiên nhiên gấp nhiều lần, thành lập hai công viên quốc gia bờ biển đầu tiên của Dominica, sáp nhập hai dải đất ngầm dưới biển vào lãnh thổ quốc gia và quy định đó là nơi cấm săn bắt cá voi. Các vùng đất trong phạm vi 18 mét, tính từ bờ sông, và trong vòng 54 mét tính từ bờ biển là những vùng được bảo vệ, tuyệt đối cấm xâm phạm các đầm lầy, gia nhập công ước Rio về môi trường và cấm săn bắn trong thời gian 10 năm. Ông gây áp lực buộc các ngành công nghiệp phải xử lý rác thải của mình, áp dụng thành công các biện pháp kiểm soát ô nhiễm không khí trong chừng mực nhất định và ban hành mức thuế cao đánh vào các công ty khai thác mỏ. Trong số rất nhiều dự án hoặc đề xuất có khả năng gây thiệt hại tới môi trường đã bị ông phản đối hay ngăn chặn có một dự án làm đường dẫn tới cảng Sanchez đi qua một công viên quốc gia, một tuyến đường Bắc - Nam qua dãy núi miền Trung, một sân bay quốc tế tại Santiago, một cảng siêu lớn và một đập thủy điện ở Madrigal. Ông từ chối cho sửa chữa một con đường hiện có trên cao nguyên, khiến nó trở nên không thể sử dụng được. Tại Santa Domingo, ông lập ra những khu sinh vật dưới nước, vườn Bách thảo, Bảo tàng lịch sử tự nhiên và tái thiết vườn Bách thú quốc gia, tất cả đều trở thành những nơi hấp dẫn, thu hút rất đông du khách.
Khi đã ở tuổi 94, hành động chính trị cuối cùng của Balaguer nhằm bảo vệ môi trường là ông đã cùng với tổng thống Mejia, đã được bầu nhưng chưa nhậm chức, ngăn chặn kế hoạch của tổng thống đương nhiệm Fernandéz nhằm thu hẹp hệ thống bảo tồn thiên nhiên vốn đang bị suy yếu. Balaguer và Meijia đã thành công nhờ biết vận dụng các quy định pháp luật một cách thông minh, họ vô hiệu hóa đề xuất của tổng thống Fernandéz bằng cách sửa đổi một điều khoản pháp luật chuyển tất cả hệ thống bảo tồn thiên nhiên từ sự quản lý bằng mệnh lệnh hành chính của chính phủ (đối tượng trong đề xuất của Fernandéz) thành hệ thống được quản lý theo các điều luật luật, đối với các hệ thống bảo vệ thiên nhiên đã tồn tại từ năm 1996 trong nhiệm kỳ tổng thống cuối cùng của Balaguer và trước nhiệm kỳ của Fernandéz. Bởi vậy, Balaguer đã chấm dứt sự nghiệp của mình bằng hành động cứu hệ thống bảo tồn thiên nhiên mà ông đã dày công vun đắp.
Tất cả những hành động của Balaguer đã đưa phương pháp quản lý môi trường từ trên xuống dưới lên đến tột đỉnh ở cộng hòa Dominica. Cũng trong thời kỳ này, biện pháp quản lý từ dưới lên trên cũng được khôi phục sau một thời gian biến mất dưới thời Trujillo. Trong những năm 1970 và 1980, các nhà khoa học đã tiến hành nhiều nghiên cứu đánh giá các nguồn tài nguyên thiên nhiên trên đất liền, trên biển và bờ biển. Dominica dần dần khôi phục lại sự tham gia bảo vệ môi trường của các tổ chức dân sự sau hàng thập kỷ bị vô hiệu hóa từ thời Trujillo, những năm 1980, nhiều tổ chức phi chính phủ được thành lập, trong đó có vài chục tổ chức môi trường hoạt động ngày càng hiệu quả. Trái ngược với tình trạng của nhiều nước đang phát triển, nơi những nỗ lực bảo vệ môi trường chủ yếu do các tổ chức môi trường quốc tế phát động, động lực của phương pháp quản lý từ dưới lên trên tại cộng hòa Dominica chính là từ các tổ chức phi chính phủ lo lắng cho vấn đề môi trường. Cùng với các trường đại học và Viện Khoa học Dominica, các tổ chức phi chính phủ giờ đang đi đầu trong phong trào bảo vệ môi trường của Dominica.
Tại sao Balaguer lại thúc đẩy áp dụng hàng loạt biện pháp nhân danh môi trường như vậy? Với nhiều người trong chúng ta, khó đồng tình rằng đó là trách nhiệm lớn lao và lâu dài với môi trường của một người có tính cách cứng rắn như ông ta. Balaguer từng có thời gian 31 năm làm việc dưới quyền của nhà độc tài Rafael Trujillo và luôn ủng hộ Trujillo trong cuộc tàn sát người Haiti năm 1937. Sau cùng, ông ta trở thành một thống đốc bù nhìn trong tay Trujillo, nhưng ông ta còn đảm nhận những chức vụ cao trong chính quyền Trujillo như Bộ trưởng. Bất cứ ai từng hợp tác với con người xấu xa như Trujillo chắc chắn ngay lập tức trở thành kẻ đáng ngờ và nhơ nhuốc do có liên quan tới Trujillo. Balaguer còn tự mình thực hiện hàng loạt hành vi tội lỗi sau cái chết của Trujillo - những hành vi mà cá nhân Balaguer phải chịu trách nhiệm. Năm 1986, ông được người dân Dominica bầu làm tổng thống một cách trung thực, nhưng ông đã sử dụng những biện pháp dối trá, bạo lực và dọa dẫm để đảm bảo được bầu vào chức vụ tổng thống năm 1966 và những lần tái cử trong các năm 1970, 1974, 1990 và 1994. Ông lập biệt đội tử thần riêng để ám sát hàng trăm, có lẽ là hàng ngàn thành viên các đảng đối lập. Ông từng nhiều lần ra lệnh cưỡng chế di dời những người lấn chiếm nghèo khổ ra khỏi các công viên quốc gia, và ra lệnh hoặc làm ngơ cho những vụ bắn giết lâm tặc. Ông cũng làm ngơ trước nạn tham nhũng tràn lan. Ông thuộc loại chính trị gia cứng rắn theo truyền thống của châu Mỹ Latinh, hay còn gọi là Lãnh tụ - caudillos. Một trong những câu nói bất hủ của ông là: “Hiến pháp chẳng qua chỉ là một mảnh giấy”.
Chương 14 và 15 của cuốn sách này sẽ thảo luận về những lý do thường rất phức tạp rằng tại sao con người theo đuổi hoặc không theo đuổi các chính sách bảo vệ môi trường. Trong thời gian ở thăm cộng hòa Dominica, tôi đặc biệt quan tâm tới việc tìm hiểu, từ những người quen biết Balaguer hay từng sống dưới thời của ông ta, xem động cơ hành động của ông ta là gì. Tôi đã hỏi tất cả những người Dominica mà tôi phỏng vấn trong một thời gian dài, và tôi đã có 20 câu trả lời khác nhau. Nhiều người trong số họ có lẽ là những người có động cơ ghét cay ghét đắng Balaguer bởi họ từng bị ông ta bỏ tù hay bị chính quyền Trujillo, mà Balaguer từng giữ trọng trách, bắt bớ tù đày và tra tấn, hay có những người thân và bạn bè bị giết.
Trong những ý kiến đa dạng đó, dù sao những người được tôi phỏng vấn cũng đưa ra một số điểm khách quan. Balaguer được mô tả như một con người phức tạp và khó hiểu. Ông ta ham muốn quyền lực chính trị, và theo đuổi các chính sách với quan điểm không nên làm những gì có thể làm suy giảm quyền lực của mình (nhưng ông vẫn thường bị đẩy tới ranh giới của nguy cơ bị mất quyền lực qua hàng loạt chính sách không được người dân ủng hộ). Ông là một chính trị gia thực tế, đa nghi và cực kỳ khéo léo, với những khả năng kiệt xuất trong lịch sử chính trị 42 năm qua của Dominica mà không một ai có thể sánh được, tới mức bị gán cho từ “quỷ quyệt”. Ông thường xuyên duy trì sự cân bằng mong manh giữa quân đội, nhân dân và những nhóm quý tộc có mưu đồ tranh giành quyền lực; ông thành công trong việc sớm phát hiện và dập tắt những âm mưu đảo chính quân sự bằng cách chia nhỏ quân đội thành những nhóm cạnh tranh với nhau; và ông còn khiến mọi người dân sợ hãi không dám xâm phạm các khu rừng và công viên quốc gia, kể cả các sĩ quan quân đội, sau hàng loạt những cuộc đụng độ bất ngờ nổi tiếng được chiếu trên truyền hình năm 1994. Tôi được kể rằng một viên tướng quân đội có ý phản đối các biện pháp bảo vệ rừng của Balaguer nên bị Balaguer tức giận triệu tập, tới nơi ông này sợ hãi tới mức són cả ra quần. Một nhà lịch sử đã mô tả Balaguer bằng những t?