PHẦN III. NHỮNG XÃ HỘI HIỆN ĐẠI CHƯƠNG 10 THUYẾT MALTHUS Ở CHÂU PHI: -HỌA DIỆT CHỦNG Ở RWANDA
Một tình thế khó xử - Những sự kiện ở Rwanda - Còn hơn cả hận thù sắc tộc - Tích tụ ở Kanama - Bùng nổ ở Kanama - Tại sao xảy ra diệt chủng.
Tôi và vợ đã hai lần đưa gia đình đi nghỉ hè ở Đông Phi, lần đầu khi hai cậu con trai sinh đôi mới 10 tuổi và lần sau chúng đã 15 tuổi. Cũng như nhiều du khách khác, bốn chúng tôi sửng sốt khi lần đầu tiên trong đời tận mắt nhìn thấy những con thú to lớn, phong cảnh và con người châu Phi. Mặc dù khi ở nhà, ngồi trong phòng khách đầy đủ tiện nghi, chúng tôi thường xuyên nhìn thấy những con linh dương châu Phi chạy trên màn hình TV trong các chương trình đặc biệt của kênh National Geographic, nhưng chúng tôi không thể hình dung ra những cảnh tượng, những âm thanh và các loại mùi của hàng triệu con linh dương trên đồng bằng Seregeti khi chúng tôi ngồi trong một chiếc Land Rover, bao quanh là một đàn linh dương trải dài từ nơi chúng tôi đỗ xe tới tận chân trời, tỏa ra tất cả các hướng. Chúng tôi cũng chưa hề thấy trên truyền hình chiếc đáy của miệng núi lửa Ngorongoro và không thể hình dung nó lại lớn tới vậy, bằng phẳng và trơ trụi, những vách núi bên trong dốc và cao mà một người lái xe từ một khách sạn du lịch đã cố lái xe lên vành núi để đi xuống dưới đáy.
Con người Đông Phi cũng gây ấn tượng mạnh với chúng tôi với sự thân thiện, nhiệt tình với các con tôi, những bộ quần áo sặc sỡ và dân số đông đúc của họ. Đọc những bài viết về “bùng nổ dân số” là một chuyện, còn tận mắt chứng kiến thì lại là chuyện khác, ngày nào cũng có hàng đoàn trẻ em châu Phi đứng dọc hai bên đường chờ những chiếc xe chở du khách đi qua thì hét lên xin bút chì để đi học, nhiều đứa lớn bằng hai đứa con tôi. Tác động của dân số tới phong cảnh thiên nhiên rất rõ ràng, thậm chí ngay cả dọc theo những con đường dài hoang vu, không có bóng dáng con người. Trên thảo nguyên, những vạt cỏ lưa thưa do bị những đàn gia súc, cừu và dê gặm trụi. Có thể dễ dàng nhận ra những chiếc rãnh lớn mới hình thành do xói mòn, với những dòng suối dưới chân núi đục ngầu toàn một màu nâu do bùn trôi từ những thảo nguyên trơ trụi xuống.
Tất cả số trẻ em này góp phần đưa tỷ lệ tăng trưởng dân số tại Đông Phi lên hàng cao nhất thế giới: tỷ lệ tăng trưởng dân số gần đây của Kenya là 4,1%/năm, khiến dân số tăng gấp đôi sau mỗi 17 năm. Bùng nổ dân số vẫn tiếp tục tăng mặc dù châu Phi là lục địa có con người sinh sống lâu hơn nhiều so với bất kỳ lục địa nào khác, như vậy mọi người có thể ngây thơ nghĩ rằng lẽ ra dân số châu Phi đã phải tới mức bão hòa từ lâu rồi. Thực tế, gần đây dân số châu Phi bùng nổ bởi nhiều lý do: sự du nhập một số loại hoa màu sản lượng cao từ Tân Thế giới (nhất là ngô, đậu, khoai lang, và sắn với biệt danh là cassava), tăng cường hoạt động nông nghiệp và đưa sản lượng lương thực vượt khả năng của các loại hoa màu bản địa trước kia của châu Phi; vệ sinh được cải thiện, xuất hiện các loại dược phẩm phòng ngừa bệnh, tiêm vắc xin phòng bệnh cho các bà mẹ và trẻ em, sử dụng các loại thuốc kháng sinh và áp dụng một số biện pháp khống chế hữu hiệu bệnh sốt rét và các loại bệnh đặc hữu khác của châu Phi; đất nước thống nhất và ổn định biên giới quốc gia, từ đó cho phép cư dân sinh sống ở một số vùng đất trước đó bị bỏ hoang do gần những điểm xung đột.
Các vấn đề dân số như của Đông Phi thường được gọi là “học thuyết Malthus”, bởi năm 1798 nhà kinh tế học và là nhà nhân khẩu học người Anh Thomas Malthus xuất bản một cuốn sách nổi tiếng, trong đó ông cho rằng tốc độ tăng trưởng dân số có xu hướng vượt quá tốc độ tăng trưởng của sản lượng lương thực. Đó là bởi (theo Malthus) tăng trưởng dân số phát triển theo cấp số nhân, trong khi sản lượng lương thực chỉ tăng theo cấp số cộng. Ví dụ, nếu cứ sau 35 năm dân số lại tăng gấp đôi, thì dân số 100 người trong năm 2000, theo chu kỳ này sẽ tăng lên 200 người vào năm 2035, lên 400 người vào năm 2070 và tới năm 2105 sẽ lên 800 người, và cứ tiếp diễn như vậy. Nhưng tỷ lệ tăng của sản lượng lương thực chỉ theo cấp số cộng chứ không phải là cấp số nhân: chúng ta chỉ nghe thấy rằng thành tựu này làm tăng 25% sản lượng ngũ cốc, đột phá kia làm tăng sản lượng thêm 20%… Như vậy có sự chênh lệch lớn giữa tăng trưởng dân số và tăng trưởng sản lượng lương thực. Dân số phát triển, số người mới tăng lên lại tiếp tục tự mình sinh thêm - giống như cách tính lãi suất, bản thân lãi suất cũng sinh ra lãi suất, do vậy tăng trưởng dân số phát triển theo cấp số nhân. Ngược lại, lượng lương thực tăng thêm lại không thể tiếp tục tự tăng thêm nữa, do vậy nó chỉ tăng theo cấp số cộng. Bởi vậy dân số sẽ có xu hướng phát triển để tiêu thụ toàn bộ số lương thực hiện có và không bao giờ để thừa, trừ khi bản thân tăng trưởng dân số bị chặn lại bởi đói kém, chiến tranh, bệnh tật hay bởi con người áp dụng các biện pháp hạn chế (như tránh thai hoặc kết hôn muộn hơn). Quan điểm, hiện vẫn phổ biến tới ngày nay, rằng chúng ta chỉ có thể làm cuộc sống hạnh phúc hơn đơn thuần chỉ bằng cách tăng sản lượng lương thực, nhưng nếu không đồng thời kiểm soát tăng trưởng dân số thì xã hội sẽ kết thúc trong bi thảm, Malthus khẳng định như vậy.
Tính đúng đắn trong nhận định bi quan của ông vẫn còn đang gây nhiều tranh cãi. Thực tế, có một số nước hiện đại đã giảm mạnh dân số bằng những biện pháp tự nguyện (như Italy và Nhật Bản) hay kiểm soát sinh đẻ theo mệnh lệnh của Chính phủ (như Trung Quốc). Nhưng trường hợp của Rwanda hiện đại dường như rất đúng với kịch bản tồi tệ nhất mà Malthus đưa ra. Nói chung, cả những người ủng hộ và những người phản đối Malthus đều có thể đồng ý rằng các vấn đề môi trường và dân số nảy sinh do sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên không bền vững, cuối cùng sẽ được giải quyết bằng cách này hay cách khác: nếu không bằng các biện pháp nhẹ nhàng do chúng ta lựa chọn thì có thể bằng những biện pháp đau đớn mà chúng ta không có sự chọn lựa, như những biện pháp mà ban đầu Malthus đã hình dung.
Vài tháng trước, khi tôi đang giảng dạy về các vấn đề môi trường của xã hội cho một khóa học viên sau đại học của trường Đại học California, Los Angeles (UCLA), chúng tôi đã thảo luận về những khó khăn mà các xã hội thường xuyên phải đối đầu mỗi khi cố tìm ra những phương pháp giải quyết các tranh chấp môi trường. Một sinh viên đã phát biểu rằng tranh chấp có thể, và thường là như vậy, được giải quyết ngay bằng xung đột. Nói như vậy, sinh viên đó không có ý rằng anh ta bào chữa cho việc giết người như một biện pháp giải quyết tranh chấp, mà anh ta chỉ quan sát thấy rằng các vấn đề môi trường thường khiến cho con người xung đột với nhau. Ở Mỹ các xung đột thường được giải quyết tại tòa án, và tòa án đưa ra phương pháp giải quyết tranh chấp hợp lý nhất, bởi vậy các sinh viên đang chuẩn bị theo nghiệp xử lý các vấn đề môi trường cần phải làm quen với hệ thống pháp lý. Trường hợp Rwanda lại một lần nữa cho chúng ta một bài học: nhận xét của sinh viên của tôi về cơ bản là đúng bởi các tranh chấp thường xuyên được giải quyết bằng xung đột, nhưng xung đột có thể diễn ra dưới những hình thức tàn bạo hơn nhiều so với các quy trình xét xử của tòa án.
Trong những thập kỷ gần đây, Rwanda và nước láng giềng Burundi đã ghi đậm vào tâm trí chúng ta hai điều, đó là: đông dân và thảm họa diệt chủng (Phụ bản ảnh 21). Đây là hai quốc gia đông dân nhất châu Phi, và thuộc số các nước đông dân nhất thế giới: Mật độ dân số trung bình của Rwanda thậm chí còn cao gấp ba lần so với nước đông dân thứ ba của châu Phi (Nigeria), và gấp 10 lần nước láng giềng Tanzania. Số người chết trong thảm họa diệt chủng ở Rwanda cao thứ ba trong số những thảm họa diệt chủng xảy ra trên thế giới từ năm 1950 trở lại đây. Đứng đầu là thảm họa diệt chủng xảy ra trong những năm 1970 ở Campuchia, rồi tới thảm họa diệt chủng năm 1971 tại Bangladesh (khi đó vẫn còn là miền đông Pakistan). Bởi tổng dân số của Rwanda ít hơn Bangladesh 10 lần, nên quy mô diệt chủng ở Rwanda, nếu tính theo tỷ lệ so với tổng số dân bị giết thì lớn hơn Bangladesh nhiều lần và đứng thứ hai chỉ sau Campuchia. Thảm họa diệt chủng tại Burundi diễn ra trên quy mô nhỏ hơn Rwanda, “chỉ” cướp đi sinh mạng của vài trăm ngàn người, nhưng cũng đủ để Burundi đứng thứ bảy xét về số nạn nhân và đứng thứ tư xét theo tỷ lệ dân số bị giết so với các thảm họa diệt chủng diễn ra trên thế giới kể từ năm 1950 trở lại đây.
Chúng ta thường liên kết thảm họa diệt chủng ở Rwanda và Burundi với vấn đề xung đột sắc tộc. Trước khi chúng ta tìm hiểu những vấn đề liên quan ngoài xung đột sắc tộc, thì chúng ta cần bắt đầu từ một số bối cảnh về tiến trình của một thảm họa diệt chủng, lịch sử sẽ giúp chúng ta tìm hiểu vấn đề này, và sự mô tả thường gặp về chúng mà giờ tôi sẽ phác thảo qua như sau. (Tôi sẽ đề cập sau về một số khía cạnh mà trong đó sự mô tả thường gặp này là sai, không đầy đủ hay quá đơn giản). Dân số của cả hai nước chỉ bao gồm hai nhóm dân tộc chính là người Hutu (ban đầu chiếm khoảng 85% dân số) và người Tutsi (chiếm khoảng 15% còn lại). Từ trước tới nay, hai dân tộc này có những vai trò kinh tế khác nhau tương đối lớn, người Hutu chủ yếu là nông dân, và người Tutsi là những người làm nghề chăn nuôi gia súc. Hình thức của cư dân thuộc hai nhóm dân tộc này cũng khác nhau, người Hutu thấp hơn, chắc hơn, đen hơn, mũi tẹt, môi dày và cằm bạnh, trong khi người Tutsi cao hơn, thanh mảnh hơn, da sáng, môi mỏng và cằm hẹp hơn. Người ta cho rằng người Hutu định cư ở Rwanda và Burundi trước, di cư từ phía nam và phía tây xuống, trong khi người Tutsi là một dân tộc ở vùng sông Nil, từ phía bắc và phía đông, tới đây muộn hơn và tự coi mình là lãnh chúa của người Hutu. Khi người Đức (năm 1897) và sau đó là người Bỉ (năm 1916) xâm chiếm hai nước này, họ nhận thấy tốt hơn nên cai trị thông qua những người Tutsi trung gian, những người mà họ tin rằng thuộc chủng tộc cao hơn so với người Hutu bởi nước da của người Tutsi sáng hơn và có vẻ ngoài châu Âu hay giống “dân Hamit” hơn. Trong những năm 1930, người Bỉ ra lệnh mọi công dân Rwanda phải luôn mang theo thẻ căn cước để phân biệt họ là người Hutu hay người Tutsi, điều này càng khiến tình trạng phân biệt chủng tộc, vốn đã tồn tại, càng trở nên sâu sắc hơn.
Năm 1962, cả hai nước được độc lập. Khi độc lập, người Hutu ở cả hai nước bắt đầu nổi dậy lật đổ sự cai trị của người Tutsi và thay thế bằng sự cai trị của người Hutu. Những cuộc xung đột bạo lực nhỏ leo thang thành những cuộc tàn sát lẫn nhau giữa hai sắc tộc Hutu và Tutsi. Hậu quả là ở Burundi, người Tutsi vẫn giữ được quyền cai trị sau những cuộc nổi loạn của người Hutu vào các năm 1965 và 1970-1972, khiến vài trăm ngàn người Hutu bị người Tutsi giết hại. (Số liệu này và nhiều số liệu khác về số người chết và lưu vong vẫn còn chưa xác định). Tuy nhiên, tại Rwanda, người Hutu đã thành công và giết 20.000 (có lẽ cũng chỉ 10.000?) người Tutsi vào năm 1963. Trong vòng hai thập kỷ tiếp theo, khoảng một triệu người Rwanda, chủ yếu là người Tutsi, đã phải bỏ chạy sang các nước láng giềng, và từ đó thi thoảng lại tổ chức những cuộc xâm lược Rwanda làm gia tăng những cuộc tàn sát trả đũa người Tutsi của người Hutu. Mãi tới tận năm 1973, viên tướng Habyarimata người Hutu tiến hành đảo chính lật đổ chính quyền của người Hutu trước đó và quyết định chung sống hòa bình với người Tutsi.
Dưới thời Habyarimata, Rwanda đã phát triển thịnh vượng trong vòng 15 năm và được nhiều nhà tài trợ nước ngoài ưu ái viện trợ nhằm giúp đỡ đất nước hòa bình này nâng cao các chỉ số về y tế, giáo dục và kinh tế. Đáng tiếc là hạn hán và sự tích tụ các vấn đề môi trường (nhất là phá rừng, xói mòn và đất bạc màu), đã khiến sự phát triển kinh tế của Rwanda bị chững lại, và tới năm 1989 càng trở nên trầm trọng hơn khi giá hai mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Rwanda là chè và cà phê trên thị trường thế giới giảm mạnh, cùng với việc Ngân hàng Thế giới áp dụng các biện pháp cứng rắn và hạn hán xảy ra ở miền nam nước này. Tháng 10/1990, viện cớ ngăn chặn cuộc tấn công của người Tutsi từ nước láng giềng Uganda vào phía đông bắc Rwanda, Habyarimata tiến hành trấn áp và tiêu diệt những người Hutu đối lập và người Tutsi trên cả nước nhằm củng cố quyền lực của mình. Nội chiến đã dồn một triệu người Rwanda vào các trại tập trung, ở đó các nam thanh niên tuyệt vọng dễ dàng gia nhập các tổ chức vũ trang. Năm 1993, một thỏa ước hòa bình được ký kết tại Arusha kêu gọi chia sẻ quyền lực và thành lập một chính phủ đa thành phần. Tuy nhiên, các thương gia thân cận của Habyarimata vẫn nhập khẩu 581.000 mã tấu để phân phát cho người Hutu tàn sát người Tutsi, bởi giá mã tấu rẻ hơn súng.
Mặc dù, Habyarimata đã có những hành động chống lại người Tutsi, và bắt đầu làm ngơ cho những hành động giết người Tutsi, nhưng những điều đó vẫn chưa đủ với những kẻ cực đoan người Hutu (những người Hutu còn cực đoan hơn cả Habyarimata), do lo sợ quyền lực của họ sẽ bị phân tán nếu thực hiện thỏa ước Arusha. Số người này bắt đầu thành lập và huấn luyện những nhóm vũ trang riêng của mình, nhập khẩu vũ khí và sẵn sàng tàn sát người Tutsi. Người Hutu Rwanda e ngại người Tutsi bởi người Tutsi từng thống trị người Hutu trong một thời gian dài, từ những cuộc tấn công Rwanda do người Tutsi phát động, những vụ tàn sát người Hutu do người Tutsi tiến hành và những vụ ám sát các nhà lãnh đạo chính trị Hutu ở nước láng giềng Burundi. Năm 1993, những lo ngại của người Hutu càng tăng khi những sĩ quan quân đội cực đoan người Tutsi ở Burundi giết tổng thống người Hutu của Burundi, châm ngòi cho người Hutu tàn sát người Tutsi ở Burundi, đồng thời cũng khiến nhiều người Hutu tại Burundi bị người Tutsi tàn sát.
Tình hình trở nên căng thẳng vào đêm 6/4/1994, khi chiếc chuyên cơ chở Tổng thống Habyarimata của Rwanda và (vị hành khách bước lên máy bay vào phút cuối cùng) tân Tổng thống lâm thời của Burundi về nước sau một cuộc họp ở Tanzania bị bắn hạ. Khi vừa bay vào không phận của sân bay Kigali, thủ đô của Rwanda, chiếc chuyên cơ bị hai quả tên lửa bắn hạ, giết chết tất cả mọi người trên máy bay. Những quả tên lửa được phóng đi ngay ở bên ngoài vành đai của sân bay. Tới giờ vẫn không rõ thủ phạm và lý do tại sao máy bay của Habyarimata bị bắn hạ; có nhiều tổ chức có những động cơ khác nhau để tiến hành những âm mưu giết ông ta. Cho dù thủ phạm là ai thì chỉ trong vòng một tiếng đồng hồ kể từ khi máy bay bị bắn hạ, những người Hutu cực đoan đã bắt tay thực hiện ngay những kế hoạch rõ ràng đã được chuẩn bị chi tiết từ trước để hạ sát thủ tướng Hutu và những người ôn hòa hay những thành viên dân chủ đối lập ít cực đoan hơn, và người Tutsi. Khi phái Hutu đối lập của Rwanda đã bị trấn áp, những kẻ cực đoan liền chiếm chính quyền, đài phát thanh và bắt tay thực hiện chiến dịch diệt chủng người Tutsi ở Rwanda, lúc đó vẫn còn khoảng một triệu người, mặc dù trước kia từng xảy ra hàng loạt vụ tàn sát khiến nhiều người Tutsi bị giết hay bỏ chạy ra nước ngoài.
Ban đầu, những sĩ quan cực đoan trong quân đội Hutu chỉ huy những vụ tàn sát và sử dụng súng để hạ sát người Tutsi. Nhưng ngay sau đó, họ quay sang đỡ đầu cho những tổ chức dân sự của người Hutu, phân phát vũ khí, thiết lập các chốt kiểm soát và giết ngay những người Tutsi mà họ bắt gặp tại các chốt đó. Đài phát thanh ra rả kêu gọi những người Hutu giết sạch “lũ gián” (như cách mà họ gọi người Tutsi), giả vờ kêu gọi người Tutsi tới lánh nạn tại những nơi được bảo vệ an toàn, nhưng ngay sau đó lại giết họ và tiến hành lùng bắt những người Tutsi còn sống sót. Khi quốc tế lên tiếng phản đối những vụ tàn sát cuối cùng đã lộ rõ bản chất, lúc đó chính phủ và đài phát thanh lại đổi giọng điệu tuyên truyền, từ hô hào cổ vũ giết sạch “lũ gián” chuyển qua thúc giục người Rwanda tự vệ và chống lại những kẻ thù chung của đất nước Rwanda. Những quan chức chính phủ Rwanda theo trường phái ôn hòa cố gắng ngăn chặn những vụ tàn sát, thì ngay lập tức bị đe dọa, cô lập, bị thay thế hay bị giết. Những vụ tàn sát lớn nhất, mỗi lần lên tới hàng trăm hoặc hàng ngàn người Tutsi ở cùng một địa điểm, diễn ra khi người Tutsi lánh nạn trong các nhà thờ, trường học, bệnh viện, trụ sở chính quyền hay những nơi được coi là an toàn và sau đó bị người Hutu bao vây và đột kích hay thiêu sống. Cuộc tàn sát có sự tham gia của các thường dân Hutu trên quy mô lớn, mặc dù hiện vẫn còn tranh cãi rằng liệu có tới 1/3 hay chỉ một tỷ lệ thấp hơn thường dân Hutu tham gia những vụ tàn sát người Tutsi. Sau những vụ tàn sát ban đầu bằng súng của quân đội, thường những vụ tiếp sau người Hutu chỉ sử dụng các loại vũ khí thô sơ, chủ yếu là mã tấu hay những chiếc gậy có đóng đinh. Nhiều vụ nạn nhân bị hành hình rất dã man, họ bị chặt tay, chặt chân, phụ nữ bị xẻo ngực, trẻ em bị ném xuống giếng và hãm hiếp diễn ra trên quy mô lớn.
Trong khi những cuộc tàn sát do chính quyền Hutu cực đoan tổ chức và chủ yếu do thường dân Hutu thực hiện, thì các tổ chức tôn giáo và thế giới bên ngoài những được mong chờ sẽ có những hành vi nhằm ngăn chặn cuộc tàn sát nhưng lại án binh bất động. Cụ thể, nhiều lãnh tụ của giáo hội Thiên Chúa Rwanda không những không bảo vệ được người Tutsi, còn chủ động tập trung họ lại, rồi giao họ cho những kẻ giết người. Liên Hợp Quốc đã có một lực lượng gìn giữ hòa bình nhỏ ở Rwanda nhưng lại nhận được lệnh rút lui; Chính phủ Pháp phái một lực lượng gìn giữ hòa bình, nhưng lại ủng hộ chính quyền diệt chủng Hutu và chống lại những kẻ nổi loạn xâm nhập vào Rwanda; và Mỹ thì từ chối can thiệp. Giải thích cho những chính sách này, Liên Hợp Quốc, Pháp và Mỹ đều viện cớ “hỗn loạn”, “một tình huống bối rối”, và “chỉ là cuộc xung đột giữa các bộ lạc”, cứ như đó chỉ là một cuộc xung đột giữa các bộ lạc thường diễn ra ở châu Phi, mà bỏ qua những bằng chứng rõ ràng về những cuộc tàn sát do chính quyền Rwanda tổ chức.
Chỉ trong sáu tuần diễn ra họa diệt chủng, khoảng 800.000 người Tutsi, chiếm 3/4 dân số Tutsi còn lại của Rwanda, hoặc 11% tổng dân số nước này, đã bị giết. Một đội quân của người Tutsi mang tên Mặt trận Yêu nước Rwanda (RPF) đã tiến hành các chiến dịch quân sự chống lại chính quyền ngay trong ngày đầu tiên diễn ra thảm họa diệt chủng. Mỗi khi quân đội của RPF tiến tới đâu thì ở đó chấm dứt họa diệt chủng, và RPF tuyên bố chiến thắng hoàn toàn vào ngày 18/7/1994. Nói chung, quân đội RPF là quân đội có kỷ luật và không tuyển mộ thường dân chỉ để giết người, nhưng nó cũng tiến hành những cuộc tàn sát trả đũa ở quy mô nhỏ hơn so với những cuộc tàn sát mà người Hutu tiến hành (số nạn nhân trong những cuộc tàn sát trả đũa “chỉ” 25.000 - 60.000 người). RPF lập ra một chính phủ mới, chú trọng hòa hợp dân tộc, thống nhất đất nước và thúc giục người dân Rwanda hãy coi mình là người Rwanda chứ không chỉ là người Hutu hay người Tutsi. Khoảng 135.000 người Rwanda bị giam giữ do nghi ngờ có liên quan tới họa diệt chủng, nhưng chỉ rất ít người được đưa ra xét xử hay kết án. Sau chiến thắng của RPF, khoảng hai triệu người (chỉ yếu là người Hutu) đã chạy sang tị nạn tại các nước láng giềng (nhất là Congo và Tanzania), trong khi khoảng 750.000 người lưu vong (chủ yếu là người Tutsi) từ các nước láng giềng trở về quê hương, nơi họ đã chạy trốn (Phụ bản ảnh 22).
Những mô tả về thảm họa diệt chủng ở Rwanda và Burundi khiến người đọc có cảm giác như đó là hậu quả của những hận thù sắc tộc đã tồn tại từ trước, nay bị các chính trị gia vô đạo đức xúi giục nhằm phục vụ mục đích riêng của họ. Như kết luận của cuốn sách mang tên Không để ai kể chuyện diệt chủng ở Rwanda, do Tổ chức Theo dõi Nhân quyền xuất bản: “Họa diệt chủng này không phải là cơn giận bùng phát không thể kiểm soát được của một dân tộc bị coi là ‘mang cừu hận sắc tộc từ lâu đời’…. Nó là hậu quả mà một nhóm người cầm quyền cố tình chọn lựa nuôi dưỡng hận thù và sợ hãi để củng cố quyền lực của họ. Nhóm đặc quyền nhỏ này điều khiển dân tộc đa số chống lại người thiểu số nhằm ngăn chặn phe đối lập chính trị đang ngày càng phát triển ở Rwanda. Sau này khi đối mặt với những thành công của RPF trên chiến trường cũng như trên bàn đàm phán, vài kẻ nắm quyền lực này đã biến bi kịch chia rẽ sắc tộc thành thảm họa diệt chủng. Họ tin rằng chiến dịch tàn sát sẽ giúp khôi phục sự đoàn kết của người Hutu dưới sự lãnh đạo của họ và giúp họ giành chiến thắng trong cuộc chiến…” Rất nhiều bằng chứng chứng minh nhận xét này là đúng và lý giải cho mức độ nghiêm trọng của tấn thảm kịch ở Rwanda.
Nhưng cũng có bằng chứng cho thấy còn có nhiều lý do khác góp phần gây nên họa diệt chủng này. Rwanda còn một nhóm dân tộc thứ ba thường được gọi là người Twa hay người Píchmy, chỉ chiếm khoảng 1% dân số, thấp nhất trong quy mô xã hội và hệ thống quyền lực, và không thể gây nguy hiểm cho bất kỳ ai - nhưng phần lớn dân tộc này cũng bị giết trong những cuộc tàn sát năm 1994. Họa diệt chủng bùng phát năm 1994 không chỉ là người Hutu chống lại người Tutsi, mà nó còn là sự ganh đua của các phe phái chính trị trên thực tế rất phức tạp: có ba phe phái kình địch chỉ gồm toàn người Hutu hoặc người Hutu chiếm đa số, có thể chính một trong ba phe phái này là thủ phạm giết Tổng thống người Hutu không cùng phe cánh và châm ngòi cho cuộc thảm sát; và những cuộc tấn công của quân đội lưu vong RPF, mặc dù do người Tutsi chỉ huy nhưng có cả những người Hutu tham gia. Sự khác biệt giữa người Hutu và người Tutsi không sâu sắc như thường được mô tả. Hai dân tộc cùng có chung một tiếng nói, cùng nhau sử dụng các nhà thờ, trường học và quán bar, cùng sống với nhau trong một ngôi làng, dưới sự lãnh đạo của một thủ lĩnh, cùng làm việc trong các văn phòng. Người Hutu và Tutsi còn kết hôn với nhau, và (trước khi người Bỉ áp dụng hình thức thẻ căn cước) đôi khi người dân của dân tộc này còn chuyển sang dân tộc kia. Mặc dù nói chung người Hutu và người Tutsi khác nhau về hình thức, nhưng có nhiều người Rwanda không thể phân biệt được thuộc dân tộc nào nếu chỉ dựa vào hình dáng bên ngoài. Khoảng 1/4 dân số Rwanda có ông bà là người Hutu và Tutsi. (Thực tế, một số người tỏ ý nghi ngờ liệu những truyền thuyết cho rằng người Hutu và người Tutsi có nguồn gốc khác nhau có đúng không, hay họ chỉ khác nhau về mặt kinh tế và xã hội ở Rwanda và Burundi nhưng lại có chung tổ tiên). Những mối liên hệ giữa hai dân tộc đã trở thành hàng chục ngàn tấn thảm kịch cho các gia đình trong những vụ tàn sát năm 1994, khi người Hutu cố bảo vệ những cô dâu, họ hàng, bạn bè, đồng nghiệp, người quen là người Tutsi hay hối lộ để những kẻ giết người tha chết cho những người này. Trong xã hội Rwanda, hai dân tộc này quan hệ khăng khít với nhau tới mức những cuộc thảm sát năm 1994 đã buộc các bác sĩ phải ra tay giết bệnh nhân của mình và ngược lại, các giáo sư phải giết sinh viên của mình và ngược lại, những người hàng xóm, đồng nghiệp giết lẫn nhau. Có những người Hutu phải giết một vài người Tutsi nhưng lại bảo vệ mạng sống của những người Tutsi khác. Chúng ta không thể không đặt câu hỏi: trong những tình huống như thế này, tại sao nhiều người Rwanda lại dễ dàng bị những lãnh đạo cực đoan kích động đánh giết lẫn nhau một cách vô cùng tàn bạo như vậy?
Nếu cho rằng thực tế những cuộc tàn sát ở Rwanda không phải là thảm họa diệt chủng mà chỉ là hận thù sắc tộc giữa người Hutu và người Tutsi, và bị các chính trị gia xúi giục, thì các sự kiện xảy ra ở Tây Bắc Rwanda là một điều cực kỳ khó hiểu. Tại đó, trong một cộng đồng toàn người Hutu và chỉ có đúng một người Tutsi, những cuộc tàn sát quy mô lớn vẫn diễn ra do chính người Hutu giết lẫn nhau. Mặc dù số người bị giết ở đây, ước tính “ít nhất khoảng 5% dân số trong vùng”, có thể thấp hơn tỷ lệ chung trên toàn Rwanda (11%), thì vẫn rất cần được lý giải tại sao một cộng đồng Hutu lại giết ít nhất 5% thành viên của mình mà không phải vì lý do sắc tộc. Ở một số vùng khác của Rwanda, khi xảy ra họa diệt chủng năm 1994 và nhiều người Tutsi đã bị giết, thì người Hutu lại quay ra tấn công lẫn nhau.
Tất cả những thực tế này lý giải vì sao chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu tìm hiểu ảnh hưởng của những yếu tố khác góp phần gây nên họa diệt chủng ngoài yếu tố hận thù sắc tộc.
Để bắt đầu cuộc nghiên cứu của chúng ta, một lần nữa hãy xem xét vấn đề mật độ dân số cao của Rwanda mà tôi đã đề cập ở phần trước. Từ thế kỷ XIX, Rwanda (và Burundi) đã trở thành những nước đông dân, trước khi người châu Âu đặt chân tới đây, bởi những lợi thế tự nhiên của cả hai nước như lượng mưa ôn hòa và vĩ độ quá cao nên ít xảy ra bệnh sốt rét và ít ruồi xê xê (một loài ruồi vùng nhiệt đới châu Phi mang và truyền bệnh, đặc biệt là gây ra chứng ngủ thiếp khi châm vào người và động vật). Từ khi người châu Âu xuất hiện, dân số Rwanda phát triển với tỷ lệ trung bình trên 3% mỗi năm, mặc dù có lúc cao lúc thấp, cùng chung những yếu tố thúc đẩy dân số phát triển với các nước láng giềng Kenya và Tanzania (như du nhập các loại hoa màu của Tân Thế giới, phát triển y tế cộng đồng, sự xuất hiện của dược phẩm và ổn định biên giới chính trị). Năm 1990, mặc dù đã xảy ra những vụ tàn sát và tị nạn trên quy mô lớn từ những thập kỷ trước, mật độ dân số trung bình của Rwanda vẫn là 760 người trên dặm vuông, cao hơn Anh (610 người) và gần bằng Hà Lan (950 người). Nhưng Anh và Hà Lan có nền nông nghiệp cơ khí hóa cao, hiệu quả cao nên chỉ một phần nhỏ dân số làm nông nghiệp cũng có thể sản xuất đủ lương thực cho tất cả mọi người, thậm chí vẫn còn dư để xuất khẩu. Nền nông nghiệp Rwanda kém hiệu quả hơn nhiều và mức độ cơ khí hóa thấp hơn; nông dân chủ yếu sử dụng những công cụ sản xuất thô sơ như cuốc, thuổng và dao và đa phần dân số là nông dân, nên họ chỉ sản xuất ra một chút lương thực dôi dư hoặc thậm chí không hề dôi dư để hỗ trợ những người khác.
Sau khi độc lập, dân số Rwanda tăng lên nhưng đất nước này vẫn áp dụng các biện pháp nông nghiệp truyền thống mà không tiến hành hiện đại hóa, du nhập nhiều hơn nữa những loại hoa màu có sản lượng cao, mở rộng xuất khẩu nông sản hay áp dụng các biện pháp kế hoạch hóa gia đình hiệu quả. Thay vào đó, để đối phó với tình trạng dân số tăng lên, người Rwanda chỉ biết phá rừng và thoát nước đầm lầy để lấy thêm đất canh tác, rút ngắn thời gian bỏ hoang đất và cố bòn rút trồng hai hay ba vụ màu trên một cánh đồng mỗi năm. Trong những năm 1960 và năm 1973, khi quá nhiều người Tutsi bỏ chạy sang các nước láng giềng hoặc bị giết, thì số đất trước kia của họ được phân chia lại càng khiến nông dân Hutu tin rằng cuối cùng giấc mơ của họ đã trở thành hiện thực, giờ đây họ đã có đủ đất trồng lương thực để đảm bảo cho bản thân và gia đình một cuộc sống sung túc. Năm 1985, tất cả đất có thể canh tác bên ngoài các công viên quốc gia đều được tận dụng để trồng trọt. Do cả dân số và sản lượng nông nghiệp đều tăng, nên sản lượng lương thực tính trên đầu người tăng trong giai đoạn từ năm 1966 đến 1981, nhưng sau đó giảm xuống bằng mức đầu những năm 1960. Đúng như vấn đề mà thuyết Malthus đề cập: nhiều lương thực hơn nhưng cũng nhiều người hơn, nên lượng lương thực tính trên đầu người không tăng.
Các bạn tôi, những người đã từng tới thăm Rwanda năm 1984, đều cảm thấy một thảm họa sinh thái đang diễn ra ở đây. Cả nước như một khu vườn khổng lồ và như một đồn điền trồng chuối. Những sườn đồi dốc đứng được trồng hoa màu lên tới tận đỉnh đồi. Thậm chí những biện pháp chống xói mòn sơ đẳng nhất cũng không được áp dụng như làm ruộng bậc thang, đánh luống đất vòng quanh đồi hơn là đánh luống thẳng từ dưới lên hoặc từ trên xuống, và để đất hoang được che phủ bằng thực vật chứ không để những cánh đồng trơ trụi trong giai đoạn chuyển vụ. Hậu quả là đất bị xói mòn rất mạnh, và các con sông chở nặng bùn. Một anh bạn người Rwanda đã viết cho tôi: “Nông dân thức dậy vào buổi sáng và thấy rằng toàn bộ cánh đồng của họ (hay ít nhất là đất mặt và hoa màu) đã bị cuốn sạch từ đêm qua, hay những cánh đồng và đất đá của hàng xóm bị cuốn trôi xuống lấp đầy cánh đồng của họ”. Phá rừng khiến những dòng suối trở nên cạn kiệt, và lượng mưa không ổn định. Cuối những năm 1980, nạn đói bắt đầu trở lại. Năm 1989, tình trạng thiếu lương thực càng trở nên trầm trọng bởi hạn hán, khí hậu toàn cầu và khí hậu trong vùng thay đổi kết hợp với ảnh hưởng từ việc phá rừng trong nước.
Hai nhà kinh tế học người Bỉ là Catherine André và Jean Philippe Platteau đã nghiên cứu chi tiết ảnh hưởng của tất cả những thay đổi dân số và môi trường diễn ra ở khu vực tây bắc Rwanda (xã Kanama), nơi chỉ có người Hutu sinh sống. André, là sinh viên của Platteau, đã sống ở đây tổng cộng 16 tháng trong hai lần tới đây vào năm 1988 và 1993, khi đó tình hình cũng đang xấu đi và ngay trước thời điểm bùng nổ họa diệt chủng. Cô đã phỏng vấn thành viên của hầu hết các gia đình trong xã. Mỗi gia đình được phỏng vấn hai lần trong hai năm nghiên cứu, cô xác định số thành viên của mỗi gia đình, diện tích đất mà họ sở hữu, và thu nhập của mỗi thành viên từ nghề phụ ngoài nông nghiệp. Cô cũng lập bảng thống kê việc mua bán, chuyển nhượng đất và những tranh chấp cần hòa giải. Sau họa diệt chủng năm 1994, khi cố tìm tin tức của những người sống sót, cô phát hiện ra chính những người Hutu đã giết lẫn nhau. Sau đó André và Platteau cùng nhau xử lý hàng loạt dữ liệu này để tìm ra ý nghĩa của chúng.
Kanama là vùng đất núi lửa rất màu mỡ, do vậy mật độ dân số ở đây rất cao, thậm chí cao hơn so với tiêu chuẩn mật độ dân số của Rwanda: 1.740 người trên mỗi dặm vuông vào năm 1988, tăng lên 2.040 người vào năm 1993. (Mật độ này thậm chí còn cao hơn cả Bangladesh, nước nông nghiệp có mật độ dân số cao nhất thế giới). Mật độ dân số cao như vậy có nghĩa là đất canh tác rất hạn hẹp: một trang trại trung bình chỉ rộng 0,89 mẫu (0,36 hecta) vào năm 1988, giảm xuống còn 0,72 mẫu (0,29 hecta) vào năm 1993. Mỗi trang trại (trung bình) được chia thành mười mảnh đất nhỏ, như vậy các nông dân chỉ được cày cấy trên những mảnh đất rộng trung bình 0,09 mẫu (364 mét) vào năm 1988 và 0,07 mẫu (283 mét) vào năm 1993.
Bởi tất cả đất trong xã đều được sử dụng, nên những thanh niên rất khó kết hôn, tách khỏi gia đình và kiếm một mảnh đất canh tác để tạo lập gia đình riêng của mình. Do vậy, ngày càng nhiều thanh niên hoãn kết hôn và tiếp tục sống cùng cha mẹ. Ví dụ, trong độ tuổi từ 20 - 25, tỷ lệ nữ thanh niên sống cùng cha mẹ tăng từ 39% tới 67%, tương ứng trong hai năm 1988 và 1993, và số nam thanh niên tăng từ 71% lên 100%: có nghĩa không một nam thanh niên nào trong độ tuổi đầu 20 sống độc lập với gia đình trong năm 1993. Điều này lại càng khiến tình hình mỗi gia đình thêm căng thẳng và bùng nổ vào năm 1994 như tôi sẽ trình bày dưới đây. Do số người trẻ ở nhà càng đông, nên số người trung bình của mỗi trang trại gia đình tăng (giữa năm 1988 và 1993) từ 4,9 lên 5,3 khiến tình trạng thiếu đất càng trầm trọng hơn, thể hiện qua quy mô của trang trại giảm từ 0,89 mẫu (0,36 hecta) xuống 0,72 mẫu (0,29 hecta). Khi diện tích đất canh tác giảm do số người trong mỗi gia đình tăng lên, thì diện tích đất canh tác trung bình của mỗi người cũng giảm từ 1/5 mẫu năm 1988 xuống còn 1/7 mẫu vào năm 1993.
Không có gì đáng ngạc nhiên khi với mảnh đất bé như vậy thì đa phần dân cư ở Kanama khó có thể làm ra đủ lương thực cho bản thân. Thậm chí khi so với hàm lượng calo thấp được coi là thích hợp ở Rwanda, thì trung bình mỗi gia đình chỉ cung cấp được 77% lượng calo cần thiết từ mảnh đất canh tác của mình. Phần lương thực còn thiếu phải mua bằng khoản thu nhập kiếm được từ những nghề phụ ngoài nông nghiệp, như làm thợ mộc, đóng gạch, xẻ gỗ và buôn bán. 2/3 số hộ gia đình có thêm những nghề phụ này, trong khi 1/3 số hộ không có nghề phụ. Tỷ lệ dân số tiêu thụ chưa tới 1.600 calo mỗi ngày (được coi là dưới mức đói) là 9% trong năm 1982, tăng lên 40% năm 1990 và sau đó còn tiếp tục tăng tới một tỷ lệ không xác định.
Tất cả những số liệu về Kanama là số liệu trung bình, nên không thể hiện sự chênh lệch trên thực tế. Có những người sở hữu những khu đất canh tác rộng hơn người khác, và sự chênh lệch này tăng trong hai năm 1988 và 1993. Xin hiểu rằng một khu đất canh tác “rất rộng” có nghĩa là rộng hơn 2,5 mẫu (1,01 hecta), và một khu đất canh tác “rất nhỏ” có nghĩa là nhỏ hơn 0,6 mẫu (0,24 hecta). (Hãy nhớ lại Chương 1 để thấy sự vô lý bi thảm của những con số này: ở đó tôi đã đề cập rằng ở Montana, một trang trại rộng 40 mẫu “16,1 hecta” mới đủ để nuôi sống một gia đình, nhưng hiện mức này vẫn bị coi là chưa đủ). Cả tỷ lệ các khu đất canh tác rất lớn và rất nhỏ đều tăng trong hai năm 1988 và 1993, từ 5% tới 8% và từ 36% lên 45% tương ứng. Có nghĩa là, xã hội nông nghiệp tại Kanama đã ngày càng bị phân chia sâu sắc giữa người giàu và người nghèo, giảm số người trung lưu. Gia đình nào người chủ càng già thì càng giàu và có nhiều đất canh tác hơn, đó là những người trong độ tuổi từ 50 - 59 trung bình có diện tích đất canh tác rộng 2,05 mẫu (0,82 hecta) và những người trong độ tuổi từ 20 - 29 thì có diện tích đất canh tác 0,37 mẫu (0,15 hecta). Tất nhiên số thành viên trong gia đình của những người nhiều tuổi hơn cũng đông hơn nên họ cần nhiều đất canh tác hơn, nhưng tỷ lệ đất trên đầu mỗi thành viên trong gia đình của họ vẫn cao gấp ba lần so với những gia đình trẻ.
Có một nghịch lý là thu nhập ngoài nông nghiệp lại chủ yếu thuộc về chủ các khu đất canh tác lớn: những khu đất canh tác lớn có thu nhập ngoài nông nghiệp trung bình rộng 1,3 mẫu (0,5 hecta), trong khi đó chủ những khu đất rộng chỉ nửa mẫu (0,2 hecta) lại chẳng kiếm được thu nhập này. Đó là một nghịch lý, bởi những khu đất canh tác nhỏ hơn thường có ít đất canh tác chia cho các thành viên trong gia đình để tự nuôi sống mình, nên họ cần phải có thêm những khoản thu nhập ngoài nông nghiệp. Thu nhập ngoài nông nghiệp tập trung vào các khu đất canh tác lớn càng khiến xã hội Kanama bị phân chia sâu sắc thành giàu và nghèo, người giàu càng giàu hơn và người nghèo càng nghèo đi. Pháp luật Rwanda cấm các khu đất canh tác nhỏ được phép bán đất, nhưng trên thực tế thì họ vẫn cứ bán. Điều tra về việc bán đất cho thấy chủ những khu đất canh tác nhỏ nhất đã bán đất, chủ yếu là khi họ cần tiền trong những trường hợp khẩn cấp để mua lương thực, chi tiêu lúc đau ốm, theo đuổi kiện tụng, hối lộ, làm lễ rửa tội, tổ chức đám ma, đám cưới, hay chỉ để uống rượu. Ngược lại, chủ các khu đất canh tác lớn hơn chỉ bán đất vì những lý do như để tăng hiệu quả của khu đất canh tác (ví dụ như bán những mảnh đất ở xa để mua những mảnh gần nhà hơn).
Những khoản thu nhập ngoài nông nghiệp của chủ các khu đất canh tác lớn cho phép họ mua lại đất từ những khu đất canh tác nhỏ hơn, kết quả là những khu đất canh tác lớn mua thêm đất nên ngày càng lớn hơn, trong khi những khu đất canh tác đã nhỏ nay bán bớt đất nên ngày càng nhỏ hơn. Hầu như không có khu đất lớn nào bán đất mà lại không mua thêm đất, nhưng khoảng 35% số khu đất nhỏ nhất năm 1988 và 49% số họ năm 1993 bán đất mà không thể mua lại được; nhưng chỉ 13% gia đình không có thu nhập thêm mua được đất, và 65% số họ bán đất mà không mua lại được. Một lần nữa, hãy để ý nghịch lý: những khu đất đã nhỏ, đang rất cần thêm đất, thực tế lại càng nhỏ đi do bán đất trong những trường hợp khẩn cấp cho những khu đất lớn có thể mua đất bằng những khoản thu nhập thêm ngoài nông nghiệp. Hãy nhắc lại rằng tôi gọi “khu đất lớn” là theo tiêu chuẩn của Rwanda, “lớn” ở đây có nghĩa là “chỉ lớn hơn một đến hai mẫu”.
Bởi vậy, phần lớn dân số Kanama đã bị bần cùng hóa, đói ăn và tuyệt vọng, nhưng một số người còn bị bần cùng hóa, đói ăn và tuyệt vọng hơn những người khác, và đa số đã trở nên rất tuyệt vọng, chỉ có ít người mức độ tuyệt vọng thấp hơn. Bởi vậy không có gì đáng ngạc nhiên khi tình trạng này khiến những cuộc xung đột xảy ra liên miên mà các bên liên quan không thể tự giải quyết, nên họ hoặc buộc phải nhờ những người trung gian chuyên hòa giải những xung đột truyền thống của nông dân hoặc (trường hợp này thì ít gặp hơn) đưa ra tòa án. Hằng năm, trung bình mỗi gia đình đều có ít nhất hai vụ xung đột nghiêm trọng cần có sự can thiệp từ bên ngoài. André và Platteau đã tiến hành khảo sát nguyên nhân của 226 vụ xung đột kiểu này, theo lời kể của các gia đình hoặc những người hòa giải. Theo đó, tranh chấp đất đai là gốc rễ của phần lớn các tranh chấp nghiêm trọng: hoặc xung đột trực tiếp về đất đai (43% số vụ xung đột); hoặc tranh chấp giữa vợ/chồng, gia đình hay các thành viên trong gia đình, thường cũng xuất phát từ tranh chấp đất đai (tôi sẽ trình bày những ví dụ trong hai phần tới); hoặc tranh chấp liên quan tới những vụ trộm mà thủ phạm là những người cùng khổ, người bản xứ thường gọi là “những tên trộm đói”, những người này hầu như không có đất đai, không có bất kỳ khoản thu nhập nào và chỉ còn cách sống bằng trộm cắp (chiếm tới 7% số vụ tranh chấp và 10% các gia đình).
Những tranh chấp đất đai này hủy hoại tình cảm gắn bó giữa con người với nhau được hình thành từ lâu nay trong xã hội Rwanda. Từ xa xưa, những chủ đất giàu có vẫn giúp đỡ những người họ hàng nghèo khổ. Nhưng hệ thống này đã bị phá vỡ, bởi cho dù chủ đất này có giàu có hơn chủ đất khác thì vẫn quá nghèo để có thể nhường cơm sẻ áo cho những người họ hàng nghèo hơn. Mất đi sự giúp đỡ này, một số nhóm người trong xã hội rất dễ trở thành vật hy sinh, đó là những phụ nữ ly thân, ly hôn hoặc góa bụa, trẻ mồ côi và anh em ruột cùng cha khác mẹ hoặc ngược lại. Khi những ông chồng cũ chấm dứt chu cấp cho những bà vợ đã ly thân hoặc ly hôn, thì những phụ nữ bất hạnh đó buộc phải trở về căn nhà nơi họ đã ra đi để nhờ cậy, nhưng lúc đó anh em trai của họ không đồng ý, bởi như vậy sẽ thêm gánh nặng cho gia đình họ, khiến họ cùng con cái càng nghèo khổ hơn. Lúc này, những người phụ nữ chỉ có thể được về nhà khi mang theo con gái bởi theo phong tục Rwanda, con trai là người được thừa kế, và những anh em trai của người phụ nữ đó sẽ không coi đứa con gái là kẻ cạnh tranh quyền thừa kế với con cái họ. Người phụ nữ bất hạnh sẽ buộc phải để lại đứa con trai cho cha nó (người chồng đã ly dị), nhưng họ hàng của anh ta có thể sẽ từ chối chia đất cho con trai cô, nhất là nếu cha nó đã chết hoặc không bảo vệ mẹ con họ. Tương tự, một phụ nữ góa cũng khó nhận được giúp đỡ từ phía gia đình chồng (anh em trai nhà chồng) hoặc từ chính những anh em trai của mình, bởi họ coi những đứa con của cô là những kẻ cạnh tranh đất đai với con cái họ. Những đứa trẻ mồ côi thông thường được ông bà nội nuôi nấng; nhưng khi ông bà qua đời, các chú bác của đứa trẻ mồ côi (anh em với người bố xấu số của nó) sẽ tìm cách truất quyền thừa kế của chúng hoặc đuổi chúng ra khỏi nhà. Trẻ em trong những cuộc hôn nhân đa thê, hay những cuộc hôn nhân đổ vỡ mà sau đó người đàn ông lại tái hôn và có con với người vợ mới, thường cũng bị truất quyền thừa kế hay bị các anh em trai cùng cha khác mẹ đuổi ra khỏi nhà.
Những tranh chấp đất đai đau lòng nhất và gây rối loạn xã hội nhất là những tranh chấp giữa cha và con trai. Theo truyền thống, khi người cha mất đi, tất cả đất đai của ông ta được di chúc cho con trai cả, người sẽ quản lý đất đai của cả gia đình và chia cho những em trai số đất đủ để họ sinh sống. Khi đất ngày càng trở nên quý giá, những người cha dần dần chuyển sang chia đất cho tất cả các con trai, để giảm nguy cơ xung đột giữa các thành viên trong gia đình sau khi ông mất đi. Nhưng ai cũng đòi được chia phần đất rộng hơn. Những người trẻ hơn thì phản ứng quyết liệt nếu những anh trai xây dựng gia đình trước, nhận được phần đất lớn hơn, bởi khi những người con trai kế tiếp lập gia đình thì người cha đã bán bớt một phần đất nên phần chia cho họ bao giờ cũng nhỏ hơn. Họ liền đòi chia đất bằng những phần bằng nhau, họ phản đối chuyện người cha tặng đất khi người anh trai cưới vợ. Cậu con út, theo phong tục sẽ là người chăm sóc cha mẹ khi về già, cần hay đòi thêm một mảnh đất để thực hiện các nghĩa vụ với tổ tiên. Các anh em trai tìm cách đuổi các chị em gái hay các em trai của mình ra khỏi nhà do nghi ngờ họ đã nhận được đất mà cha tặng, những người này buộc phải cam kết chấp nhận nghĩa vụ chăm sóc cha mẹ khi họ già thì mới được quay trở lại nhà. Những người con trai còn ganh tị rằng cha giữ lại quá nhiều đất để an hưởng tuổi già, nên họ đòi ông phải chia thêm cho họ. Tới lượt những người cha cũng sợ rằng họ sẽ bị con cái bỏ rơi khi về già trong khi còn quá ít đất để sinh sống, nên không chấp nhận đề nghị của các con trai. Tất cả những hình thức xung đột này chỉ được giải quyết bằng hòa giải hoặc đưa nhau ra tòa, với việc những người cha kiện các con trai và ngược lại, các chị em gái kiện các anh em trai, những người cháu kiện những ông chú, và vân vân. Những xung đột này làm băng hoại tình cảm gia đình, biến những người họ hàng gần trở thành những kẻ cạnh tranh và những kẻ thù nguy hiểm.
Tình trạng xung đột leo thang và kéo dài tạo cơ sở để những cuộc tàn sát năm 1994 diễn ra. Thậm chí trước năm 1994, Rwanda cũng đã rơi vào tình trạng bạo lực và những vụ trộm cướp tăng mạnh, thủ phạm chủ yếu là những thanh niên nghèo đói, vô gia cư, không có khoản thu nhập nào ngoài nông nghiệp. Khi so sánh tỷ lệ tội phạm trong lứa tuổi từ 21-25 giữa những vùng khác nhau của Rwanda, đa số những chênh lệch giữa các vùng, về mặt thống kê, đều có liên quan tới mật độ dân số và lượng calo tính trên đầu người, đó là: mật độ dân cư đông đúc và tình trạng thiếu ăn nghiêm trọng khiến tỷ lệ tội phạm tăng cao.
Sau khi xảy ra họa diệt chủng năm 1994, André cố tìm hiểu số phận của những cư dân Kanama. Cô được thông báo rằng 5,4% dân cư Kanama đã chết trong các cuộc chiến. Chắc chắn đây là con số không đầy đủ, bởi cô không thể tìm được tin tức về số phận của một số người dân Kanama. Do vậy, không rõ liệu số người chết có lên đến 11% như tỷ lệ trung bình của toàn Rwanda hay không. Nhưng có một điều rõ ràng là tỷ lệ chết trong một khu vực có số dân hầu như toàn là người Hutu ít nhất cũng bằng một nửa tỷ lệ chết tại các khu vực nơi người Hutu giết cả người Tutsi và những người Hutu khác.
Hầu như tất cả các nạn nhân được xác định ở Kanama đều rơi vào một trong sáu nhóm sau. Thứ nhất, người Tutsi duy nhất ở Kanama là một phụ nữ góa đã bị giết. Mặc dù nhiều hành vi đối xử với bà do là người Tutsi hiện vẫn chưa rõ ràng, bởi bà có nhiều điều khiến không ít người muốn giết bà. Bà được thừa hưởng nhiều đất đai, bà có liên quan tới nhiều vụ tranh chấp đất đai, là vợ góa của một người đàn ông Hutu đa thê (bởi vậy được coi là kẻ cạnh tranh thừa kế với những bà vợ khác và cả các gia đình của họ), và người chồng quá cố của bà từng bị các anh em cùng cha khác mẹ buộc phải rời khỏi mảnh đất của ông.
Hai nhóm nạn nhân khác là những người Hutu chủ những khu đất canh tác lớn. Đa phần họ là những người đàn ông ngoài 50 tuổi, độ tuổi thường xuyên xung đột với các con trai về đất đai. Một số ít là những người trẻ hơn bị những người khác ghen ghét vì có nhiều khoản thu nhập ngoài nông nghiệp và sử dụng để mua đất.
Nhóm nạn nhân thứ ba là “những kẻ gây rắc rối” thường có liên quan tới tất cả các loại tranh chấp đất đai và những cuộc xung đột khác.
Vẫn còn một nhóm nạn nhân khác là những nam thanh niên và trẻ em, nhất là những thanh niên có cuộc sống bị bần cùng hóa, do tuyệt vọng nên sẵn sàng gia nhập những nhóm vũ trang và chém giết lẫn nhau. Số nạn nhân này có nhiều khả năng bị che giấu, bởi rất nguy hiểm cho André nếu hỏi quá nhiều về những người từng tham gia các nhóm vũ trang.
Cuối cùng, nhóm nạn nhân lớn nhất là những người bị bần cùng hóa đặc biệt, hoặc những người cực kỳ nghèo tới mức có rất ít hoặc thậm chí không có chút đất nào và cũng không có nguồn thu nhập nào. Rõ ràng họ đã chết vì đói, quá yếu hay vì không có tiền để mua thực phẩm hay để hối lộ để được sống khi bị bắt ở những trạm kiểm soát trên đường phố.
Bởi vậy, như André và Platteau viết: “Những sự kiện năm 1994 chính là cơ hội duy nhất để xóa những khoản nợ, hay để phân chia lại tài sản đất đai, thậm chí giữa những dân làng Hutu… Thậm chí hiện nay nhiều người Rwanda vẫn cho rằng cuộc chiến là sự cần thiết để quét sạch số dân dư thừa, để đưa dân số trở lại mức thích hợp với tài nguyên đất đai hiện có”.
Nhận xét trên của chính những người Rwanda về họa diệt chủng khiến tôi kinh ngạc. Trước đây tôi nghĩ rằng sẽ là bất thường nếu công nhận có sự liên hệ trực tiếp giữa áp lực dân số và những vụ tàn sát. Tôi đã quen với ý nghĩ về áp lực dân số, những tác động tới môi trường của con người và hạn hán là nguyên nhân duy nhất khiến con người tuyệt vọng kéo dài và lúc nào cũng như một thùng thuốc súng. Nhưng cũng cần một nguyên nhân gần nhất, đóng vai trò như một que diêm châm lửa vào thùng thuốc súng. Trên hầu hết lãnh thổ Rwanda, que diêm đó chính là lòng hận thù sắc tộc bị các chính trị gia bất nhẫn xúi giục thêm do muốn tiếp tục duy trì quyền lực. (Tôi nói “hầu hết lãnh thổ”, bởi những vụ tàn sát người Hutu trên quy mô lớn do chính người Hutu tại Kanama thực hiện chứng tỏ tàn sát vẫn có thể diễn ra ở nơi tất cả cư dân đều chung một sắc tộc). Như Gérard Prunier, một học giả người Pháp chuyên nghiên cứu về Đông Phi, nhận xét: “Quyết định diệt chủng tất nhiên do các chính trị gia đưa ra vì những lý do chính trị. Nhưng ít nhất có một phần lý do giải thích tại sao nó lại được chính những nông dân bình thường tiến hành triệt để tới vậy, ngay trong chính dòng họ của mình có lẽ bởi có quá nhiều người phải sinh sống trên những mảnh đất quá bé nhỏ, và rằng khi dân số giảm đi, thì sẽ có nhiều đất cho những người sống sót”.
Mối liên hệ mà Prunier, và cả André và Platteau, nhận ra đằng sau áp lực dân số và họa diệt chủng người Rwanda không phải là không bị phản đối. Một phần, những phản đối là phản ứng trước những tuyên bố quá giản đơn của những người theo “thuyết sinh thái quyết định”. Ví dụ, chỉ 10 ngày sau khi họa diệt chủng bắt đầu, một bài báo đăng trên một tờ báo của Mỹ cho rằng diệt chủng là do dân số Rwanda quá đông, khi viết: “Những trường hợp như Rwanda [với những họa diệt chủng tương tự] là căn bệnh kinh niên bám chặt vào thế giới chúng ta đang sống”. Tất nhiên, kết luận quá đơn giản và mang đầy tính định mệnh đó gây ra những phản ứng tiêu cực không chỉ đối với bản thân kết luận đó, mà còn với cả quan điểm tiên tiến hơn mà Prunier, André và Platteau, và cả tôi đã đưa ra, vì ba lý do.
Thứ nhất, bất kỳ “lý giải” nào về nguyên nhân gây ra một thảm họa diệt chủng có thể bị hiểu nhầm là “bao biện” cho nó. Tuy nhiên, bất kể chúng ta có đi đến lý giải chỉ bằng một yếu tố quá đơn giản hay một lý giải quá phức tạp có tới 73 yếu tố cho một cuộc diệt chủng thì cũng không làm thay đổi trách nhiệm cá nhân của những kẻ chủ mưu gây ra họa diệt chủng ở Rwanda, như những kẻ phạm tội khác, đối với những hành động của họ. Đây là một điều hiểu lầm thường xuất hiện trong các cuộc thảo luận về nguồn gốc của tội lỗi: mọi người phản ứng trước bất kỳ lý giải nào, bởi họ nhầm lẫn giữa những lý giải với những lời biện hộ. Nhưng điều quan trọng là chúng ta phải hiểu nguồn gốc của họa diệt chủng người Rwanda - không phải vì thế chúng ta có thể tha thứ cho những kẻ sát nhân, nhưng khi đã hiểu thì chúng ta có thể sử dụng kiến thức đó để làm giảm nguy cơ tái diễn họa diệt chủng ở Rwanda hay ở những nơi khác trên thế giới. Có những người đã nguyện dành cả cuộc đời và sự nghiệp của mình để tìm hiểu nguồn gốc của nạn diệt chủng người Do Thái của Phát xít Đức (Holocaust), hay để tìm hiểu tâm lý của những kẻ hiếp dâm và giết người hàng loạt. Họ quyết tâm theo đuổi vấn đề này không phải để bào chữa, giảm nhẹ trách nhiệm cho Hitler hay những kẻ hiếp dâm và giết người hàng loạt mà họ muốn biết những tội ác đó đã hình thành như thế nào, và làm thế nào để có thể ngăn chặn tái diễn một cách hiệu quả nhất.
Thứ hai, hoàn toàn hợp lý khi phản đối quan điểm đơn giản rằng áp lực dân số là nguyên nhân duy nhất gây ra họa diệt chủng ở Rwanda. Nó còn có ảnh hưởng từ nhiều yếu tố khác; trong chương này tôi đã giới thiệu những yếu tố theo tôi là quan trọng, và những chuyên gia về Rwanda đã viết nhiều cuốn sách và bài báo về vấn đề này. Tôi xin nhắc lại rằng: bất kể các yếu tố đó quan trọng như thế nào, thì đó là những yếu tố đó chính là việc người Tutsi cai trị người Hutu trong suốt lịch sử Rwanda, những vụ tàn sát quy mô lớn của người Tutsi nhằm vào người Hutu ở Burundi và những vụ quy mô nhỏ hơn ở Rwanda, những cuộc xâm lược Rwanda của người Tutsi lưu vong, khủng hoảng kinh tế của Rwanda và càng trầm trọng hơn bởi hạn hán và những yếu tố khác trên thế giới (nhất là giá cà phê hạ và việc Ngân hàng Thế giới áp dụng những biện pháp cứng rắn), hàng trăm ngàn thanh niên trẻ, vô vọng của Rwanda bị dồn vào các trại tập trung, khiến họ dễ dàng gia nhập các nhóm vũ trang, và sự tranh giành quyền lực giữa các phe phái chính trị ở Rwanda, sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn để duy trì quyền lực. Áp lực dân số đã kết hợp với tất cả những yếu tố này tạo nên họa diệt chủng ở Rwanda.
Cuối cùng, không nên hiểu sai vai trò của áp lực dân số trong những nguyên nhân gây ra thảm họa diệt chủng ở Rwanda rằng áp lực dân số sẽ tự động dẫn tới họa diệt chủng ở bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Với những người sẽ phản đối rằng không có sự liên hệ cần thiết giữa áp lực dân số theo thuyết Malthus và diệt chủng, tôi sẽ trả lời rằng, “Đúng như vậy!”. Các nước có thể lâm vào tình trạng quá đông dân nhưng không bị suy thoái thành họa diệt chủng, ví dụ như ở Bangladesh (hầu như không hề xảy ra những vụ tàn sát quy