← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 13 “KHAI THÁC” AUSTRALIA

Tầm quan trọng của Australia - Đất Nước - Khoảng cách - Lịch sử hình thành Australia - Những giá trị nhập khẩu - Thương mại và nhập cư - Suy thoái đất - Những vấn đề môi trường khác - Những tín hiệu của hy vọng và thay đổi.

Khai thác theo nghĩa đen - như khai thác than, sắt, v.v. - là một ngành kinh tế mũi nhọn trong nền kinh tế hiện nay của Australia, nó mang lại doanh thu lớn nhất từ xuất khẩu. Tuy nhiên, theo nghĩa bóng khai thác cũng là một yếu tố quan trọng trong lịch sử môi trường của Australia và trong tình thế khó khăn hiện nay. Đó là bởi bản chất của khai thác là khai thác những nguồn tài nguyên thiên nhiên không thể tự tái sinh theo thời gian, nên khiến chúng bị cạn kiệt. Vàng trong lòng đất không thể sinh thêm vàng, nên con người không cần để tâm tới tỷ lệ tái sinh của vàng và thợ mỏ cứ khai thác vàng từ một mạch vàng với tốc độ nhanh như nghiên cứu khả thi kinh tế đã tính, cho tới khi mạch vàng đó bị cạn kiệt. Bởi vậy khai thác khoáng sản trái ngược với khai thác những nguồn tài nguyên có thể tái sinh - như lâm nghiệp, thủy sản và đất mặt - bằng sinh sản sinh học hay qua quá trình hình thành đất. Những tài nguyên có thể tái sinh có thể được khai thác vô hạn với điều kiện tốc độ khai thác chúng phải chậm hơn tốc độ tái sinh. Tuy nhiên, nếu khai thác lâm nghiệp, thủy sản và đất mặt với tốc độ nhanh hơn tốc độ tái sinh, hiển nhiên chúng cũng sẽ bị cạn kiệt tới mức biến mất, giống như vàng của một mỏ vàng.

Australia đã và đang tiếp tục “khai thác” những nguồn tài nguyên tái sinh của mình như cách họ đã khai thác khoáng sản. Đó là, chúng bị khai thác quá mức với tốc độ nhanh hơn tốc độ tái sinh, hậu quả là những nguồn tài nguyên này đang dần suy giảm. Với tốc độ hiện tại, lâm nghiệp và thủy sản của Australia sẽ biến mất trước các khoáng sản than và sắt từ rất lâu, nhưng trớ trêu thay lâm nghiệp và thủy sản lại là những nguồn tài nguyên tái sinh, còn than và sắt thì không thể tái sinh.

Mặc dù ngoài Australia cũng còn nhiều nước khác hiện đang khai thác môi trường của mình, nhưng Australia đặc biệt thích hợp để được chọn là trường hợp cuối cùng nghiên cứu về các xã hội trước đây và hiện nay vì một số lý do. Thứ nhất, đây là một nước thuộc Thế giới thứ nhất, không như Rwanda, Haiti, Cộng hòa Dominica hay Trung Quốc, nhưng lại giống những nước mà phần lớn những độc giả của cuốn sách này đang sống. Trong những nước Thế giới thứ nhất, thì dân số và nền kinh tế của Australia nhỏ hơn và ít phức tạp hơn nhiều so với Mỹ, châu Âu hay Nhật Bản, bởi vậy tình trạng của Australia dễ hiểu hơn. Về mặt sinh thái, môi trường Australia cực kỳ dễ bị tổn hại, và dễ tổn hại nhất trong số các nước Thế giới thứ nhất, có lẽ trừ Iceland. Bởi vậy, ở đây tồn tại nhiều vấn đề hiển nhiên cũng có thể gây ảnh hưởng tới những nước Thế giới thứ nhất khác và hiện đang hoành hành ở một số nước thuộc Thế giới thứ ba - như tình trạng chăn thả gia súc quá mức, muối hóa, xói mòn đất, sinh vật ngoại lai, thiếu nước và hạn hán do con người gây ra - và những vấn đề này đã trở nên rất nghiêm trọng ở Australia. Mặc dù Australia không có những dấu hiệu đang sụp đổ như Rwanda hay Haiti, nhưng nó cho chúng ta thấy trước những vấn đề thực tế có thể xuất hiện ở bất cứ đâu trong Thế giới thứ nhất nếu những xu hướng hiện nay vẫn tiếp tục phát triển. Nhưng cách giải quyết những vấn đề này của Australia hiện nay khiến tôi tin tưởng vào triển vọng của đất nước này, bởi Australia có dân số có trình độ giáo dục cao, tiêu chuẩn sống cao với những thể chế kinh tế và chính trị tương đối minh bạch theo tiêu chuẩn thế giới. Bởi vậy các vấn đề môi trường của Australia không thể bị coi là sản phẩm của trình độ quản lý sinh thái yếu kém của một dân tộc nghèo đói, tuyệt vọng, không có học thức, cùng một chính phủ và các doanh nghiệp tham nhũng nghiêm trọng, như những lý do thường được viện dẫn để bao biện cho những vấn đề môi trường ở một số nước khác.

Thêm một ưu điểm khác của Australia để trở thành đề tài của chương này là nó minh họa rõ ràng năm yếu tố rất hữu ích có ảnh hưởng lẫn nhau mà tôi thường xuyên đề cập trong cuốn sách này để tìm hiểu khả năng suy thoái sinh thái hay sụp đổ của các xã hội. Con người rõ ràng có những tác động lớn đối với môi trường Australia. Ngày nay, tình trạng thay đổi khí hậu càng khiến những tác động này thêm trầm trọng. Quan hệ hữu nghị của Australia với Anh như một đối tác thương mại và một hình mẫu xã hội cũng có ảnh hưởng tới các chính sách dân số và môi trường của Australia. Mặc dù Australia hiện đại không bị xâm lược bởi ngoại xâm - có bị đánh bom nhưng không bị xâm lược - nhưng nhận thức của người Australia về những kẻ thù nước ngoài hiện tại và tương lai cũng định hướng cho những chính sách dân số và môi trường của Australia. Australia cũng thể hiện tầm quan trọng của những giá trị văn hóa trong việc tìm hiểu những tác động môi trường, trong đó có một số giá trị văn hóa nhập khẩu có thể bị coi là không thích hợp với khung cảnh Australia. Có lẽ hơn bất kỳ một nước Thế giới thứ nhất nào mà tôi biết, người Australia đang bắt đầu suy xét một cách nghiêm túc về vấn đề trọng tâm là: Những giá trị truyền thống cốt lõi nào nên duy trì, và những giá trị nào không còn thích hợp trong thế giới hiện nay?

Lý do cuối cùng để tôi chọn Australia làm chủ đề cho chương này bởi đó là một đất nước mà tôi yêu quý và thân thuộc, và những gì tôi viết là từ những hiểu biết trực tiếp và bằng tình cảm của mình. Lần đầu tiên tôi tới Australia vào năm 1964, trên đường tới New Guinea. Từ đó tôi đã trở lại nơi đây hàng chục lần, kể cả thời gian làm nghiên cứu ở Trường Đại học Quốc gia Australia, tại thủ đô Canberra của Australia. Thời gian đó tôi đã gắn bó và bị ấn tượng sâu sắc bởi những cánh rừng bạch đàn tươi đẹp của Australia, hiện cảm giác yên bình và kỳ diệu vẫn còn tràn ngập trong tôi giống như cảm giác ở hai vùng thiên nhiên tuyệt diệu khác trên thế giới là rừng tùng Montana và rừng nhiệt đới New Guinea. Australia và Anh là hai nước mà tôi từng suy nghĩ nghiêm túc về chuyện di cư sang đó. Bởi vậy, sau khi mở đầu hàng loạt trường hợp nghiên cứu trong cuốn sách này bằng chương viết về môi trường Montana mà tôi yêu quý từ khi còn bé, tôi muốn kết thúc bằng một trường hợp mà tôi cũng yêu mến khi tôi đã trưởng thành, đó là đất nước Australia.

Để tìm hiểu những tác động của con người hiện đại tới môi trường Australia, chúng ta sẽ nghiên cứu ba đặc trưng môi trường đặc biệt quan trọng là: đất của Australia, nhất là độ phì nhiêu và hàm lượng muối; lượng nước ngọt sẵn có; và khoảng cách, cả trong lãnh thổ Australia và giữa Australia với các đối tác thương mại và những kẻ thù tiềm năng ở nước ngoài.

Khi đề cập tới các vấn đề môi trường của Australia, chắc hẳn mọi người nghĩ ngay tới tình trạng khan hiếm nước và các sa mạc. Thực tế, đất đai Australia còn gây ra những vấn đề lớn hơn so với tình trạng khan hiếm nước của nó. Australia là lục địa kém năng suất nhất: độ phì nhiêu trung bình trong đất thấp nhất, tốc độ tăng trưởng của thực vật thấp nhất và năng suất thấp nhất thế giới. Đó là bởi đất đai Australia đa phần thuộc loại đất già nên độ màu của đất bị mưa rửa trôi qua thời gian hàng tỷ năm. Rặng núi Murchison ở miền tây Australia có những tảng đá già nhất trái đất đã gần 4 tỷ năm tuổi.

Đất đai bị bạc màu có thể phì nhiêu trở lại qua ba hình thức chính, nhưng cả ba hình thức này đều không mang lại hiệu quả cao cho Australia so với các lục địa khác. Đầu tiên là đất có thể phục hồi độ phì nhiêu khi những núi lửa hoạt động phun các chất dinh dưỡng mới từ trong lòng đất lên trên mặt đất. Trong khi đây là một yếu tố quan trọng tạo nên độ phì nhiêu cho đất đai ở nhiều nước như đảo Java, Nhật Bản và Hawaii, thì chỉ có một vài khu vực nhỏ ở miền đông Australia có núi lửa hoạt động từ vài trăm triệu năm trước. Thứ hai, quá trình hình thành và tan chảy của các dải băng xới tung lớp vỏ trái đất, nghiền nhỏ đất và để chúng lắng trở lại, những lớp đất được băng làm lắng lại (hoặc bị gió thổi từ nơi khác tới) thường rất màu mỡ. Gần một nửa diện tích Bắc Mỹ, khoảng 18 triệu kilômét vuông, được băng bao phủ trong thời gian hàng triệu năm, nhưng chưa tới 1% diện tích đất liền của Australia, chỉ khoảng 51,7 kilômét vuông ở đông nam vùng Alps, cùng khoảng 2.590 kilômét vuông của đảo Tasmania ngoài khơi Australia là từng được băng bao phủ. Cuối cùng, vỏ trái đất dâng cao dần cũng tạo ra những vùng đất mới và góp phần làm tăng độ phì nhiêu của những vùng đất lớn ở Bắc Mỹ, Ấn Độ và châu Âu. Tuy nhiên, lại chỉ có vài khu vực nhỏ bé của Australia được nâng lên trong vòng hàng trăm triệu năm qua, chủ yếu là ở vùng núi Great piding Range ở đông nam Australia và ở khu vực miền nam Australia xung quanh Adelaide (xem bản đồ trang 386). Như chúng ta sẽ thấy, những vùng đất nhỏ nhoi được phục hồi độ màu mỡ dưới tác dụng của núi lửa, đóng băng hay vỏ trái đất dâng cao là những trường hợp ngoại lệ, còn đất đai của Australia chủ yếu là đất kém năng suất và có những đóng góp không tương xứng cho sản lượng nông nghiệp hiện đại của Australia.

Năng suất trung bình của đất đai Australia thấp nên gây ra những hậu quả kinh tế lớn cho các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản của Australia. Độ phì nhiêu ban đầu của các loại đất canh tác khi những người châu Âu mới di cư tới đây và tiến hành các hoạt động nông nghiệp đã nhanh chóng bị cạn kiệt. Thực vậy, những nông dân đầu tiên của Australia đã vô tình khai thác hết độ màu của đất. Từ đó trở đi, độ màu của đất được hình thành một cách giả tạo bằng các loại phân bón, bởi vậy càng làm tăng chi phí sản xuất nông nghiệp so với những vùng đất khác màu mỡ hơn ở nước ngoài. Đất kém năng suất có nghĩa là tỷ lệ tăng trưởng và thu hoạch hoa màu trung bình thấp. Bởi vậy, để thu hoạch được một lượng hoa màu tương đương thì diện tích đất đai trồng trọt của Australia luôn rộng hơn những nước khác, nên chi phí nhiên liệu cho các thiết bị nông nghiệp như máy kéo, máy gieo hạt và máy gặt (tương ứng với diện tích đất mà máy phải hoạt động) cũng có xu hướng tương đối cao. Một trường hợp đất đai quá cằn cỗi diễn ra ở phía tây nam Australia, nơi được coi là vành đai lúa mì và là một trong những vùng nông nghiệp giá trị nhất của Australia, bởi lúa mì được trồng trên đất cát bạc màu và tất cả các chất dinh dưỡng cho lúa mì đều được bổ sung bằng phương pháp nhân tạo như phân bón hóa học. Thực vậy, vành đai lúa mì của Australia chẳng khác một chậu hoa vĩ đại mà trong đó (giống như một chậu hoa thật) cát chẳng có tác dụng gì ngoài việc để cắm những cây hoa, còn các chất dinh dưỡng thì phải bổ sung từ ngoài vào.

Do nền nông nghiệp Australia phải gánh chịu những khoản chi phí nhiên liệu và phân bón phát sinh cao bất thường, nên đôi khi sản phẩm của nông dân Australia còn không cạnh tranh được với sản phẩm nông nghiệp ngoại nhập được vận chuyển bằng đường biển ngay trên chính thị trường nội địa, mặc dù các sản phẩm nhập khẩu đã phải cộng thêm chi phí vận tải từ nước ngoài tới. Ví dụ, với sự toàn cầu hóa như hiện nay, những trái cam được trồng ở Brazil rồi được dùng để sản xuất nước cam, sau đó nước cam được vận chuyển trên quãng đường hơn 12.874 kilômét tới Australia vẫn được bán với giá rẻ hơn nước cam trong nước. Thịt lợn và thịt lợn hun khói nhập khẩu từ Canada cũng có những lợi thế tương tự khi so với những sản phẩm cùng loại của Australia. Ngược lại, trong một số “thị trường thích hợp” đặc biệt, như những sản phẩm từ động thực vật có giá trị gia tăng cao ngoài những chi phí chăn nuôi, trồng trọt bình thường, như rượu - thì nông dân Australia lại hoàn toàn có thể cạnh tranh trên các thị trường nước ngoài.

Hậu quả kinh tế thứ hai do đất kém năng suất liên quan tới lâm nghiệp, hay lĩnh vực trồng cây giống như đã thảo luận trong Chương 9 về Nhật Bản. Trong các cánh rừng Australia, phần lớn các chất dinh dưỡng thực tế nằm ngay trong các thân cây chứ không phải trong đất. Bởi khi những cánh rừng bản địa mà những người định cư châu Âu đầu tiên bắt gặp đã bị chặt hết, và khi những người Australia hiện đại hoặc khai thác gỗ từ những cánh rừng tự nhiên tái sinh hoặc đầu tư vào lâm nghiệp bằng cách lập những đồn điền trồng cây lớn, thì tốc độ tăng trưởng của cây ở Australia rất thấp khi so với những với những nước trồng cây lấy gỗ khác. Trớ trêu thay, loại cây thân gỗ bản địa hàng đầu Australia (bạch đàn xanh Tasmania) hiện được trồng ở nhiều nước với chi phí rẻ hơn Australia nhiều lần.

Hậu quả thứ ba khiến tôi và có thể nhiều độc giả khác bất ngờ. Không ai lại nghĩ ngay được rằng sản lượng thủy sản cũng phụ thuộc vào năng suất của đất: xét cho cùng, các loài thủy sản sống trong các sông hồ và đại dương chứ không phải trong đất. Tuy nhiên, tất cả các chất dinh dưỡng trong các sông, và ít nhất một số chất dinh dưỡng ở các vùng biển ven bờ, là từ đất thoát xuống sông và được cuốn ra biển. Bởi các dòng sông và vùng nước ven bờ của Australia cũng tương đối kém năng suất, nên các nguồn thủy sản của Australia cũng nhanh chóng bị khai thác cạn kiệt giống như đất canh tác và các khu rừng của nó. Các ngành thủy sản Australia liên tục đánh bắt cá quá nhiều, tới mức tự đẩy mình vào tình trạng thua lỗ, thường chỉ sau vài năm phát hiện ra nguồn thủy sản. Hiện nay, trong số gần 200 nước trên thế giới, Australia là nước có vùng biển lớn thứ ba thế giới, nhưng lại xếp tận thứ 55 về giá trị các nguồn hải sản, trong khi giá trị của nguồn thủy sản nước ngọt là không đáng kể.

Thêm một đặc điểm khác liên quan đến đất kém năng suất của Australia là vấn đề này không được những người châu Âu đầu tiên định cư ở đây nhận ra. Khi bắt gặp những cánh rừng bạt ngàn, có thể có cả những cây gỗ cao nhất thế giới (cây bạch đàn xanh ở Gippsland, bang Victoria cao tới 122 mét), họ đã lầm tưởng rằng đây là vùng đất năng suất cao. Nhưng sau khi những người chặt gỗ đã đốn hết những cây gỗ đầu tiên, và những con cừu đã gặm trụi những thảm cỏ, thì những người định cư mới sửng sốt khi phát hiện ra rằng lớp cây và cỏ mới phát triển rất chậm, và đất này không mang lại lợi nhuận về mặt nông nghiệp, nhiều khu đất đã phải bỏ hoang mặc dù nông dân và những người chăn nuôi gia súc đã đầu tư vốn lớn để xây dựng nhà cửa, hàng rào và những công việc nông nghiệp cần thiết khác. Ngay từ những ngày đầu thuộc địa hóa tới nay, quy trình sử dụng đất của Australia luôn giống nhau đó là phát quang đất, đầu tư, phá sản, rồi bỏ hoang.

Tất cả những vấn đề kinh tế của nông lâm nghiệp, thủy sản và thất bại trong phát triển đất đai của Australia đều là hậu quả của tình trạng đất kém năng suất. Một vấn đề lớn khác của đất đai Australia là nhiều khu vực không chỉ độ phì nhiêu thấp, mà hàm lượng muối cũng rất cao vì ba lý do. Tại những vành đai lúa mì tây nam Australia xuất hiện tình trạng đất bị mặn hóa do bị gió biển từ Ấn Độ Dương bên cạnh thổi tới trong thời gian hàng triệu năm. Còn nguyên nhân mặn hóa ở phía đông nam Australia, cũng là một vùng đất canh tác năng suất nhất của Australia và có thể sánh với vành đai lúa mì, lưu vực của hệ thống sông lớn nhất Australia là sông Murray và Darling, do nằm ở vị trí thấp và liên tục bị nước biển tràn vào rồi lại rút đi để lại rất nhiều muối. Còn một lưu vực thấp khác nằm trong đất liền của Australia trước đây từng là một hồ nước ngọt, không thoát ra biển, bị muối hóa bởi bay hơi (giống như hồ muối của Utah và Biển Chết của Jordan và Israel), và cuối cùng đã bị cạn khô, tạo thành những mỏ muối bị gió cuốn sang những vùng khác ở phía đông Australia. Một số vùng đất Australia có chứa tới hơn 90 kg muối trên mỗi mét vuông đất mặt. Chúng ta sẽ thảo luận sau về những hậu quả do muối trong đất gây ra: tóm lại, còn một vấn đề là muối dễ bị đưa lên mặt đất do tình trạng phát quang đất đai hay hoạt động tưới tiêu nông nghiệp, khiến đất mặt nhiễm mặn và không một loại hoa màu nào có thể phát triển (Phụ bản 28). Cũng như việc những nông dân Australia đầu tiên, không có những biện pháp hiện đại để phân tích thành phần hóa học của đất, nên không thể biết rằng đất đai của Australia rất nghèo dinh dưỡng, nên cũng không thể nhận ra rằng dưới lớp đất mặt có muối. Nhận thức của họ về vấn đề muối hóa từ các hoạt động nông nghiệp cũng chẳng hơn gì so với vấn đề đất đai bạc màu.

Trong khi những nông dân đầu tiên không nhận ra rằng đất đai Australia cằn cỗi và có độ mặn cao và thế giới bên ngoài cũng ít biết hai đặc tính này, thì các vấn đề về nước của Australia rất rõ ràng và dễ nhận thấy; “sa mạc” là ý nghĩ đầu tiên của nhiều người nước ngoài khi đề cập đến môi trường Australia. Đúng như vậy: một phần diện tích lớn của Australia có lượng mưa thấp hay cực kỳ khô cằn không thể tiến hành các hoạt động nông nghiệp mà không có tưới tiêu. Hiện phần lớn lãnh thổ Australia vẫn không thể sử dụng để trồng trọt hay chăn thả gia súc. Tuy nhiên, những vùng này vẫn có thể sản xuất ra lương thực, thông thường những vùng đất càng gần biển thì có lượng mưa càng cao, bởi vậy những vùng đất sát biển nhất sẽ được dùng làm đất canh tác, trồng trọt hoa màu, cộng với một nửa số gia súc của Australia được nuôi với mật độ lớn; vào sâu vào đất liền là những trang trại nuôi cừu; sâu hơn nữa là những trang trại gia súc (một nửa số gia súc còn lại của Australia được nuôi với mật độ rất thấp), bởi những vùng này có lượng mưa thấp hơn nhưng chăn nuôi gia súc vẫn kinh tế hơn chăn nuôi cừu; và cuối cùng, xa hơn nữa trong đất liền là sa mạc, nơi không thể áp dụng bất cứ hình thức sản xuất lương thực nào.

Lượng mưa của Australia ngoài đặc tính thấp, còn một đặc tính khác tinh vi hơn đó là khó dự đoán. Ở nhiều vùng sản xuất nông nghiệp trên thế giới, mùa mưa hằng năm có thể dự đoán được, ví dụ như miền nam California, nơi tôi sống, hầu như có thể chắc chắn rằng lượng mưa sẽ tập trung trong mùa đông, và mùa hè sẽ ít mưa hoặc không hề có mưa. Ở nhiều vùng nông nghiệp năng suất cao ở nước ngoài, không chỉ trong mùa mưa mà ngay cả lượng mưa hằng năm cũng rất ổn định; ít xảy ra những đợt hạn hán lớn và nông dân có thể đầu tư trồng trọt hoa màu với hy vọng rằng năm nay lượng mưa sẽ đủ cho hoa màu phát triển.

Tuy nhiên, trên hầu hết lãnh thổ Australia, lượng mưa phụ thuộc vào hiện tượng gọi là ENSO (Dao động El Nino ở miền nam), có nghĩa là khó dự đoán lượng mưa hằng năm trong khoảng một thập kỷ, và càng khó dự đoán lượng mưa của mỗi thập kỷ hơn. Những nông dân và người du mục châu Âu đầu tiên định cư ở Australia không thể nào biết được rằng khí hậu Australia bị hiện tượng ENSO chi phối, bởi hiện tượng này hầu như không xuất hiện ở châu Âu và mãi tới những thập kỷ gần đây mới được các chuyên gia khí hậu phát hiện. Ở nhiều vùng của Australia, thật bất hạnh cho những nông dân và những người du mục khi tới đây đúng vào thời kỳ những năm có khí hậu ẩm ướt. Bởi vậy họ đã lầm tưởng về khí hậu Australia, nên họ trồng trọt hoa màu và chăn nuôi cừu với niềm tin rằng những điều kiện môi trường thuận lợi trước mắt họ là đặc tính của vùng đất này. Thực tế, phần lớn các vùng đất canh tác của Australia chỉ có đủ lượng mưa cần thiết để hoa màu phát triển trong vài năm đầu trong suốt thời gian khai thác nông nghiệp, chưa tới một nửa số thời gian đó, có những nơi chỉ hai năm đầu trong 10 năm khai thác là có lượng mưa đủ cho hoa màu phát triển. Điều này càng khiến sản phẩm nông nghiệp của Australia trở nên đắt đỏ và không kinh tế: nông dân phải bỏ tiền để cày bừa và gieo hạt, nhưng ít nhất hơn một nửa số năm trồng trọt của họ lại không được thu hoạch. Một hậu quả đáng buồn khác nữa là khi nông dân cày đất thì họ phải dọn sạch lớp cỏ mọc từ vụ trước khiến lớp đất mặt trở nên trơ trụi. Nếu các hoa màu mà nông dân gieo trồng không ra hoa kết trái, mặt đất lại bị bỏ trơ trụi, thậm chí ngay cả cỏ cũng không có nên rất dễ bị xói mòn. Bởi lượng mưa của Australia không ổn định nên việc trồng trọt các loại hoa màu rất tốn kém trong thời gian ngắn, và làm tăng khả năng bị xói mòn về lâu dài.

Một ngoại lệ lớn trong điều kiện lượng mưa không ổn định của Australia do hiện tượng ENSO gây ra là vành đai lúa mì ở phía tây nam, nơi (ít nhất mãi cho tới gần đây) lượng mưa mùa đông hằng năm tương đối ổn định và năm nào nông dân cũng thu hoạch được một vụ lúa mì bội thu. Lượng mưa ổn định trong những thập kỷ gần đây thúc đẩy lúa mì phát triển át cả các loại cây gỗ và thực phẩm, hai sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu giá trị nhất của Australia. Như đã trình bày, vành đai lúa mì này cũng nằm trong khu vực có những vấn đề đất đai cực kỳ nghiêm trọng như độ màu của đất thấp và độ mặn cao. Nhưng hiện tượng khí hậu toàn cầu thay đổi trong những năm gần đây cũng gây ảnh hưởng tới mức độ ổn định của lượng mưa mùa đông, từ năm 1973 tới nay, lượng mưa mùa đông ở vành đai lúa mì giảm mạnh trong khi lượng mưa mùa hè rơi xuống mặt đất trơ trụi do hoa màu vừa được thu hoạch lại tăng, càng làm đất bị muối hóa. Bởi vậy, như tôi đã đề cập ở Chương 1 về Montana, thay đổi khí hậu toàn cầu làm lợi cho nước này nhưng cũng gây thiệt hại cho nước khác, và Australia là nước chịu thiệt hại còn nặng nề hơn cả Montana.

Australia chủ yếu nằm trong vùng khí hậu ôn đới, nhưng lại cách các nước ôn đới khác tới hàng ngàn kilômét, những thị trường xuất khẩu tiềm năng cho các sản phẩm của Australia. Bởi vậy các sử gia Australia cho rằng “bất lợi khoảng cách” là một yếu tố quan trọng trong sự phát triển của Australia. Thành ngữ này muốn chỉ những hải trình dài dặc ra nước ngoài khiến chi phí vận chuyển đối với mỗi kg hay mỗi đơn vị sản phẩm xuất khẩu của Australia luôn cao hơn hàng xuất khẩu từ các nước Tân Thế giới sang châu Âu, vì vậy chỉ những sản phẩm trọng lượng nhỏ nhưng giá trị cao mới có thể xuất khẩu một cách kinh tế. Ban đầu trong thế kỷ XIX, khoáng sản và gỗ là những mặt hàng xuất khẩu chính. Khoảng năm 1900, khi những chuyến tàu hàng ướp lạnh mang lại lợi ích kinh tế cao, thì Australia cũng bắt đầu xuất khẩu thực phẩm ra nước ngoài, nhất là sang Anh. (Viết đến đây tôi lại nhớ một anh bạn người Australia, vốn không ưa gì người Anh, làm việc trong một xưởng chế biến thực phẩm, kể chuyện với tôi rằng anh ta và bạn bè thi thoảng lại chơi khăm bỏ một, hai túi mật vào số gan ướp lạnh được đánh dấu xuất khẩu sang Anh, và rằng xưởng của anh ta gắn mác “cừu non”, nghĩa là cừu dưới 6 tháng tuổi nếu tiêu dùng trong nước, và sẽ là cừu 18 tháng tuổi nếu xuất khẩu sang Anh). Ngày nay, những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Australia vẫn là những mặt hàng trọng lượng nhỏ nhưng giá trị cao, trong đó có thép, khoáng sản, gỗ và lúa mì; vài thập kỷ trở lại đây rượu và quả hạnh macadamia cũng được xuất khẩu mạnh; ngoài ra còn một số loại hoa màu đặc sản khác trọng lượng lớn nhưng giá trị cao được sản xuất cho những thị trường thích hợp mà một số người tiêu dùng sẵn sàng trả khoản tiền lớn, như lúa mì cứng và những loại lúa mì đặc biệt khác, lúa mì và thịt bò sạch được chăn nuôi và trồng trọt mà không dùng thuốc sâu hay các loại hóa chất khác.

Nhưng còn một bất lợi khoảng cách khác nữa nằm chính ngay trong lòng Australia. Những khu vực sản xuất và định cư của Australia rất ít và nằm rải rác. Dân số Australia chỉ bằng 1/14 nước Mỹ, rải rác rác trên một diện tích tương đương 48 tiểu bang vùng thấp của Mỹ. Hậu quả là chi phí vận chuyển trong nội địa Australia cũng cao nên khiến việc duy trì cuộc sống theo tiêu chuẩn của Thế giới thứ nhất rất tốn kém. Ví dụ, chính phủ Australia trợ cấp cho các hộ gia đình và doanh nghiệp ở trên khắp đất nước kết nối điện thoại vào mạng lưới điện thoại quốc gia, kể cả đặt những trạm kết nối ở những vùng xa xôi cách trạm gần nhất hàng trăm kilômét. Hiện Australia là nước đô thị hóa mạnh nhất thế giới, với 58% dân số tập trung chỉ trong năm thành phố lớn (Sydney 4 triệu người, Melbourne 3,4 triệu người, Brisbane 1,6 triệu, Perth 1,4 triệu và Adelaide 1,1 triệu vào thời điểm năm 1999). Trong số năm thành phố này, Perth là thành phố lớn có khoảng cách tới thành phố lớn bên cạnh xa nhất thế giới (cách Adelaide 2.092 kilômét về phía đông). Không phải ngẫu nhiên mà hai công ty lớn nhất Australia là hãng hàng không quốc gia Qantas và công ty viễn thông Telstra lại phát triển chỉ nhờ vào việc chinh phục những khoảng cách xa xôi này.

Bất lợi khoảng cách nội địa của Australia cùng với những trận hạn hán, là nguyên nhân khiến các ngân hàng và các ngành kinh doanh khác phải đóng cửa các chi nhánh của mình ở những thị trấn biệt lập của Australia bởi không có lợi nhuận. Các bác sĩ cũng đang rời bỏ các thị trấn này bởi cùng một lý do. Bởi vậy, mặc dù các khu định cư của Mỹ và châu Âu được sắp xếp theo những quy mô nối tiếp nhau, đầu tiên là các thành phố lớn, rồi đến các thị trấn trung bình và các làng mạc nhỏ, nhưng Australia lại ngày càng ít các thị trấn trung bình. Thay vào đó, hầu hết cư dân Australia hiện nay hoặc sống trong một vài thành phố lớn, đầy đủ tiện nghi của Thế giới thứ nhất hiện đại, hoặc sống trong những ngôi làng nhỏ hay những vùng xa xôi không hề có ngân hàng, bác sĩ hay những tiện nghi khác. Những ngôi làng nhỏ của Australia với vài trăm dân đủ khả năng chống chọi với một đợt hạn hán kéo dài năm năm thường xuyên xuất hiện trong điều kiện khí hậu bất ổn của Australia, bởi những làng này cũng chỉ có những hoạt động kinh tế nhỏ. Những thành phố lớn cũng có thể tồn tại qua đợt hạn hán kéo dài năm năm bởi chúng hội nhập với nền kinh tế trên một lưu vực sông lớn. Nhưng một đợt hạn hán kéo dài năm năm sẽ phá hủy hoàn toàn những thị trấn quy mô trung bình, bởi sự tồn tại của chúng phụ thuộc vào khả năng cung cấp đủ các loại hình kinh doanh và dịch vụ để cạnh tranh với những thành phố xa hơn, nhưng lại không đủ lớn để hội nhập với một lưu vực sông lớn. Ngày càng nhiều người Australia không phụ thuộc hay thực sự sống trong môi trường Australia, mà họ sống trong năm thành phố lớn có liên hệ với thế giới bên ngoài nhiều hơn là với thiên nhiên Australia.

Châu Âu chiếm phần lớn thuộc địa ở nước ngoài với hy vọng chúng sẽ mang lại cho họ những lợi ích tài chính hay những lợi thế chiến lược. Vị trí của những thuộc địa mà người châu Âu tới định cư được chọn lựa dựa trên khả năng đất đai có thể dựng lên một nền kinh tế thịnh vượng hay ít nhất là một xã hội tự cung tự cấp, trừ vài nơi chỉ có ít người châu Âu định cư để buôn bán với cư dân bản địa. Nhưng Australia là một ngoại lệ, bởi những người châu Âu di cư tới đây trong nhiều thập kỷ không phải để tìm kiếm vận may của mình mà bởi họ bị ép phải tới đây.

Động cơ chính của Anh khi di dân sang Australia là để giảm bớt vấn đề nhức nhối của xã hội khi số người đói khổ, tù tội đang ngày càng đông, nếu không có thể xảy ra bạo loạn. Thế kỷ XVIII, pháp luật Anh quy định tất cả những người ăn cắp từ 40 siling trở lên sẽ bị khép vào tội chết, vì vậy các quan tòa thường kết án những tên tội phạm chỉ ăn cắp 39 siling để chúng khỏi phải nhận án tử hình. Hậu quả là những nhà tù và những hầm tàu tràn đầy những người phạm những tội lặt vặt như ăn cắp và trốn nợ. Tới năm 1783, áp lực đối với các nhà tù được giải tỏa bằng cách đưa những người phạm tội sang Bắc Mỹ để cải tạo, và một số người di cư tự nguyện cũng tìm tới đây hy vọng được tự do về tôn giáo hay nhìn thấy những điều kiện kinh tế tốt hơn.

Nhưng cuộc cách mạng Mỹ đã chặt đứt tuyến đường sang Bắc Mỹ, buộc người Anh phải tìm kiếm nơi nào khác để tiếp tục thực hiện chính sách tống khứ những kẻ phạm tội. Ban đầu, hai địa điểm có nhiều khả năng nhất được xem xét hoặc là vùng cách sông Gambia 645 kilômét ở Tây Phi nhiệt đới, hay sa mạc ở cửa sông Orange nằm trên biên giới giữa Nam Phi và Namibia hiện nay. Nhưng rồi cả hai nơi đều không được chọn bởi có nhiều ý kiến phản đối, khiến Anh phải tính tới chọn lựa dự phòng là vịnh Botany của Australia gần thành phố Sydney hiện nay, mới được thuyền trưởng Cook phát hiện vào năm 1770. Đó là lý do vì sao hạm đội đầu tiên tới Australia vào năm 1778 mang theo những người châu Âu di cư đầu tiên chỉ toàn là những kẻ phạm tội và những người lính canh gác họ. Những chuyến thuyền chở tội phạm liên tục tới Australia cho tới tận năm 1868, mặc dù trong suốt những năm 1840 chúng chỉ chở phần lớn những người châu Âu di cư tới Australia.

Thời gian trôi đi, ngoài Sydney còn có thêm bốn vùng khác rải rác trên bờ biển Australia, gần những khu vực hiện là các thành phố hiện đại Melbourne, Brisbane, Perth và Hobart được chọn là nơi đày ải những kẻ phạm tội. Những khu định cư này sau trở thành trung tâm của năm thuộc địa, được chính quyền Anh kiểm soát riêng biệt, và phát triển thành năm trong sáu bang của Australia hiện đại là: New South Wales, Victoria, Queensland, Tây Australia và Tasmania. Cả năm vùng định cư đầu tiên này đều được chọn bởi những lợi thế như cảng biển hay gần sông chứ không phải vì những lợi thế nông nghiệp. Thực tế tất cả những vùng này đều là những vùng không thích hợp cho phát triển nông nghiệp và không đủ khả năng tự sản xuất đủ lương thực. Thay vào đó, chính quyền Anh phải thường xuyên chở lương thực trợ cấp cho các thuộc địa này để đảm bảo cuộc sống cho những kẻ tù đày, lính gác và những người quản lý. Tuy nhiên trường hợp của Adelaide, hạt nhân để phát triển bang Nam Australia còn lại của Australia hiện đại thì lại khác. Ở đây đất đai rất tốt bởi có hiện tượng mặt đất dâng cao, cộng với lượng mưa mùa đông tương đối ổn định nên thu hút những nông dân Đức di cư tới, đây cũng là nhóm người di cư duy nhất không phải từ Anh. Melbourne cũng có vùng đất tương đối tốt ở phía tây thành phố và trở thành một vùng nông nghiệp phát triển thịnh vượng vào năm 1835, sau khi cuộc di cư những kẻ phạm tội tới những vùng đất nghèo nàn ở phía đông thành phố vào năm 1803 bị thất bại nhanh chóng.

Săn bắt hải cẩu và cá voi mang lại những thu nhập đầu tiên cho những cư dân người Anh ở Australia. Tiếp theo là chăn nuôi cừu, khi tuyến đường qua rặng núi Blue Moutains dài 96,5 kilômét ở phía tây Sydney cuối cùng đã được khai phá vào năm 1813 cho phép tiếp cận với những đồng cỏ năng suất cao. Tuy nhiên, Australia vẫn không thể tự sản xuất đủ lương thực cho mình và Anh vẫn phải tiếp tục trợ cấp mãi cho tới tận những năm 1840, chỉ trước khi bùng phát cơn sốt đào vàng lần thứ nhất vào năm 1851 rốt cuộc cũng đóng góp một phần thịnh vượng cho Australia.

Trước khi người châu Âu đặt chân lên Australia vào năm 1788, tất nhiên thổ dân Australia đã sinh sống ở đây hơn 40.000 năm với những giải pháp duy trì cuộc sống thích nghi với những vấn đề môi trường khó khăn của Australia. Tại những vùng định cư đầu tiên của người châu Âu (nơi cải tạo những kẻ phạm tội) và những vùng định cư sau này thích hợp cho trồng trọt, người Australia da trắng thậm chí còn ít sử dụng thổ dân hơn so với người Mỹ da trắng sử dụng người Da đỏ. Người Da đỏ ở phía đông nước Mỹ ít ra còn là những nông dân và cung cấp những loại hoa màu cần thiết cho sự tồn tại của những người định cư châu Âu trong những năm đầu khó khăn, cho tới khi người châu Âu bắt đầu trồng trọt được hoa màu của mình. Từ đó trở đi, nông dân Da đỏ đơn thuần trở thành những đối thủ cạnh tranh với nông dân Mỹ và bị giết hay bị đuổi khỏi đất đai của mình. Tuy nhiên, những thổ dân Australia lại không làm nông nghiệp, bởi vậy không cung cấp lương thực cho những người định cư nên họ bị giết hay bị đuổi ngay khỏi những vùng định cư đầu tiên của người da trắng. Sau này, người da trắng tiếp tục lấn chiếm những vùng đất thích hợp cho trồng trọt. Tuy nhiên, khi họ vươn tới những vùng có khí hậu quá khô hanh cho trồng trọt nhưng lại thích hợp cho chăn nuôi gia súc, khi đó họ mới thấy cần có những thổ dân giỏi chăn nuôi để chăm sóc đàn cừu của họ: Không như Iceland và New Zealand, hai nước chăn nuôi cừu lớn nhưng không hề có loài vật bản địa nào có khả năng chăn cừu, Australia có giống chó dingo chăn cừu rất giỏi, vì vậy những nông dân Australia chăn nuôi cừu cần người chăn cừu và họ đã sử dụng thổ dân bởi không có đủ lao động da trắng ở Australia. Một số thổ dân còn làm việc cho những người săn bắt hải cẩu, cá voi, ngư dân và các thương gia buôn bán dọc bờ biển.

Cũng như những cư dân người Norse ở Iceland và Greenland mang theo những giá trị văn hóa truyền thống từ quê hương Na Uy của mình (Chương 6-8), người Anh định cư ở Australia cũng mang theo những giá trị văn hóa Anh. Cũng như Iceland và Greenland, Australia cũng có một số giá trị văn hóa nhập khẩu rõ ràng không thích hợp với môi trường Australia, thậm chí những giá trị đó vẫn tiếp tục tồn tại tới tận ngày nay. Có năm loại giá trị văn hóa đặc biệt quan trọng, đó là những giá trị liên quan tới cừu, thỏ và cáo, thực vật bản địa của Australia, các giá trị đất đai và cá tính người Anh.

Nước Anh thế kỷ XVIII tự sản xuất được rất ít len nên phải nhập khẩu từ Tây Ban Nha và Saxony. Những nguồn cung cấp len từ lục địa này bị cắt đứt trong thời kỳ chiến tranh với Napoleon trở nên khốc liệt trong những thập niên đầu tiên người Anh định cư ở Australia. Vua George III của Anh rất lo lắng tìm nguồn cung cấp len, và với sự ủng hộ của ông, nước Anh đã đánh cắp được giống cừu mêrinô từ Tây Ban Nha đưa sang Anh, rồi tiếp tục đưa sang Australia và lập ra ngành công nghiệp len của Australia. Australia trở thành nguồn cung cấp len chính cho Anh. Ngược lại, len cũng là mặt hàng xuất khẩu chính của Australia giai đoạn từ khoảng 1820 - 1950, bởi trọng lượng của nó thấp nhưng có giá trị cao bù đắp cho những bất lợi khoảng cách gây khó khăn cho những mặt hàng xuất khẩu của Australia có trọng lượng lớn hơn khi cạnh tranh với các thị trường nước ngoài.

Hiện một phần lớn đất đai dùng cho sản xuất lương thực của Australia vẫn được sử dụng để chăn nuôi cừu. Chăn cừu đã trở thành một bản sắc văn hóa độc đáo của Australia, nhưng những cử tri nông thôn với nghề chính là chăn nuôi cừu có ảnh hưởng không lớn trong hệ thống chính trị Australia. Tuy nhiên, việc Australia dành một lượng đất tương đối cho chăn nuôi cừu là một điều sai lầm: Mặc dù ban đầu nó có những đồng cỏ tươi tốt, hay có thể phát quang để trồng cỏ, nhưng năng suất của đất (như đã đề cập) rất thấp, bởi vậy nông dân chăn nuôi cừu, thực tế đang khai thác độ màu của đất. Nhiều trang trại chăn nuôi cừu nhanh chóng bị bỏ hoang; ngành chăn nuôi cừu hiện nay của Australia đang rơi vào tình trạng thua lỗ (sẽ được thảo luận bên dưới); và di sản mà nó để lại là những mảnh đất suy thoái trầm trọng do tác động của chăn thả gia súc quá mức (Phụ bản 29).

Những năm gần đây có những đề xuất rằng thay vì chăn nuôi cừu, Australia nên nuôi chuột túi, (không như cừu) đây là loài vật bản địa của Australia thích nghi với điều kiện khí hậu và thực vật Australia. Họ cho rằng những bàn chân mềm mại của chuột túi sẽ ít gây tác hại cho đất như những chiếc móng cứng của cừu. Thịt chuột túi nạc, tốt cho sức khỏe và (theo tôi) ngon tuyệt. Ngoài thịt, da chuột túi còn có giá trị lớn. Đó là tất cả những căn cứ để một số người ủng hộ việc thay thế chăn nuôi cừu bằng nuôi chuột túi.

Tuy nhiên, đề xuất này cũng có không ít những khó khăn thực tế, cả về mặt sinh học và giá trị văn hóa. Không như cừu, chuột túi không phải là loại gia súc sẽ dễ dàng tuân lệnh của người chăn cừu hoặc của một con chó, hoặc có thể dễ dàng lùa chúng vào những chiếc thang dẫn lên xe tải để chuyển tới lò mổ. Thay vào đó, những trang trại nuôi chuột túi chắc sẽ phải thuê thợ săn để săn đuổi và bắn hạ từng con chuột túi. Chuột túi còn có những nhược điểm khác như đặc tính hay di chuyển và khả năng nhảy cao tuyệt vời, nếu bạn đầu tư phát triển đàn chuột túi trong trang trại của mình, và bỗng nhiên chúng bị điều gì đó kích động (như tiếng mưa ở đâu đó chẳng hạn), thì đàn chuột túi quý giá có lẽ sẽ nhảy sang trang trại của ai đó cách chỗ bạn tới 50 kilômét. Mặc dù thịt chuột túi được chấp nhận ở Đức và một số được xuất khẩu sang đây, thì việc bán thịt chuột túi ở những nơi khác có thể vẫn gặp khó khăn do những rào cản văn hóa. Người Australia cho rằng thịt chuột túi không ngon và khó có thể thay thế thịt cừu Anh và thịt bò trong những bữa tối. Nhiều tổ chức bảo vệ động vật của Australia phản đối giết thịt chuột túi mà không nhận ra thực tế rằng điều kiện sống và những biện pháp giết mổ cừu và gia súc còn tàn bạo hơn nhiều so với chuột túi hoang dã. Mỹ công khai cấm nhập khẩu thịt chuột túi bởi họ thấy đó là những con vật đáng yêu, và bởi vợ một nghị sĩ nghe rằng loài chuột túi đang có nguy cơ tuyệt chủng. Thực tế, một số loài chuột túi đang gặp nguy hiểm, nhưng trớ trêu thay những loài đang bị giết thịt lại là những loài có số lượng rất lớn ở Australia. Chính quyền Australia cũng có những quy định chặt chẽ về việc giết mổ và đặt hạn ngạch giết mổ chuột túi.

Mặc dù chắc chắn việc nhập khẩu cừu mang lại những lợi ích kinh tế lớn (và cả những tác hại) cho Australia, nhưng thỏ và cáo du nhập thì rõ ràng là những thảm họa. Những người Anh di cư ban đầu thấy môi trường, thực vật và động vật xung quanh xa lạ với mình và muốn cuộc sống được bao quanh bằng những loài cây và động vật quen thuộc, bởi vậy họ đã cố du nhập nhiều giống chim châu Âu, trong đó chỉ có chim sẻ nhà và sáo đá phát triển rộng rãi, trong khi những loài khác (như chim két, chim hét nhạc, sẻ đồng, sẻ cánh vàng và sẻ cánh xanh) chỉ sinh sống cục bộ. Ít ra thì những loài chim du nhập này không gây thiệt hại nhiều, trong khi giống thỏ Australia rất đông đúc gây ra những thiệt hại kinh tế lớn và làm đất suy thoái do ngốn tới một nửa số thực vật trên thảo nguyên mà đáng lẽ dành để nuôi cừu và gia súc (Phụ bản 30). Cùng với những thay đổi của môi trường sống do cừu gặm cỏ và tình trạng đốt nương làm rẫy của thổ dân, ảnh hưởng chung từ việc du nhập cáo và thỏ cũng là một trong những nguyên nhân chính gây tuyệt chủng hay làm giảm số lượng phần lớn những loài động vật có vú loại nhỏ: lũ cáo đã tấn công chúng, và thỏ thì tranh giành thức ăn với những loài thú bản địa có vú ăn cỏ.

Thỏ và cáo châu Âu hầu như đồng thời được du nhập vào Australia. Không rõ liệu cáo được du nhập trước để tổ chức những cuộc săn cáo theo truyền thống của người Anh, rồi mới tới thỏ để bổ sung nguồn thức ăn cho cáo hay thỏ được du nhập trước để phục vụ thú vui săn bắn hay để làm phong cảnh nông thôn gần gũi với nước Anh hơn, rồi mới tới cáo để khống chế thỏ. Cho dù trường hợp nào thì cả hai đều trở thành những thảm họa gây ra nhiều tốn kém và giờ đây khó có thể tin được rằng chúng được du nhập chỉ vì những lý do tầm thường tới vậy. Thậm chí càng khó tin hơn khi chính người Australia nỗ lực gây giống các loại thỏ: bốn lần du nhập đầu tiên bị thất bại (bởi những con thỏ đầu tiên được thả là giống thỏ trắng đã thuần hóa đều bị chết), và phải tới lần nhập thứ năm là giống thỏ Tây Ban Nha hoang dã mới thành công.

Ngay từ khi thỏ và cáo được nhân giống thành công và người Australia đã nhận ra hành động sai lầm của mình, họ đã cố tiêu diệt hay làm giảm bớt số lượng hai loài vật gây hại này. Vũ khí chính trong cuộc chiến tiêu diệt cáo là đánh thuốc độc và đặt bẫy. Một biện pháp tiêu diệt thỏ, mà hầu như tất cả những người Australia từng xem bộ phim gần đây mang tên Hàng rào chống thỏ đều nhớ, đó là dựng những hàng rào dài để ngăn thỏ ở phía ngoài trang trại. Tôi được nghe ông nông dân Bill McIntosh kể chuyện ông đã lập bản đồ đất đai của mình như thế nào để đánh dấu từng vị trí của hàng ngàn chiếc hang thỏ, sau đó dùng máy ủi phá hủy từng chiếc một. Ông còn thường xuyên kiểm tra và nếu phát hiện có dấu vết thỏ làm hang mới, ông sẽ thả thuốc nổ xuống hang tiêu diệt thỏ, rồi lấp hang lại. Bằng cách này, ông đã cần mẫn phá hủy 3.000 chiếc hang thỏ. Những biện pháp này quá tốn kém khiến người Australia vài chục năm trước đặt nhiều hy vọng vào việc du nhập một loài virut gây bệnh myxomatosis để tiêu diệt thỏ, và ban đầu đã làm giảm tới 90% số lượng thỏ cho tới khi chúng trở nên kháng bệnh và hồi phục. Hiện Australia đang sử dụng một loại vi khuẩn khác tên là calicivirus để kiểm soát số lượng thỏ.

Những người Anh di cư thích những con thỏ và chim két vốn quen thuộc hơn và cảm thấy không thoải mái giữa những con chuột túi và chim hút mật hình dáng lạ mắt của Australia; những cây bạch đàn, những cây keo của Australia có hình dáng, màu sắc và lá rất khác với những loại cây lấy gỗ của Anh cũng khiến họ cảm thấy khó chịu. Những người định cư phát quang thảm thực vật một phần bởi họ không thích sự hiện diện của chúng, và còn bởi họ cầu lấy đất cho các hoạt động nông nghiệp. Cho tới cách đây khoảng 20 năm, chính quyền Australia vẫn không chỉ trợ cấp cho việc phát quang đất đai mà thực tế còn coi đó là một điều kiện để được thuê đất. (Phần lớn đất nông nghiệp của Australia không thuộc quyền sở hữu hoàn toàn của nông dân như ở Mỹ, mà thuộc sở hữu của chính quyền và cho nông dân thuê). Những người thuê đất được khấu trừ thuế cho các loại nông cụ và công lao động trong việc phát quang đất đai, họ cũng phải phát quang một diện tích đất nhất định theo yêu cầu của chính quyền như một trong những điều kiện bắt buộc để tiếp tục được thuê đất, và sẽ buộc phải chấm dứt thuê đất nếu không thực hiện đầy đủ chỉ tiêu này. Những nông dân và các nhà kinh doanh có thể kiếm lợi bằng cách mua hay thuê đất có lớp thực vật bản địa và không thích hợp để phát triển nông nghiệp bền vững, sau đó dọn sạch lớp thực vật này, trồng một hay hai vụ lúa mì làm đất bạc màu, rồi bỏ hoang số đất đai này. Ngày nay, khi cộng đồng thực vật của Australia được công nhận là độc đáo và đang có nguy cơ bị tuyệt chủng, và khi phát quang đất đai bị coi là một trong hai nguyên nhân chính gây ra tình trạng muối hóa làm đất bị suy thoái, thì rất tiếc phải nhắc lại rằng gần đây chính quyền Australia vẫn còn trợ cấp và yêu cầu nông dân phá hủy thảm thực vật bản địa. Nhà kinh tế học sinh thái Mike Young được chính quyền Australia giao nhiệm vụ thống kê số lượng đất đai cho thuê bị tình trạng phát quang đất đai làm cho trở nên vô giá trị, cho tôi biết rằng thời nhỏ ông và gia đình vẫn phát quang cây cối để lấy đất trồng trọt. Mike và bố, mỗi người một chiếc máy kéo, chạy song song và nối với nhau bằng một sợi xích rà sát mặt đất, sợi xích này sẽ lật tung tất cả những loài thực vật bản địa và thay vào đó là những loại hoa màu mới, đổi lại cha ông sẽ được giảm một khoản thuế lớn. Nếu không có những khoản giảm thuế này của chính phủ như một biện pháp khuyến khích thì chắc đất đai Australia chẳng bao giờ bị phát quang nhiều như vậy.

Khi những người định cư tới Australia và bắt đầu mua hay thuê đất từ những người khác hay từ chính quyền, giá đất được tính theo giá đất ở Anh và được định giá theo những lợi nhuận thu được từ đất năng suất cao ở Anh. Bởi vậy nên đất của Australia bị “đánh giá quá cao”, nó được bán hay cho thuê với giá cao hơn khả năng lợi nhuận tài chính có thể thu được từ các hoạt động nông nghiệp. Bởi vậy, khi một nông dân mua, thuê hay thế chấp đất đai của mình, thì họ phải trả mức lãi cao, do áp lực từ việc định giá đất cao hơn thực tế nên nông dân cố khai thác được càng nhiều lợi nhuận từ đất càng tốt, nhiều hơn cả khả năng mà đất đai có thể mang lại. Đó là một thực tế được gọi là “cưỡng bức đất đai”, có nghĩa là nuôi quá nhiều cừu hay trồng quá nhiều lúa mì trên mỗi mẫu đất. Định giá đất quá cao do ảnh hưởng từ các giá trị văn hóa của người Anh (các giá trị tiền tệ và hệ thống tín ngưỡng) là một nguyên nhân chính khiến lượng gia súc ở Australia quá đông, gây ra tình trạng chăn thả quá mức, xói mòn đất, nông dân bị phá sản và đất đai bị bỏ hoang hóa.

Nói chung, đất đai bị định giá cao khiến các giá trị nông nghiệp của Australia bị điều chỉnh theo những nền tảng của người Anh chứ không phải theo năng suất nông nghiệp thấp của Australia. Những giá trị nông nghiệp đó tiếp tục gây cản trở tới việc giải quyết một trong những vấn đề chính trị nội tại của Australia hiện đại, đó là: ảnh hưởng không cân xứng của các cử tri nông thôn. Australia có một điều khó hiểu hơn cả châu Âu và Mỹ, đó là nông dân luôn được coi là những người trung thực, và người thành phố bị coi là người dối trá. Nếu một nông dân bị phá sản, thì đó là bất hạnh của một người tốt gặp phải những khó khăn vượt quá khả năng của họ (như một đợt hạn hán), trong khi nếu người thành phố bị phá sản thì đó chính là hậu quả của sự gian trá mà anh ta gây ra. Sự thần thánh hóa nông dân và quyền bỏ phiếu cao một cách bất tương xứng của họ bất chấp một thực tế mà tôi đã đề cập rằng Australia là quốc gia đô thị hóa cao nhất thế giới. Chúng tiếp tục góp phần duy trì sự ngoan cố của chính quyền ủng hộ các biện pháp khai thác hơn là bảo tồn môi trường, như phát quang đất đai và trợ cấp gián tiếp cho khu vực kinh tế nông thôn làm ăn thua lỗ.

Cách đây 50 năm, dòng người di cư tới Australia chủ yếu là từ Anh và Iceland. Hiện vẫn còn nhiều người Australia gắn bó chặt chẽ với những giá trị truyền thống của người Anh và sẽ tức giận phản đối bất kỳ ý kiến nào cho rằng họ trân trọng những giá trị đó một cách thái quá. Nhưng di sản đó khiến người Australia làm những gì mà họ cho là đúng, nhưng người ngoài thì đánh giá đó là việc không thích hợp, không cần thiết và không vì những lợi ích tốt nhất của người Australia. Trong cả Thế chiến Thứ nhất và Thứ hai, Australia tuyên chiến với Đức ngay khi Anh và Đức tuyên chiến với nhau, mặc dù không hề có bất kỳ lợi ích nào Australia bị ảnh hưởng trong Thế chiến Thứ nhất (trừ việc đó là cái cớ để Australia xâm chiếm thuộc địa New Guinea của Đức), và Thế chiến Thứ hai cũng không hề ảnh hưởng tới nước này mãi tới tận khi bùng nổ chiến tranh với Nhật Bản hơn hai năm sau khi Đức và Anh tuyên chiến với nhau. Ngày lễ chính của Australia (và cũng là của New Zealand) là ngày Anzac 25 tháng Tư, kỷ niệm ngày một binh đoàn Anzac gồm toàn người Australia và người New Zealand bị tàn sát trên bán đảo Gallipoli xa xôi của Thổ Nhĩ Kỳ vào ngày này năm 1915, do khả năng chỉ huy kém cỏi của người Anh khi những đội quân này gia nhập lực lượng quân sự của Anh nhằm tấn công Thổ Nhĩ Kỳ nhưng bị thất bại. Cuộc tắm máu ở Gallipoli trở thành biểu tượng của người Australia “luôn” ủng hộ quê hương Anh của mình, và tự coi mình như một nước trong liên bang thống nhất chứ không phải là một thuộc địa với một toàn quyền riêng. Với những người Mỹ thế hệ chúng tôi, sự kiện Gallipoli với người Australia cũng có ý nghĩa tương tự thảm họa Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng ngày 7/12/1941, bởi nó nhanh chóng đoàn kết tất cả những người Mỹ và đưa nước Mỹ ra khỏi chính sách ngoại giao trung lập. Nhưng những người không phải là người Australia chắc không thể không châm biếm rằng một ngày lễ lớn của Australia lại gắn liền với bán đảo Gallipoli, một nơi cách Australia một khoảng cách tương đương một phần ba quãng đường vòng quanh thế giới và ở phía đối diện của xích đạo: một vị trí địa lý chẳng hề liên quan tới lợi ích của Australia.

Những tình cảm gắn bó với nước Anh vẫn còn tiếp tục tới tận ngày nay. Lần đầu tôi tới thăm Australia vào năm 1964, trước đó đã từng sống ở Anh bốn năm, tôi thấy Australia còn mang nhiều nét văn hóa truyền thống về kiến trúc và tư tưởng của Anh hơn cả nước Anh hiện đại. Tới tận năm 1973, hàng năm chính quyền Australia vẫn gửi danh sách đề xuất phong tặng tước hiệu hiệp sĩ cho những người Australia, và đây được coi là những danh dự cao quý nhất của một người Australia. Anh vẫn bổ nhiệm toàn quyền Australia do Australia đề xuất, và toàn quyền có quyền cách chức Thủ tướng Australia, thực tế đã từng diễn ra năm 1975. Cho tới đầu những năm 1970, Australia vẫn duy trì một “Chính sách Australia trắng” và công khai cấm nhập cư từ những nước châu Á láng giềng, khiến họ tức giận. Chỉ mới từ 25 năm nay, Australia mới quan hệ với những người châu Á láng giềng, công nhận vị trí địa lý của mình nằm ở châu Á, chấp nhận những di dân người châu Á và phát triển quan hệ thương mại với châu Á. Anh hiện đã tụt xuống hàng thứ tám trong các thị trường xuất khẩu của Australia, sau Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore và Đài Loan.

Thảo luận bên trên về việc Australia tự coi mình như một nước Anh hay như một nước châu Á làm nổi lên một chủ đề được lặp đi lặp lại trong toàn bộ cuốn sách này, đó là: tầm quan trọng của những quan hệ hữu nghị hay thù địch với sự ổn định của một xã hội. Vậy những nước nào mà Australia coi là bạn bè, đối tác thương mại hay kẻ thù và ảnh hưởng của những quan điểm này là gì? Chúng ta hãy bắt đầu với thương mại và tiếp sau đó là sự nhập cư.

Trong suốt hơn một thế kỷ cho tới tận năm 1950, các sản phẩm nông nghiệp, nhất là len, là sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Australia, sau đó là khoáng sản. Hiện nay Australia vẫn là nhà sản xuất len lớn nhất thế giới, nhưng cả sản lượng của Australia và nhu cầu của thế giới hiện đều giảm do bị cạnh tranh mạnh mẽ từ sợi nhân tạo. Năm 1970, số lượng cừu của Australia lên tới đỉnh điểm khoảng 180 triệu con (hồi đó trung bình mỗi người nuôi 14 con cừu), rồi bắt đầu giảm mạnh. Hầu như toàn bộ len của Australia đều được xuất khẩu, chủ yếu sang Trung Quốc và Hồng Kông. Các mặt hàng nông nghiệp xuất khẩu khác bao gồm lúa mì (chủ yếu được bán sang Nga, Trung Quốc và Ấn Độ), nhất là lúa mì cứng, rượu và thịt bò sạch. Hiện Australia sản xuất lượng lương thực nhiều hơn khả năng tiêu thụ của mình và là nhà xuất khẩu lương thực tịnh, nhưng nhu cầu tiêu thụ lương thực nội địa của Australia vẫn tăng do dân số tăng. Nếu xu hướng này còn tiếp tục, Australia có thể sẽ trở thành nhà nhập khẩu tịnh chứ không phải là nhà xuất khẩu tịnh lương thực.

Len và các sản phẩm nông nghiệp khác hiện chỉ đứng thứ ba trong số những mặt hàng có giá trị mang lại ngoại tệ cao cho đất nước, sau du lịch (đứng thứ hai) và khoáng sản (đứng thứ nhất). Các