← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 14 TẠI SAO MỘT SỐ XÃ HỘI LẠI CÓ NHỮNG QUYẾT ĐỊNH TAI HẠI?

Lộ trình tới thành công - Không lường trước được vấn đề - Không nhận thức được vấn đề - Hành vi lý trí tai hại - Những giá trị tai hại - Những thất bại phi lý khác - Những giải pháp thất bại - Tín hiệu của hy vọng.

Giáo dục là một quá trình liên quan tới hai đối tượng với những vai trò khác nhau, đó là: những giáo viên truyền đạt kiến thức cho sinh viên, và những sinh viên tiếp thu kiến thức từ giáo viên. Thực tế, như mọi giáo viên có tư tưởng cởi mở phát hiện, giáo dục cũng còn là quá trình sinh viên truyền đạt kiến thức cho giáo viên của họ, qua việc không thừa nhận những gì mà giáo viên cho là đúng và đặt ra những câu hỏi mà trước đó giáo viên chưa hề nghĩ tới. Gần đây tôi cũng phát hiện ra điều này khi giảng dạy một khóa học về đề tài các xã hội đối phó với những vấn đề môi trường như thế nào, cho những sinh viên năm cuối rất tích cực tại Trường Đại học California tại Los Angeles (UCLA) của tôi. Quả thực, khóa học còn là một cuộc tổng duyệt sơ bộ những tài liệu cần thiết để viết cuốn sách này, khi đó tôi đã thảo xong một vài chương và đang lên kế hoạch viết những chương khác, và vẫn có thể có những thay đổi lớn.

Sau khi làm quen với lớp, bài giảng đầu tiên của tôi là về sự sụp đổ của xã hội đảo Phục Sinh, đối tượng trong Chương 2 của cuốn sách này. Trong phần thảo luận sau khi kết thúc bài giảng, câu hỏi tưởng như đơn giản khiến các sinh viên của tôi lúng túng nhất chính là câu thực tế trước đó tôi cũng còn chưa hiểu hết: Bằng cách nào một xã hội lại có thể đưa ra một quyết định rõ ràng là một thảm họa khi chặt tất cả những cây gỗ mà xã hội đó đang phụ thuộc vào chúng? Một sinh viên đã đặt câu hỏi mà tôi trước đó tôi cũng từng phân vân rằng: Người Phục Sinh chặt cây cọ cuối cùng trên đảo đã nghĩ gì khi ông ta chặt nó. Với tất cả những xã hội khác mà tôi đề cập trong các bài giảng sau này, các sinh viên cũng thường đặt ra câu hỏi về cơ bản tương tự như câu hỏi này. Họ luôn hỏi một câu liên quan tới bài giảng là: Còn bao lâu nữa con người vẫn tiếp tục cố tình phá hủy sinh thái, hay ít nhất là biết rõ những hậu quả có thể xảy ra nhưng vẫn tàn phá môi trường? Bao lâu con người lại vô tình hay phá hủy môi trường mà không hề biết? Những sinh viên của tôi phân vân không biết liệu - nếu sau hàng trăm nữa mà con người vẫn còn tồn tại - con người của thế kỷ tới có ngạc nhiên trước những nhận thức mù quáng của chúng ta hiện nay giống như cách chúng ta nhìn nhận sự mù quáng của cư dân đảo Phục Sinh.

Câu hỏi tại sao các xã hội lại tự hủy diệt bản thân bằng những quyết định tai hại, không chỉ làm các sinh viên năm cuối tại trường UCLA của tôi ngạc nhiên mà còn cả các nhà lịch sử và các chuyên gia khảo cổ. Ví dụ, có lẽ cuốn sách được trích dẫn nhiều nhất về những xã hội sụp đổ là cuốn Sự sụp đổ của các xã hội phức tạp, do nhà khảo cổ Joseph Tainter viết. Qua việc đánh giá những lý giải khác nhau về sự sụp đổ của các xã hội cổ xưa, Tainter vẫn tỏ ra hoài nghi về khả năng có thể các xã hội này bị sụp đổ là do các nguồn tài nguyên môi trường cạn kiệt, bởi hậu quả đó dường như với ông là không thể xảy ra. Ông lập luận: “Giả thiết của quan điểm này phải là các xã hội này cứ ngồi đó và nhìn xã hội suy yếu dần mà không có bất kỳ hành động nào để ngăn chặn. Đây là một điều phi lý. Các xã hội phức tạp có những đặc tính là ra quyết định tập trung, có dòng thông tin lớn, sự phối hợp giữa các vùng lớn, có những kênh điều hành chính thức và cùng chia sẻ các nguồn tài nguyên. Phần lớn cấu trúc này dường như có khả năng, nếu không muốn nói là cố ý được thiết kế, chống lại những biến động và những yếu kém về hiệu suất. Với cấu trúc quản lý của họ, và khả năng phân bổ cả các nguồn tài nguyên và sức lao động thì đối phó với những điều kiện môi trường bất lợi có thể là một trong những điều mà các xã hội phức tạp làm tốt nhất (xin xem phần ví dụ, Isbell [1978]). Có điều lạ lùng là các xã hội này sụp đổ khi phải đối mặt với đúng những điều kiện mà chúng được trang bị để đối phó… Các thành viên hay những người quản lý của một xã hội phức tạp thấy rõ rằng một nguồn tài nguyên quan trọng đang suy thoái, thì dường như giả thiết hợp lý nhất là cần áp dụng một số biện pháp phù hợp nhằm hướng tới một giải pháp. Một giả thiết được chọn lựa - và thất bại khi phải đối mặt với thảm họa - đòi hỏi phải có sự thay đổi lớn khiến chúng ta lưỡng lự”.

Lý luận của Tainter ám chỉ rằng các xã hội phức tạp dường như sẽ không thể sụp đổ do thất bại trong quản lý các nguồn tài nguyên môi trường. Nhưng rõ ràng qua tất cả những trường hợp được thảo luận trong cuốn sách này thì đều thấy thất bại đó xảy ra liên tục. Tại sao lại có nhiều xã hội mắc phải những sai lầm này?

Các sinh viên năm cuối của tôi tại UCLA, và kể cả Joseph Tainter, đều nhận ra một hiện tượng thất bại: gọi là thất bại của một quyết định tập thể ảnh hưởng tới toàn xã hội hay các tập thể khác. Tất nhiên vấn đề này cũng giống như thất bại của một quyết định cá nhân. Cá nhân ai cũng có thể có những quyết định sai lầm, như một cuộc hôn nhân không hạnh phúc, một vụ đầu tư xấu, một sai lầm khi chọn lựa nghề nghiệp, kinh doanh thất bại, v.v. Nhưng các quyết định tập thể còn chịu ảnh hưởng từ một số yếu tố khác như những xung đột lợi ích giữa các thành viên, và những động lực của nhóm. Đây rõ ràng là một đề tài phức tạp mà một câu trả lời duy nhất không thể thích hợp cho mọi tình huống.

Tôi thử phác họa một lộ trình các yếu tố góp phần tạo ra thất bại của quyết định tập thể. Tôi sẽ chia các yếu tố thành bốn giai đoạn. Đầu tiên, một tập thể có thể không tiên liệu được vấn đề trước khi nó xuất hiện trên thực tế. Thứ hai, khi vấn đề xuất hiện, tập thể này không nhận thức được nó. Thứ ba, khi đã nhận thức được vấn đề lại không cố gắng giải quyết nó. Thứ tư, có thể họ đã cố gắng giải quyết nhưng không thành công. Mặc dù toàn bộ thảo luận về những lý do về sự thất bại và sụp đổ xã hội dường như có vẻ rất thất vọng, nhưng mặt khác lại là một đề tài đáng khích lệ: đó là ra quyết định thành công. Có lẽ nếu chúng ta hiểu rõ những lý do tại sao các tập thể thường đưa ra những quyết định sai lầm, chúng ta có thể sử dụng kiến thức đó để ra những quyết định tập thể đúng đắn.

Điểm dừng đầu tiên trên lộ trình của tôi là các tập thể có thể có những hành động tai hại bởi họ không tiên liệu được vấn đề trước khi nó xuất hiện, vì nhiều lý do. Một trong những lý do là trước đó họ chưa từng trải qua vấn đề đó, nên họ không hình dung ra nó.

Một ví dụ điển hình là tình trạng lộn xộn mà những người Anh nhập cư gây ra cho bản thân khi họ du nhập cáo và thỏ từ Anh vào Australia trong những năm 1800. Hiện đây được đánh giá là hai trong số những ví dụ tai hại nhất về tác động của những sinh vật ngoại lai tới môi trường không phải bản địa của chúng (xem chi tiết ở Chương 13). Các sinh vật hại này càng gây thiệt hại nặng nề bởi chúng được cố tình du nhập với rất nhiều nỗ lực, chứ không phải tình cờ du nhập như những hạt cỏ dại nhỏ bé lẫn trong những đám cỏ khô được nhập khẩu và trong nhiều trường hợp phát triển thành những loài cỏ dại độc hại. Lũ cáo đuổi bắt và tiêu diệt nhiều loài động vật có vú bản địa của Australia trước kia chưa từng biết tới loài cáo, trong khi thỏ ngốn rất nhiều loài thực vật lẽ ra dành để chăn nuôi cừu và gia súc, lấn át những loài thú ăn cỏ bản địa và tàn phá đất đai bằng những chiếc hang của chúng.

Do là lớp hậu sinh, nên hiện chúng ta coi việc những người Anh cố ý du nhập hai loài vật ngoại lai xâm hại này vào Australia là hành động cực kỳ xuẩn ngốc, gây thiệt hại hàng tỷ đô la. Từ nhiều ví dụ khác tương tự, ngày nay chúng ta nhận ra một điều rằng những hành vi du nhập thường gây ra những thiệt hại không lường trước được. Đó là lý do tại sao khi bạn tới Australia hay tới Mỹ để du lịch hay vừa từ nước ngoài trở về, một trong những câu hỏi đầu tiên mà nhân viên nhập cư có thể hỏi bạn là bạn có mang theo loại cây, hạt hay động vật nào không, để đề phòng nguy cơ chúng thoát ra ngoài và trở thành địch hại. Từ vô số kinh nghiệm trước đây, giờ chúng ta đã học được cách tiên liệu (nhưng không phải lúc nào cũng làm được) ít nhất là nguy cơ gây hại của những loài sinh vật ngoại lai. Nhưng vẫn rất khó thậm chí cả với các chuyên gia sinh thái học để có thể tiên liệu loại sinh vật ngoại lai nào sẽ phát triển trên thực tế, loại sinh vật nào khi phát triển sẽ trở thành địch hại, và tại sao cũng loài sinh vật đó lại chỉ có thể phát triển ở một số khu vực du nhập nhất định mà không phải ở những nơi khác. Bởi vậy, chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi biết rằng trong thế kỷ XIX, người Australia, do không có kinh nghiệm về các loài sinh vật ngoại lai xâm hại như thế kỷ XX, nên không thể tiên liệu được những tác động của hai loài thỏ và cáo.

Trong cuốn sách này chúng ta đã nghiên cứu nhiều ví dụ về các xã hội bị sụp đổ do không tiên liệu được một vấn đề mà trước đây họ chưa từng gặp. Bằng việc đầu tư lớn cho hoạt động săn hải mã để lấy ngà xuất khẩu sang châu Âu, người Norse ở Greenland khó có thể lường trước được rằng cuộc chiến Thập tự chinh sẽ khiến thị trường ngà hải mã của họ bị sụp đổ do châu Âu lại tiếp cận được nguồn ngà voi của châu Phi và châu Á, hay việc những tảng băng trên biển tăng lên sẽ cản trở hoạt động vận tải đường biển sang châu Âu. Thêm nữa, vì không phải là các nhà khoa học thổ nhưỡng nên người Maya ở Copán không thể lường trước rằng phá rừng trên những sườn đồi sẽ khiến đất trên những sườn đồi bị xói mòn xuống đáy thung lũng.

Kể cả đã từng có kinh nghiệm thì cũng không đảm bảo rằng một xã hội sẽ tiên liệu được vấn đề, nếu kinh nghiệm đó diễn ra từ quá lâu khiến con người lãng quên. Điều này đặc biệt nghiêm trọng trong những xã hội không có chữ viết, nên khả năng lưu giữ những ký ức chi tiết về những sự kiện xảy ra từ lâu trong quá khứ kém hơn so với những xã hội có chữ viết, bởi phương pháp truyền miệng có nhiều hạn chế hơn so với chữ viết. Ví dụ, như chúng ta đã thấy tại Chương 4 rằng xã hội người Anasazi ở hẻm Chaco đã từng trải qua một số đợt hạn hán trước khi sụp đổ trong một đợt hạn hán lớn vào thế kỷ XII. Nhưng những đợt hạn hán trước cũng diễn ra từ rất lâu trước khi sinh ra thế hệ người Anasazi chịu ảnh hưởng từ đợt hạn hán lớn này, họ không thể lường trước được đợt hạn hán sắp xảy ra do không có chữ viết dẫn tới không có văn bản ghi lại những sự kiện này. Tương tự, xã hội người Maya ở Vùng đất thấp Cổ điển cũng sụp đổ do một đợt hạn hán vào thế kỷ thứ IX, mặc dù khu vực của họ đã từng bị hạn hán trong những thế kỷ trước (xem Chương 5). Trong trường hợp này, mặc dù người Maya có chữ viết nhưng họ chỉ ghi lại những chiến công lừng lẫy của các vị vua và những sự kiện thiên văn chứ không ghi lại những thông tin thời tiết, vì vậy đợt hạn hán vào thế kỷ thứ III, cách đó 6 thế kỷ, đã không giúp người Maya lường trước được đợt hạn hán xảy ra vào thế kỷ thứ IX khiến xã hội Maya sụp đổ.

Trong các xã hội hiện đại có chữ viết, chữ viết được sử dụng để ghi lại nhiều vấn đề, không chỉ về các vị vua và các hành tinh, như vậy không có nghĩa là chúng ta chỉ dựa vào những kinh nghiệm trước đó được ghi lại. Chúng ta cũng có xu hướng lãng quên nhiều điều. Một, hai năm sau khi xảy ra tình trạng thiếu khí đốt trong cuộc khủng hoảng dầu lửa Vùng Vịnh năm 1973, những người Mỹ chúng ta tránh xa những chiếc xe hơi tiêu tốn nhiều nhiên liệu, nhưng rồi chúng ta cũng quên mất điều đó và hiện đang rất chuộng những kiểu xe thể thao SUV, cho dù có hàng đống tài liệu viết về những sự kiện năm 1973. Những năm 1950, thành phố Tucson tại Arizona trải qua một đợt hạn hán khắc nghiệt khiến những công dân của thành phố lo ngại và thề sẽ quản lý nguồn nước của mình tốt hơn, nhưng rồi họ cũng sớm quay trở lại cách sống phung phí nước như xây dựng các sân golf và lấy nước tưới cho những khu vườn.

Một lý do khác giải thích tại sao một xã hội không lường trước được một vấn đề là do suy diễn sai lầm. Mỗi khi gặp một tình huống bất thường, chúng ta sẽ xem xét trước đây có tình huống nào tương tự không. Đó là một cách hợp lý nếu như những tình huống mới và cũ thực sự giống nhau, nhưng sẽ rất nguy hiểm nếu chúng chỉ giống nhau bề ngoài nhưng bản chất lại khác nhau. Ví dụ, những người Viking di cư tới Iceland vào khoảng năm 870 từ Na Uy và Anh, đây là hai đất nước có lớp đất mặt dày được các dòng sông băng bao phủ. Ở đó thậm chí nếu lớp thực vật trên đất này bị chặt hết, thì bản thân lớp đất này vẫn rất nặng nên không thể bị gió làm xói mòn. Khi những người Viking di cư thấy Iceland có nhiều loại cây giống như ở Nauy và Anh, sự tương đồng giữa phong cảnh hai vùng đã khiến họ bị lầm tưởng (Chương 6). Đáng tiếc là đất của Iceland màu mỡ không phải do bị băng nén xuống mà do lớp tro núi lửa bị gió cuốn từ những nơi khác đến. Khi những người Viking chặt phá toàn bộ những cánh rừng của Iceland để trồng cỏ cho gia súc, lớp đất nhẹ bị lộ ra và lại bị gió cuốn đi, do vậy phần lớn đất của Iceland sớm bị xói mòn.

Một ví dụ hiện đại nổi tiếng và đau thương về suy diễn sai lầm là chiến lược phòng thủ sai lầm của quân đội Pháp trong Thế chiến Thứ hai. Sau Thế chiến Thứ nhất đẫm máu và rùng rợn, Pháp nhận ra rằng cần đề phòng trước khả năng nước Đức phát động một cuộc xâm lược khác. Đáng tiếc là các tướng lĩnh quân đội Pháp lại giả thiết rằng cuộc chiến sắp tới chắc cũng tương tự như Thế chiến Thứ nhất, khi mà mặt trận phía tây giữa Pháp và Đức luôn ở thế bất phân thắng bại trong thời gian bốn năm. Do vậy, các lực lượng bộ binh phòng thủ của Pháp đã tập trung củng cố hệ thống công sự chiến đấu trước đây từng đẩy lùi những cuộc tấn công của bộ binh Đức, trong khi phía Đức đã âm thầm triển khai những chiếc xe tăng mới được chế tạo có thể tác chiến độc lập hoặc sử dụng để yểm trợ bộ binh. Bởi vậy, khi Thế chiến Thứ hai xảy ra, mặc dù Pháp đã xây dựng một hệ thống công sự phức tạp và tốn kém mang tên phòng tuyến Maginot để bảo vệ vùng biên giới phía đông chống lại Đức, nhưng giới tướng lĩnh quân đội Đức, do đã từng bị đánh bại trong Thế chiến Thứ nhất, nhận ra cần phải có một chiến lược khác, nên đã sử dụng xe tăng làm lực lượng tiên phong thay cho bộ binh trong các cuộc tấn công hoặc tổ chức xe tăng thành những đơn vị thiết giáp riêng. Bởi vậy Đức dễ dàng vượt qua phòng tuyến Maginot, thọc qua địa hình được rừng che phủ mà phía Pháp tin rằng tăng khó có thể vượt qua, và đã đánh bại nước Pháp chỉ trong vòng có 6 tuần. Do những suy diễn sai lầm về thế trận sau Thế chiến Thứ nhất, giới tướng lĩnh Pháp đã phạm phải một sai lầm phổ biến, đó là: các vị tướng thường lập kế hoạch tác chiến cho cuộc chiến tranh sắp diễn ra với giả định nó giống hệt như cuộc chiến trước, nhất là nếu họ là người chiến thắng trong cuộc chiến trước đó.

Điểm dừng thứ hai trên lộ trình của tôi, sau khi xã hội đã lường trước hoặc không lường trước một vấn đề trước khi nó xuất hiện, liên quan tới việc xã hội đó có nhận ra được vấn đề hay không khi nó đã trở thành hiện thực. Ít nhất có ba lý do khiến một xã hội không nhận ra vấn đề, cả ba lý do này đều xuất hiện phổ biến trong môi trường kinh doanh và học thuật của thế giới.

Thứ nhất, nguồn gốc của một số vấn đề rất khó nhận thấy. Ví dụ, chất dinh dưỡng tạo nên độ màu của đất nhưng mắt người không thể nhận ra, và chỉ con người hiện đại mới có thể tiến hành các phân tích hóa học để xác định độ màu của đất. Tại Australia, Mangareva, vùng đất tây nam nước Mỹ và nhiều nơi khác, phần lớn độ màu của đất đã bị mưa rửa trôi trước khi con người tới định cư ở đây. Khi con người đến và bắt đầu trồng trọt hoa màu, số hoa màu này nhanh chóng làm cạn kiệt số chất dinh dưỡng còn lại nên khiến hoạt động nông nghiệp bị thất bát. Những vùng đất bạc màu này thường có vẻ ngoài là những thảm thực vật tươi tốt; nhưng thực chất phần lớn các chất dinh dưỡng trong hệ sinh thái được tích tụ trong chính các loài thực vật chứ không phải trong đất, và chúng sẽ mất đi nếu thảm thực vật bị tàn phá. Không có cách nào để những người khai hoang đầu tiên ở Australia và Mangareva phát hiện ra vấn đề đất bạc màu, cũng như nông dân ở những vùng đất có lớp muối nằm sâu dưới đất (như miền Đông Montana và các vùng đất của Australia và Mesopotamia) cũng không thể phát hiện tình trạng muối hóa khi chúng mới hình thành và các thợ mỏ khai thác quặng sunfua cũng không biết được đồng và axit độc hại bị hòa tan trong nguồn nước thải chảy ra từ mỏ.

Một lý do phổ biến khác khiến vấn đề không được phát hiện sau khi nó trở thành hiện thực đó là những người quản lý sống ở những nơi xa xôi, không sâu sát với thực tế, một nguy cơ thường xảy ra ở bất kỳ xã hội hay doanh nghiệp lớn nào. Ví dụ, chủ đất tư nhân và cũng là công ty khai thác gỗ lớn nhất Montana hiện nay không sinh sống hay đặt trụ sở ngay trong bang, mà ở Seattle, Washington cách đó tới 645 kilômét. Không thường xuyên hiện diện tại nơi sản xuất, nên ban lãnh đạo công ty có thể không nhận ra rằng họ đang phải đối mặt với vấn đề lớn là cỏ dại trong các khu rừng của mình. Những công ty quản lý tốt sẽ không bị bất ngờ khi thường xuyên cử các nhân viên quản lý “tới hiện trường” để kiểm tra công việc thực tế. Một người bạn đầy trách nhiệm của tôi khi còn là chủ tịch một trường đại học, đã thường xuyên chơi bóng rổ với các sinh viên năm cuối để theo dõi nắm bắt tư tưởng của sinh viên. Trái ngược với thất bại do người quản lý ở quá xa là sự thành công trong quản lý do ở ngay tại nơi sản xuất. Một phần lý do tại sao người Tikopia trên hòn đảo nhỏ bé của mình, và cư dân cao nguyên New Guinea trong các thung lũng của họ, lại quản lý thành công nguồn tài nguyên trong thời gian hơn một ngàn năm, là bởi tất cả mọi cư dân trên đảo hoặc thung lũng quen thuộc toàn bộ vùng lãnh thổ mà xã hội của họ đang sinh sống.

Có lẽ tình huống phổ biến nhất khiến các xã hội không nhận thức được vấn đề là bởi vấn đề đó diễn ra từ từ, trong suốt thời gian dài, và có sự dao động lên xuống lớn. Ví dụ điển hình của thế giới hiện đại là hiện tượng khí hậu toàn cầu nóng dần lên. Hiện chúng ta đã nhận ra rằng trong những thập kỷ gần đây, nhiệt độ toàn thế giới đang từ từ tăng lên. Tuy nhiên, không phải khí hậu mỗi năm đều tăng chính xác 0,01 độ so với năm trước. Thay vào đó, như chúng ta đều biết, khí hậu hằng năm dao động rất thất thường: mùa hè năm nay nhiệt độ tăng ba độ so với năm trước, mùa hè tới nhiệt độ lại tăng hai độ, nhưng mùa hè năm sau lại giảm tới bốn độ, năm sau nữa giảm một độ, rồi lại tăng năm độ… Với những dao động lớn và thất thường như vậy, phải mất nhiều năm mới phát hiện ra xu hướng tăng trung bình 0,01 độ mỗi năm giữa những dấu hiệu mơ hồ này. Đó là lý do tại sao mới vài năm trước đây, những nhà khí hậu học lão luyện nhất vẫn còn nghi ngờ thực tế khí hậu toàn cầu nóng dần lên, giờ đã phải công nhận thực trạng đó. Khi tôi viết những dòng này, Tổng thống Mỹ Bush vẫn không tin có hiện tượng khí hậu toàn cầu nóng lên và cho rằng cần phải nghiên cứu kỹ hơn. Những cư dân Greenland thời Trung cổ cũng gặp phải những khó khăn tương tự để nhận ra khí hậu của họ đang dần trở nên lạnh đi, người Maya và người Anasazi cũng vấp phải khó khăn để nhận thức rằng khí hậu của họ đang dần trở nên hanh khô hơn.

Các chính trị gia sử dụng thuật ngữ “bình thường hóa dần dần” để chỉ những xu hướng diễn ra từ từ, ẩn náu bên trong những dao động lớn. Nếu thực trạng kinh tế, giáo dục, tắc nghẽn giao thông, hay bất cứ điều gì đang diễn biến ngày càng tồi tệ hơn nhưng với tốc độ rất chậm, thì cũng khó nhận ra rằng tình hình năm sau tồi tệ hơn năm trước chỉ một chút ít, vì vậy tiêu chuẩn quan trọng trong “sự bình thường hóa” chính là sự chuyển dịch từ từ và khó nhận ra. Phải mất vài thập kỷ, trong đó mỗi năm thay đổi dần dần thì con người mới choáng váng nhận ra một điều rằng những điều kiện xã hội của vài thập kỷ trước tốt hơn bây giờ nhiều, và sự thay đổi đó dần dần được chấp nhận như một điều bình thường.

Một thuật ngữ khác liên quan sự bình thường hóa dần dần là “hội chứng quên phong cảnh”, có nghĩa là quên phong cảnh xung quanh 50 năm trước trông như thế nào, bởi nó thay đổi dần dần, từng năm một. Một ví dụ khác là tình trạng các dòng sông băng và những đồng tuyết của Montana tan chảy dần do khí hậu toàn cầu nóng dần lên (xem Chương 1). Khi còn niên thiếu, tôi đã tới nghỉ hè ở lưu vực Big Hole của Montana trong hai năm 1953 và 1956, mãi tới 42 năm sau tôi mới quay trở lại vào năm 1998, kể từ đó năm nào tôi cũng tới đây. Trong các ký ức sinh động thời niên thiếu về vùng Big Hole của tôi là tuyết trên những đỉnh núi xa xa, thậm chí ngay cả giữa mùa hè, tôi cũng thấy một dải trắng phía chân trời bao quanh cả vùng. Tôi cũng còn nhớ một buổi cắm trại cuối tuần, tôi và hai cậu bạn đã trèo lên một dải tuyết kỳ diệu. Không sống ở đây trong thời kỳ khí hậu dao động và tuyết tan dần trong mùa hè trong suốt 42 năm, nên năm 1998 khi trở lại Big Hole, tôi đã sững sờ và buồn bã khi thấy nhiều dải tuyết đã biến mất, và thực tế đã tan chảy toàn bộ vào năm 2001 và 2003. Khi hỏi bạn bè là những cư dân Montana về sự thay đổi này thì họ rất ít nhận ra điều đó: họ vô tình so sánh thay đổi mỗi năm của dải băng (hay lúc đó mới phát hiện ra dải băng đã mất). Do thường xuyên sinh sống ở Montana nên sự bình thường hóa dần dần hay hội chứng quên phong cảnh khiến họ khó hình dung phong cảnh nơi đây từ những năm 1950 hơn so với tôi. Đây chính là một nguyên nhân quan trọng khiến con người không nhận ra một vấn đề đang dần phát triển, cho tới khi quá muộn.

Tôi cho rằng hội chứng quên phong cảnh có thể giải đáp một phần câu hỏi của các sinh viên của tôi ở UCLA, “Cư dân đảo Phục Sinh nghĩ gì khi chặt cây cọ cuối cùng trên đảo?” Chúng ta không thể hình dung ra một sự thay đổi đột ngột tới mức, năm nay, cả hòn đảo vẫn được bao phủ bởi một rừng cọ cao được sử dụng vào nhiều mục đích trong cuộc sống như để nấu rượu, cung cấp thực phẩm và gỗ để vận chuyển và dựng tượng; năm sau chỉ còn lại đúng một cây cọ mà một cư dân nào đó trên đảo vẫn tiếp tục chặt thì đúng là một hành động tự phá hoại xuẩn ngốc. Nhiều khả năng những cánh rừng thay đổi trong một thời gian dài và hầu như không thể nhận ra: vâng, năm nay chúng tôi chặt vài cây ở chỗ này, năm sau lại chặt vài cây ở chỗ khác nhưng rồi những cây non sẽ mọc lại ngay tại khu đất bị bỏ hoang đó. Chỉ có những cư dân già nhất trên đảo, khi hồi tưởng về thời thơ ấu của họ, mới có thể nhận ra sự khác biệt. Con cái họ khó có thể lĩnh hội thấu đáo những câu chuyện mà cha mẹ chúng kể về một rừng cây cao, cũng như hai cậu con trai 17 tuổi của tôi cũng không thể hiểu hết câu chuyện mà vợ chồng tôi kể về Los Angeles cách đây 40 năm trông như thế nào. Dần dần, số cây trên đảo Phục Sinh ít đi, nhỏ đi và tầm quan trọng trong đời sống cũng giảm đi. Tại thời điểm cây cọ trưởng thành cuối cùng bị chặt, thì từ trước đó rất lâu, loài thực vật này đã không còn bất kỳ vai trò nào trong nền kinh tế trên đảo. Hằng năm, cư dân chỉ còn chặt những cây cọ non ngày càng nhỏ đi, cùng với những loài cây bụi và những loài cây nhỏ khác. Lúc đó sẽ không ai chú ý tới việc cây cọ non cuối cùng bị chặt. Ký ức về một rừng cọ quý giá cách đây hàng thế kỷ cũng đã bị rơi vào hội chứng quên phong cảnh. Không giống như đảo Phục Sinh, tốc độ phá rừng trên khắp Nhật Bản thời kỳ đầu Tokugawa diễn ra rất nhanh nên dễ dàng khiến các tướng quân nhận ra phong cảnh bị thay đổi mạnh và nên họ thấy cần thiết phải áp dụng các biện pháp ngăn chặn phá rừng và khôi phục nó.

Điểm dừng thứ ba trên lộ trình dẫn tới một quyết định thất bại là điều diễn ra thường xuyên nhất, đáng kinh ngạc nhất, và đòi hỏi phải thảo luận kỹ lưỡng nhất bởi nó thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Trái ngược với những gì Joseph Tainter và hầu như bất kỳ ai khác đều trông đợi, hóa ra các xã hội thường không cố gắng giải quyết vấn đề cho dù đã nhận ra nó.

Có nhiều lý do dẫn tới thất bại này nằm dưới cái mà các nhà kinh tế và các nhà khoa học xã hội gọi là “hành vi lý trí”, xuất phát từ xung đột lợi ích giữa con người. Đó là việc một số người có thể đặt quyền lợi của bản thân lên trên quyền lợi của xã hội bằng những hành vi gây hại cho người khác. Các nhà khoa học gọi hành vi đó là “lý trí” rất chính xác bởi nó vận dụng lý lẽ chính xác, mặc dù có thể bị lên án về mặt đạo đức. Thông thường thủ phạm biết rằng họ sẽ không phải chịu trách nhiệm về hành vi xấu xa của mình, nhất là nếu không có quy định của pháp luật về hành vi đó hoặc có nhưng thực thi không nghiêm túc. Họ cảm thấy an toàn bởi những kẻ vi phạm thường tập trung (có số lượng ít) và có động cơ cao do triển vọng chắc chắn được hưởng lợi lớn và ngay lập tức, trong khi gây thiệt hại cho một số lượng lớn các cá nhân. Còn những người thua thiệt chỉ có rất ít động cơ để phản đối, bởi mỗi người chỉ thiệt hại một chút ít và trong trường hợp nếu mưu đồ chiếm đoạt của nhóm thiểu số không thành công thì họ cũng chỉ nhận được một phần lợi ích nhỏ bé, không chắc chắn và xa xôi. Những ví dụ minh họa cho lý do này chính là những khoản trợ cấp vô lý: Chính phủ phải chi những khoản tiền lớn để hỗ trợ những ngành sẽ bị thua lỗ nếu không được trợ cấp, như các ngành thủy sản, mía đường ở Mỹ, và trồng bông ở Australia (được trợ cấp gián tiếp thông qua việc Chính phủ gánh chịu chi phí nước tưới tiêu). Chỉ có ít ngư dân và người trồng cây ngoan cố vận động cho những khoản trợ cấp này bởi đó là phần lớn thu nhập của họ, trong khi những người thua thiệt (là tất cả những người đóng thuế) ít lên tiếng về những khoản trợ cấp bởi đó chỉ là một khoản tiền rất nhỏ ẩn trong hóa đơn thuế của mỗi công dân. Các phương pháp của một tập thể thiểu số lợi dụng một tập thể đa số lớn hơn đặc biệt thường xuất hiện trong một số hình thái dân chủ nhất định trao quyền quyết định cho những tập thể nhỏ, như các nghị sĩ của các tiểu bang nhỏ trong nước Mỹ. Thượng nghị sĩ, hay những đảng phái tôn giáo nhỏ ở Israel có ảnh hưởng lớn tới cán cân quyền lực tới mức mà hệ thống chính trị của Hà Lan không thể có được.

Một hình thái phổ biến của hành vi lý trí xấu xa là “tốt cho tôi, xấu cho anh và tất cả những người khác”, hay có thể nói thẳng đó là “sự ích kỷ”. Một ví dụ đơn giản là hầu hết những ngư dân Montana đều đánh bắt cá hồi, chỉ vài người thích đánh bắt loài cá chó, loài cá ăn thịt không phải là loài bản địa của miền Tây Montana, nên những người này đã lén lút du nhập bất hợp pháp giống cá này vào một số sông, hồ ở miền Tây Montana, hậu quả là chúng đã ăn thịt những con cá hồi và hủy hoại ngành đánh bắt cá hồi. Cá chó mang lại lợi ích cho một vài ngư dân nhưng lại gây thiệt hại lớn hơn cho những người đánh cá hồi.

Một ví dụ khác mà trong đó số người thua thiệt nhiều hơn và số tiền thiệt hại cũng lớn hơn. Tới tận năm 1971, khi đóng cửa một mỏ khai thác khoáng sản, các công ty khai thác mỏ ở Montana vẫn để nó nguyên xi như khi khai thác, để mặc đồng, thạch tín và axít ngấm vào các dòng sông, bởi pháp luật bang Montana không yêu cầu các công ty mỏ phải làm sạch môi trường sau khi đóng cửa mỏ. Năm 1971, tiểu bang Montana thực tế đã thông qua một đạo luật quy định việc này, nhưng các công ty mỏ phát hiện ra rằng họ có thể khai thác các loại quặng có giá trị và sau đó tuyên bố phá sản thì sẽ không phải trả khoản chi phí làm sạch. Hậu quả là các công dân Montana phải gánh chịu khoản chi phí 500 triệu đô-la làm sạch môi trường và ban lãnh đạo của công ty Khai thác mỏ Mỹ ý thức được rằng pháp luật cho phép họ tiết kiệm tiền cho công ty, và tăng cường lợi ích cá nhân của mình thông qua các khoản tiền lương và thưởng cao, bằng cách gây ra tình trạng hỗn độn rồi để lại gánh nặng cho xã hội giải quyết. Có thể dẫn chứng vô số những ví dụ khác về những hành vi tương tự trong thế giới kinh doanh, nhưng nó không phổ biến tới mức như một số người hoài nghi nghĩ. Trong chương tới chúng ta sẽ nghiên cứu hàng loạt hậu quả từ mệnh lệnh trong kinh doanh để kiếm tiền cho tới phạm vi của các quy định, pháp luật của chính phủ và thái độ thừa nhận của công chúng.

Một hình thái xung đột quyền lợi đặc biệt đã trở nên nổi tiếng dưới cái tên “bi kịch của chung”, nó liên quan chặt chẽ tới những xung đột gọi là “thế khó xử của tù nhân” và “lôgic của hành động tập thể”. Hãy xem xét một tình huống mà trong đó nhiều người tiêu dùng đang thu hoạch một nguồn tài nguyên thuộc sở hữu chung của cộng đồng, như những ngư dân đánh bắt cá trên một vùng biển, hay thả cừu trên một đồng cỏ chung. Nếu tất cả mọi người đều thu hoạch quá mức nguồn tài nguyên, thì nó sẽ trở nên cạn kiệt do tình trạng đánh bắt cá quá mức hay chăn thả gia súc quá mức, nên tài nguyên giảm sút hay thậm chí tuyệt chủng, và tất cả mọi người tiêu dùng đều phải gánh chịu hậu quả. Bởi vậy, nếu biện pháp thu hoạch hạn chế hay không thu hoạch quá mức được áp dụng sẽ mang lại lợi ích chung cho tất cả những người tiêu dùng. Nhưng nếu không có quy định pháp luật có hiệu lực về số lượng tài nguyên mỗi người tiêu dùng được phép thu hoạch, thì ai cũng viện lý do: “Nếu tôi không đánh bắt cá, hay không chăn thả gia súc của mình thì những người khác cũng sẽ làm, vì vậy tội gì tôi phải hạn chế đánh bắt cá quá mức hay chăn thả gia súc quá mức”. Hành vi lý trí lúc đó sẽ là thu hoạch tài nguyên trước khi người khác kịp thu hoạch, cho dù hậu quả hiển nhiên có thể là phá hủy lợi ích chung và gây thiệt hại cho tất cả những người khác.

Thực tế, mặc dù lôgic này gây ra hậu quả nhiều nguồn tài nguyên chung bị khai thác quá mức và bị tàn phá, thì nó cũng bảo tồn nhiều nguồn tài nguyên khác mặc dù vẫn được thu hoạch trong hàng trăm, thậm chí hàng ngàn năm. Trong số những hậu quả đáng tiếc có tình trạng khai thác quá mức và sụp đổ của phần lớn các ngành đánh bắt hải sản lớn, và sự tuyệt chủng của hàng triệu loài động vật (những loài thú có vú lớn, chim và loài bò sát) trên tất cả những hòn đảo ngoài khơi hay những lục địa mà con người định cư lần đầu tiên trong vòng 50.000 năm qua. Những kết quả tốt đẹp bao gồm việc duy trì các nghề cá, những cánh rừng và những nguồn nước ở các địa phương như nghề đánh bắt cá hồi và các hệ thống tưới tiêu của Montana mà tôi đã mô tả trong Chương 1. Đằng sau những kết quả tốt đẹp này là ba giải pháp khác xen nhau được phát triển để bảo vệ một nguồn tài nguyên phổ biến trong khi vẫn cho phép thu hoạch một cách bền vững.

Một giải pháp rõ ràng là để cho chính phủ hay một số lực lượng bên ngoài tham gia bảo vệ tài nguyên, cho dù những người tiêu dùng muốn hay không, để bắt buộc người tiêu dùng phải tuân thủ các chỉ tiêu khai thác tài nguyên, như những tướng quân và lãnh chúa thời kỳ Tokugawa ở Nhật Bản, các hoàng đế Inca ở vùng Andes, và các hoàng tử cùng những chủ đất giàu có trong thế kỷ XVI ở Đức đã áp dụng với việc khai thác gỗ. Tuy nhiên, đây là điều không thực tế trong một số trường hợp (ví dụ như đối với đại dương bao la) hay chi phí quản lý và kiểm soát quá tốn kém trong các trường hợp khác. Giải pháp thứ hai là tư nhân hóa nguồn tài nguyên, ví dụ như phân chia thành từng vùng đất thuộc sở hữu của mỗi cá nhân, như vậy mỗi chủ sở hữu sẽ buộc phải quản lý cẩn thận nguồn lợi của riêng mình. Giải pháp này thực tế đã được áp dụng với một số khu rừng thuộc sở hữu của các làng trong thời kỳ Tokugawa ở Nhật Bản. Tuy nhiên, một số nguồn tài nguyên (như những loài vật và cá luôn di chuyển từ chỗ này sang chỗ khác) thì không thể phân chia, và mỗi chủ sở hữu lại thấy việc trông coi nguồn tài nguyên của mình còn khó hơn cả việc lực lượng bảo vệ bờ biển hay cảnh sát của chính phủ ngăn chặn những kẻ xâm nhập.

Giải pháp còn lại đối với bi kịch của chung là để người tiêu dùng nhận ra những quyền lợi chung của họ và tự bản thân họ vạch ra, tuân thủ và tôn trọng các chỉ tiêu thu hoạch thận trọng. Giải pháp này chỉ có thể thực hiện hiệu quả nếu một loại vấn đề sau được đáp ứng: người tiêu dùng lập ra một tập thể đồng nhất; tạo dựng được lòng tin và cách giao tiếp với nhau; cùng hy vọng vào một tương lai chung và mong muốn chuyển giao nguồn tài nguyên trong điều kiện tốt cho lớp hậu sinh; có khả năng và được phép tổ chức và kiểm soát bản thân; ranh giới của các nguồn tài nguyên và nguồn vốn chung được xác định rõ ràng. Một ví dụ điển hình, đã được thảo luận trong Chương 1, là trường hợp về quyền sử dụng nước tưới tiêu ở Montana. Trong khi việc phân bổ các quyền đó đã được pháp luật quy định, nhưng hiện các chủ trang trại chủ yếu chỉ tuân thủ yêu cầu của ủy viên Hội đồng nước mà họ tự bầu ra, và không còn đưa các tranh chấp ra tòa án giải quyết. Ví dụ về các tập thể thống nhất quản lý cẩn thận các nguồn tài nguyên mà họ hy vọng sẽ chuyển giao cho lớp con cháu mình là các cư dân đảo Tikopia, cư dân cao nguyên New Guinea, các bộ lạc người Da đỏ và những tập thể khác đã được thảo luận trong Chương 9. Những tập thể nhỏ đó, cùng với người Iceland (Chương 6) và Nhật Bản thời Tokugawa là những tập thể lớn hơn, được thúc đẩy mạnh mẽ để đạt tới thỏa thuận do chính sự biệt lập của họ: có một điều rõ ràng với tập thể đó là sự tồn tại của họ trong tương lai sẽ chỉ dựa trên các nguồn tài nguyên của mình. Những tập thể này biết rằng họ không thể thường xuyên viện cớ “ISEP” để bào chữa cho việc quản lý sai lầm của mình: “Đó không phải là vấn đề của tôi, mà là vấn đề của người khác”.

Những mâu thuẫn lợi ích liên quan tới hành vi lý trí có khuynh hướng tăng lên khi những người tiêu thụ chủ yếu không có lợi ích lâu dài trong việc bảo vệ nguồn tài nguyên nhưng toàn xã hội thì có. Ví dụ, hiện phần lớn hoạt động thu hoạch thương mại các khu rừng nhiệt đới do các công ty khai thác gỗ quốc tế thực hiện, thường những công ty này chỉ thuê đất của nước chủ nhà trong thời gian ngắn, nhanh chóng chặt phá rừng trên tất cả diện tích đất mà họ đã thuê, rồi lại chuyển sang nước khác. Những người khai thác gỗ nhận thức rõ rằng, một khi họ đã trả tiền thuê đất, thì lợi ích lớn nhất của họ là phá rừng càng nhanh càng tốt mà không thực hiện bất kỳ cam kết tái trồng rừng nào và bỏ đi. Bằng cách này, những người khai thác gỗ đã tàn phá phần lớn những khu rừng ở các vùng đất thấp của bán đảo Malay, rồi Borneo, đảo Solomon và Sumatra, giờ tới lượt Philippines và sẽ sớm tới New Guinea, Amazon và lưu vực Congo. Vì vậy, những gì có lợi cho những người khai thác gỗ thì lại gây hại cho cư dân địa phương, họ bị mất những nguồn lâm sản của mình và phải gánh chịu những hậu quả do xói mòn đất và lắng đọng trầm tích trong các dòng suối. Khai thác rừng còn gây thiệt hai cho cả nước chủ nhà, gây tổn hại đa dạng sinh học của nước này và ảnh hưởng một phần tới nền tảng phát triển lâm nghiệp bền vững. Hậu quả của xung đột lợi ích này chính là sự tương phản giữa những hợp đồng thuê đất ngắn hạn với những hậu quả lâu dài khi công ty khai thác gỗ được phép sở hữu đất đai, tiến hành thu hoạch rừng liên tục và có thể thấy viễn cảnh lợi ích kinh tế lâu dài của mình (cũng như những hậu quả đối với cư dân và đất nước bản địa). Nông dân Trung Quốc những năm 1920 nhận ra một sự tương phản tương tự khi họ so sánh những bất lợi của việc bị khai thác bởi hai hình thức lãnh chúa. Một “tên cướp tĩnh tại” rất khó khai thác cạn kiệt tài nguyên, ví dụ như một lãnh chúa sinh sống ở địa phương ít nhất cũng phải để lại cho nông dân nguồn tài nguyên đủ để tạo ra lợi nhuận nhiều hơn cho chính lãnh chúa đó trong những năm sau này. Một “tên cướp lang thang”, như một công ty khai thác gỗ với những hợp đồng thuê đất ngắn hạn, sẽ sẵn sàng khai thác cạn kiệt tài nguyên so với một lãnh chúa địa phương và chúng sẽ chẳng để lại gì cho những nông dân trong vùng và chuyển sang khai thác nguồn lợi của những nông dân ở các vùng khác, khi tài nguyên ở nơi đây đã cạn kiệt.

Thêm một xung đột lợi ích nữa liên quan tới hành vi lý trí xuất hiện khi những lợi ích của nhóm người có quyền quyết định xung đột với lợi ích của những người còn lại trong xã hội. Nhất là khi nếu nhóm người nắm quyền quyết định đó có thể tự bảo vệ mình trước những tác động từ những hậu quả do hành động của họ gây ra, dường như họ sẵn sàng làm mọi việc vì lợi ích cá nhân của họ, không thèm đếm xỉa tới việc hành động đó có ảnh hưởng tới người khác hay không. Những mâu thuẫn này, được thể hiện một cách trắng trợn dưới thời độc tài Trujillo tại Cộng hòa Dominica và giới cầm quyền tại Haiti, đang ngày càng tăng trong xã hội Mỹ hiện đại, nơi những người giàu có khuynh hướng sống trong những dinh thự kín cổng cao tường (Phụ bản 36) và uống nước tinh khiết đóng chai. Ví dụ, các nhà điều hành của tập đoàn năng lượng Enron đã tính toán chính xác rằng họ có thể kiếm được những khoản tiền lớn cho bản thân bằng cách đánh cắp tiền bạc của tập đoàn và gây tổn hại tới lợi ích của tất cả những cổ đông khác, và cho rằng họ có khả năng trốn thoát trong canh bạc cuộc đời này.

Trong suốt lịch sử thế giới, việc hành động hay không hành động của những vị vua, những thủ lĩnh và những chính trị gia ích kỷ, chỉ biết quan tâm tới lợi ích của bản thân thường là nguyên nhân khiến xã hội sụp đổ, trong đó có những vị vua Maya, những thủ lĩnh của người Norse ở Greenland và những chính trị gia Rwanda hiện đại đã được thảo luận trong cuốn sách này. Trong cuốn sách The March of Folly (tạm dịch: Những cuộc chiến điên rồ) của mình, tác giả Barbara Tuchman dẫn chứng những ví dụ lịch sử nổi tiếng về những quyết định tai hại, từ việc những người Troa mang ngựa Troa vào trong thành, và các Giáo hoàng thời kỳ Phục hưng liên tiếp kích động những tín đồ Tin lành, cho tới quyết định của người Đức tiến hành cuộc chiến không giới hạn bằng tàu ngầm trong Thế chiến Thứ nhất (khiến người Mỹ phải tham chiến), và cuộc không kích Trân Châu Cảng của Nhật Bản năm 1941 cũng khiến Mỹ phải tham chiến trong Thế chiến Thứ hai. Đúng như Tuchman đã diễn đạt súc tích: “Động cơ dẫn tới những hành vi chính trị điên rồ của một thủ lĩnh chính là sự thèm khát quyền lực, mà sử gia La Mã Tacitus gọi đó là ‘niềm đam mê trắng trợn nhất’”. Chính do thèm khát quyền lực nên các thủ lĩnh trên đảo Phục Sinh và các vị vua Maya có những hành động khiến hoạt động phá rừng càng thêm trầm trọng chứ không ngăn chặn nó, bởi địa vị và uy tín của họ phụ thuộc vào việc dựng những bức tượng và những đền đài ngày càng lớn hơn so với các đối thủ của mình. Họ rơi vào một cuộc đua tinh thần, trong đó bất kỳ thủ lĩnh hay vị vua nào dựng những bức tượng hay đền đài nhỏ hơn sẽ bị coi thường và mất quyền lực, cho dù điều đó lại giúp bảo vệ những cánh rừng. Đây là một vấn đề phổ biến trong cạnh tranh về thanh thế được đánh giá chỉ trong một khoảng thời gian ngắn.

Ngược lại, thất bại trong việc giải quyết vấn đề đã được nhận thức do xung đột quyền lợi giữa nhóm người nắm quyền quyết định và đám đông dân chúng sẽ ít xảy ra trong những xã hội mà những nhóm người quyết định không thể tách mình ra khỏi những hậu quả do hành động của họ gây ra. Chúng ta sẽ thấy trong chương cuối cùng sự nhận thức cao về môi trường của người Hà Lan (kể cả các chính trị gia của họ) mang lại kết quả là do phần lớn dân chúng, cả những chính trị gia và những thường dân, đều sống trên vùng đất nằm dưới mực nước biển, nơi chỉ có những con đê chắn ngang giữa họ và nguy cơ ngập lụt, nên những quy hoạch đất đai ngớ ngẩn của các chính trị gia có thể cũng gây nguy hiểm cho chính bản thân họ. Tương tự, những người đàn ông mạnh mẽ (bigmen) ở cao nguyên New Guinea cũng sống trong những căn lều như những người khác, và do đó rất có trách nhiệm trong việc đáp ứng nhu cầu cần thiết của xã hội trong việc trồng rừng bền vững (xem Chương 9).

Tất cả những ví dụ trong các trang trước minh họa cho những tình huống mà trong đó một xã hội không cố gắng giải quyết một vấn đề đã nhận ra bởi việc duy trì vấn đề mang lại lợi ích cho một số người. Trái ngược với vấn đề được gọi là hành vi lý trí đó, một số xã hội sụp đổ khi cố gắng giải quyết vấn đề liên quan tới cái mà các nhà khoa học xã hội gọi là “hành vi phi lý”, ví dụ như những hành vi gây hại tới tất cả mọi người. Những hành vi phi lý này thường xuất hiện khi mỗi cá nhân trong chúng ta bị giằng xé bởi những mâu thuẫn giá trị: chúng ta có thể bỏ qua một hiện trạng xấu bởi nó được một số giá trị ăn sâu vào bản thân chúng ta ủng hộ. “Những lỗi cố chấp”, “những cái đầu đần độn”, “không rút lại những suy diễn từ những dấu hiệu tiêu cực” và “sự bế tắc hay trì trệ về tinh thần” là những thuật ngữ mà Barbara Tuchman sử dụng để chỉ đặc điểm chung này của con người. Các nhà tâm lý học sử dụng thuật ngữ “hiệu ứng chi phí ẩn” để chỉ một đặc điểm liên quan: Chúng ta cảm thấy miễn cưỡng khi từ bỏ một chính sách (hay bán một cổ phiếu) mà chúng ta đã đầu tư nhiều.

Những giá trị tôn giáo dường như đặc biệt ăn sâu vào chúng ta và bởi vậy thường gây ra những hành vi tai hại. Ví dụ, phần lớn tình trạng phá rừng ở đảo Phục Sinh là do một động cơ tôn giáo: lấy gỗ để vận chuyển và dựng những bức tượng đá khổng lồ khi đó là cách thể hiện sự hùng mạnh của các thủ lĩnh. Cùng thời kỳ đó, ở bán cầu phía bên kia cách đó 14.485 kilômét, người Norse tại Greenland đang mải mê theo đuổi những giá trị Cơ đốc giáo của mình. Những giá trị đó, như cá tính châu Âu của họ, lối sống bảo thủ trong một môi trường khắc nghiệt nơi thực tế hầu hết những cải tiến đều thất bại, và một xã hội mang tính cộng đồng và gắn bó chặt chẽ với nhau đã giúp họ tồn tại trong hàng thế kỷ. Nhưng những cá tính tuyệt vời đó (sau một thời gian dài mang lại thành công) cũng cản trở họ tiến hành những thay đổi mạnh mẽ về lối sống và áp dụng có chọn lựa những công nghệ của người Inuit để có thể giúp họ tồn tại lâu hơn.

Thế giới hiện đại còn cung cấp cho chúng ta hàng loạt ví dụ thực tế về những giá trị được say mê mà con người vẫn gắn bó chặt chẽ trong những điều kiện mà những giá trị đó không còn ý nghĩa. Người Australia mang từ Anh sang truyền thống chăn nuôi cừu để lấy len, việc định giá đất cao hơn thực tế theo tiêu chuẩn đất đai của Anh, cá tính của người Anh và kỳ tích xây dựng một nền dân chủ của Thế giới thứ nhất ở một vùng đất gần như xa xôi nhất thế giới (chỉ sau New Zealand). Nhưng hiện Australia cũng đang bắt đầu đánh giá rằng những giá trị đó cũng có những mặt trái. Trong thời kỳ hiện đại, một lý do tại sao người Montana miễn cưỡng giải quyết vấn đề môi trường của họ do khai thác mỏ, khai thác gỗ và hoạt động nông nghiệp gây ra là bởi đây là ba ngành trụ cột của nền kinh tế Montana, chúng thể hiện tinh thần và cá tính tiên phong của người Montana. Chính sách tự do cá nhân và tự cung tự cấp của Montana cũng khiến họ miễn cưỡng thừa nhận nhu cầu mới cần có quy hoạch của chính quyền và hạn chế các quyền cá nhân. Quyết tâm của Đảng Cộng sản Trung Quốc không vấp phải những sai lầm của chủ nghĩa tư bản khiến họ coi những vấn đề môi trường như một sai lầm của riêng chủ nghĩa tư bản, vì vậy càng làm cho vấn đề môi trường của Trung Quốc trầm trọng hơn. Quan điểm của Rwanda về những đại gia đình chỉ thích hợp với thời kỳ xa xưa do tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong cao, nhưng ngày nay nó đã bùng nổ thành thảm họa dân số. Với tôi, phần lớn những ý kiến phản đối ảnh hưởng của những vấn đề môi trường trong Thế giới thứ nhất hiện nay đều có liên quan tới các giá trị hình thành từ những giai đoạn đầu của cuộc sống và sẽ không bao giờ bị xét lại: “Những người cầm quyền và các nhà lập pháp luôn duy trì sự nguyên vẹn của những ý tưởng mà họ đã đưa ra từ ban đầu”, Barbara Tuchman khẳng định.

Thực sự rất khó quyết định liệu có nên từ bỏ một số giá trị cốt lõi khi chúng dường như đang dần không còn thích với sự tồn tại của xã hội. Đến thời điểm đó liệu chúng ta, với tư cách là mỗi cá nhân, thích chết hơn hay là thỏa hiệp và tồn tại? Hàng triệu con người trong các thời kỳ hiện đại thực tế đã từng phải đối mặt với quyết định mang tính sống còn của bản thân, liệu có nên phản bội bè bạn hay họ hàng, chấp nhận sống trong một chế độ độc tài ghê tởm, sống như những nô lệ tinh thần hay chạy khỏi đất nước của mình để được sống. Nhiều đất nước và xã hội đôi khi cũng phải ra những quyết định tập thể mang tính chất sống còn tương tự.

Tất cả những quyết định này đều như một canh bạc, bởi chúng ta thường không thể chắc chắn rằng tiếp tục gắn bó với những giá trị cốt lõi sẽ là một tai họa, hay (ngược lại) từ bỏ chúng sẽ đảm bảo sự tồn tại. Khi nỗ lực sinh sống như những nông dân Cơ đốc giáo, thực tế người Norse ở Greenland đã quyết định rằng họ thà chết như những nông dân Cơ đốc giáo còn hơn là sống như người Inuit; và trong cuộc chơi này họ đã thua. Trong số năm nước Đông Âu nhỏ bé phải đối mặt với nguy cơ áp đảo bằng quân sự của Nga, ba nước Estonia, Latvia và Lithuania tự nguyện dâng nộp sự độc lập của mình vào năm 1939 mà không hề xảy ra một cuộc chiến nào, chỉ riêng nước Phần Lan ngoan cường chiến đấu chống lại Nga từ năm 1939-1940 và bảo vệ được chủ quyền độc lập của mình. Không may mắn như Phần Lan, Hungaria cũng chiến đấu năm 1956 nhưng thất bại và để mất độc lập. Theo các bạn, nước nào là nước khôn ngoan, và ai có thể tiên liệu được rằng nước Phần Lan bé nhỏ sẽ thắng trong canh bạc với người khổng lồ này?

Có lẽ điểm mấu chốt của thành công hay thất bại của một xã hội là biết nên duy trì những giá trị cốt lõi nào, nên từ bỏ những giá trị nào và thay thế bằng những giá trị mới khi thời gian thay đổi. Trong vòng 60 năm qua, những nước hùng mạnh nhất thế giới cũng đã từ bỏ những giá trị ăn sâu trong cuộc sống của họ từ nhiều năm nay và từng là trọng tâm trong hình ảnh của đất nước họ, trong khi vẫn duy trì những giá trị khác. Anh và Pháp từ bỏ vai trò hàng thế kỷ là những cường quốc hành động độc lập; Nhật Bản từ bỏ truyền thống quân sự và các lực lượng vũ trang; và Nga từ bỏ thể chế xã hội chủ nghĩa lâu đời. Mỹ từ bỏ phần lớn (nhưng chưa phải là toàn bộ) những giá trị trước kia về pháp luật phân biệt chủng tộc, phân biệt đối xử đồng tính, vai trò thụ động của phụ nữ và kiềm chế tình dục. Australia hiện đang đánh giá lại hiện trạng xã hội nông nghiệp theo kiểu Anh của mình. Các xã hội và các cá nhân thành công có thể là những người đã quyết định được những vấn đề khó khăn này, và họ đã may mắn thắng trong canh bạc của mình. Hiện cả thế giới cũng đang phải đối mặt với những quyết định tương tự về các vấn đề môi trường của mình mà chúng ta sẽ xem xét ở chương cuối.

Trên đây là những ví dụ về hành vi phi lý có liên hệ như thế nào với những mâu thuẫn giá trị có hoặc không cản trở xã hội cố gắng giải quyết những vấn đề đã nhận thức được. Ngoài ra còn có những động cơ phi lý khác phổ biến hơn khiến xã hội không xác định được vấn đề bao gồm cả việc công chúng có thể không ưa những người đầu tiên phát hiện và lên tiếng cảnh báo vấn đề, như Đảng Xanh của bang Tasmania ban đầu phản đối việc du nhập cáo vào Tasmania. Công chúng có thể không mấy để ý tới những lời cảnh báo bởi trước đó đã có những cảnh báo rõ ràng hoàn toàn sai lầm, giống như câu chuyện ngụ ngôn của Aesop về số phận của cậu bé chăn cừu cứ suốt ngày giả vờ hét lên: “Sói!” và khi sói xuất hiện thật thì cậu đã phải khóc lóc, van xin được giúp đỡ nhưng vẫn bị mọi người lờ đi. Công chúng cũng có thể trốn tránh trách nhiệm khi viện cớ ISEP - Đó là vấn đề của người khác.

Một phần những thất bại phi lý do không cố gắng giải quyết vấn đề đã nhận ra thường xuất hiện từ những mâu thuẫn giữa những động cơ trước mắt với những động cơ lâu dài của cùng một cá nhân. Nông dân Rwanda và Haiti, và hàng tỷ người khác trên thế giới hiện đang rơi vào tình trạng nghèo đói tới kiệt quệ, và chỉ biết lo kiếm miếng ăn cho ngày hôm sau. Những ngư dân nghèo đói ở các vùng biển nhiệt đới có đá ngầm dùng thuốc nổ và xyanua để đánh bắt các loài hải sản sống trong các rạ san hô (và vô tình tiêu diệt cả những rạ san hô) để nuôi nấng con cái họ, mặc dù họ hoàn toàn ý thức được rằng hành động của họ đang tàn phá nguồn sống trong tương lai của bản thân họ. Ngay cả các chính phủ cũng thường xuyên chú trọng vào một trọng tâm trước mắt: họ cảm thấy bị áp lực bởi những tai họa sắp diễn ra và chỉ chú ý tới những vấn đề sắp bùng nổ. Ví dụ, một người bạn của tôi hiện có mối quan hệ mật thiết với chính quyền liên bang hiện nay tại Washington D.C cho tôi biết rằng, lần đầu tiên tới thăm Washington sau cuộc bầu cử toàn quốc năm 2000, anh thấy các lãnh đạo của chính phủ mới chỉ chú trọng một điều mà anh gọi là “trọng tâm 90 ngày”: Họ chỉ nói về những vấn đề có nguy cơ gây tai họa trong vòng 90 ngày. Các nhà kinh tế biện hộ cho những trọng tâm phi lý chú trọng vào những lợi ích ngắn hạn là hành vi “chiết khấu” những lợi ích của tương lai. Họ lý luận rằng thu hoạch tài nguyên ngay từ bây giờ tốt hơn là để sau này mới thu hoạch, bởi lợi nhuận từ những gì thu hoạch được hôm nay có thể đầu tư, và từ đó lãi suất đầu tư có thể được tích lũy từ bây giờ cho tới thời điểm dự kiến thu hoạch trong tương lai, nên việc thu hoạch ngay từ bây giờ chắc chắn sẽ giá trị hơn thu hoạch trong tương lai. Trong trường hợp này, những thế hệ mai sau sẽ phải gánh ch