Đọc thêm
Dưới đây là những gợi ý về một số tài liệu tham khảo có chọn lựa dành cho những người muốn đọc thêm. Thay vì dành một phần cho các thư mục khai triển, tôi muốn liệt kê một số ấn phẩm gần đây nhằm cung cấp danh mục đầy đủ những tài liệu được xuất bản trước cuốn sách này. Ngoài ra, tôi cũng trích dẫn một số cuốn sách hoặc bài viết quan trọng. Đầu tiên là tên tạp chí (phần in nghiêng) sau đó là số tập, sau dấu phẩy là số trang đầu và trang cuối, và số năm xuất bản đặt trong ngoặc đơn.
Mở đầu
Những nghiên cứu so sánh thuyết phục về sự sụp đổ của các xã hội tiên tiến cổ xưa trên toàn thế giới bao gồm Joseph Tainter, Sự sụp đổ của các xã hội tiên tiến (Cambridge: Nhà xuất bản Đại học Cambridge, 1988), và Norman Yoffee và George Cowgill với cuốn Sự sụp đổ của các nhà nước và nền văn minh cổ xưa (Tucson: Nhà xuất bản Đại học Arizona, 1988). Những cuốn sách đặc biệt chú trọng vào những tác động môi trường của các xã hội cổ xưa, hay về vai trò của những tác động này tới sự sụp đổ xã hội, bao gồm Clive Ponting, Lịch sử thế giới xanh: Môi trường và sự sụp đổ của những nền văn minh vĩ đại (New York: Penguin, 1991); Charles Redman, Tác động của con người tới môi trường cổ xưa (Tucson: Nhà xuất bản đại học Arizona, 1999); D. M. Kammen, K. R. Smith, K. T. Rambo, và M. A. K. Khalil với cuốn Tác động môi trường của con người thời kì tiền công nghiệp: Những bài học cho chính sách và khoa học thay đổi toàn cầu? (một số của tạp chí Chemosphere, tập 29, số 5, tháng Chín năm 1994); và Charles Redman, Steven James, Paul Fish và J. Daniel Rogers với cuốn Khảo cổ học về sự thay đổi toàn cầu: Tác động của con người tới môi trường (Washington, D.C: Smithsonian Books, 2004). Trong số những cuốn sách đề cập vai trò của biến đổi khí hậu với những nghiên cứu so sánh giữa các xã hội cổ đại là ba cuốn của Brian Fagan: Lụt lội, đói kém và các Hoàng đế: El Nino và số phận của các nền văn minh (New York: Basic Books, 1999); Thời kỳ Tiểu Băng hà (New York: Basic Books, 2001); và Mùa hè dài: Khí hậu làm nền văn minh thay đổi như thế nào (New York: Basic Books, 2004).
Những nghiên cứu so sánh về mối quan hệ giữa sự hưng thịng và suy vong của các nhà nước bao gồm Peter Turchin, Động lực học lịch sử: Tại sao những nhà nước hưng thịnh và suy vong (Princeton, N. J.: Nhà xuất bản Đại học Princeton, 2003), và Jack Goldstone, Cách mạng và sự nổi loạn trong thời kì đầu của thế giới hiện đại (Berkeley: Nhà xuất bản Đại học California, 1991).
Chương 1
Các giai đoạn lịch sử của bang Montana, bao gồm Joseph Howard, Montana: Cao rộng và tươi đẹp (New Haven: Nhà xuất bản Đại học Yale, 1943); K. Ross Toole, Montana: Vùng đất kỳ lạ (Norman: Nhà xuất bản Đại học Oklahoma, 1959); K. Ross Toole, Montana thế kỷ XX: Bang của nhiều thái cực (Norman: Nhà xuất bản Đại học Oklahoma, 1972); và Micheal Malone, Richard Roeder, và William Lang, Montana: Lịch sử hai thế kỷ, tái bản (Seattle: Nhà xuất bản đại học Washington, 1991). Russ Lawrence, tác giả cuốn sách viết về thung lũng Bitterroot, Thung lũng Bitterroot của Montana (Stevensville, Montana: Nhà xuất bản Stoneydale, 1991). Bertha Francis, Mảnh đất của núi tuyết (Butte, Montana: Nhà xuất bản Caxton, 1955) viết về lịch sử của lưu vực Big Hole. Thomas Power, Những phong cảnh bị mất và nền kinh tế suy thoái: Cuộc kiếm tìm giá trị của địa phương (Washington, D.C: Nhà xuất bản Island, 1996), và Thomas Power và Richard Barrett, Kinh tế học hậu cao bồi: Cái giá và sự thịnh vượng của miền Tây mới (Washington, D.C: Nhà xuất bản Island, 2001), thảo luận về những vấn đề kinh tế của Montana và vùng núi phía Tây nước Mỹ. Hai cuốn sách về lịch sử và tác động của ngành mỏ tại Montana là David Stiller, Vết thương miền Tây: Montana, ngành mỏ và môi trường (Lincoln: Nhà xuất bản đại học Nebraska, 2000) và Michael Malone, Cuộc chiến tranh đất đai: Khai thác mỏ và chính trị ở biên giới phía bắc, 1864-1906 (Helena, Montana: Nhà xuất bản Lịch sử xã hội Montana, 1981). Những cuốn sách của Stephen Pyne về cháy rừng bao gồm Hỏa hoạn ở nước Mỹ: Một lịch sử văn hóa của những vụ cháy ở những vùng đất hoang dã và ở nông thôn (Princeton, New Jersey: Nhà xuất bản Đại học Princeton, 1982) và Năm hỏa hoạn: Câu chuyện về những vụ cháy nổi tiếng năm 1910 (New York: Viking Penguin, 2001). Những thông tin về những vụ cháy ở miền Tây nước Mỹ của hai tác giả, trong đó có một người là công dân của thung lũng Bitterroot, là Stephen Arno và Steven Allison-Bunnell, Những ngọn lửa trong khu rừng của chúng ta: Thảm họa hay sự hồi sinh? (Washington, D.C: Nhà xuất bản Island, 2002). Harsh Bais và những người khác, “Sự cảm nhiễm qua lại và sự lấn át của những thực vật có hại: từ các phân tử và gen tới sự tương tác giữa các loài” (Tạp chí Khoa học 301: 1377-1380 (2003)) viết về những tác hại cây xạ cúc đốm lấn át những loài thực vật bản địa, trong đó có hiện tượng rễ cây tiết ra một độc chất mà bản thân loài cỏ đó cũng không tiếp thu được. Những tác động của hoạt động trang trại tới miền Tây nước Mỹ nói chung, kể cả Montana, của tác giả Lynn Jacobs, Rác thải miền Tây: Hoạt động trang trại trên đất công (Tucson: Lynn Jacobs, 1991).
Thông tin hiện tại về một số vấn đề của Montana được thảo luận trong chương này có thể tham khảo từ các trang web và các địa chỉ email của các tổ chức liên quan về các vấn đề này. Các tổ chức này có địa chỉ Internet như sau: Bitterroot Land Trust: www.BitterrootLandTrust.org. Phòng Thương mại Bitterroot Valley: www.bvchamber.com. Diễn đàn Nước Bitterroot: [email protected]. Những người bạn của Bitterroot: www.friendsofthebitterroot.org. Hiệp hội Kiểm soát cỏ dại Montana: www.mtweed.org. Gỗ Plum Creek: www.plumcreek.com. Văn phòng Missoula của tổ chức bảo vệ cá hồi Trout Unlimited: [email protected]. Hiệp hội Bệnh Quay cuồng: www.whirling-dis-ease.org. Viện Sonoran: www.sonoran.org/programs/si_se. Trung tâm Rocky Mountain West: www.crmw.org/read. Sở Lao động và Công nghiệp Montana: http://rad.dli.state.mt.us/pubs/profile.asp. Dự án Những chỉ số thu nhập Tây Bắc: http://niip.wsu.edu/.
Chương 2
Những độc giả quan tâm tới nhiều vấn đề muốn có sự hiểu biết tổng quát về đảo Phục Sinh nên bắt đầu với ba cuốn sách: Jonh Flenley và Paul Bahn, Những bí ẩn của đảo Phục Sinh (New York: Nhà xuất bản Đại học Oxford, 2003), tái bản Paul Bahn và John Flenley, Đảo Phục Sinh, Hòn đảo Trái đất (London: Thames và Hudson, 1992); Jo Anne Van Tilburg, Đảo Phục Sinh: Khảo cổ học, Sinh thái học và Văn hóa (Washington, D.C: Nhà xuất bản Viện Smithsonian, 1994); và Jo Anne Van Tilnurg, Giữa những tượng đá khổng lồ (New York: Scribner, 2003). Cuốn sách cuối cùng mà tôi muốn đề cập là cuốn tiểu sử của Katherine Routledge, một nữ khảo cổ học lỗi lạc người Anh, năm 1914-1915 bà từng tới đảo Phục Sinh và phỏng vấn những cư dân trên đảo, ký ức về những nghi lễ Orongo cuối cùng và cuộc đời bà sinh động như một cuốn tiểu thuyết lạ thường.
Hai cuốn sách khác gần đây là Catherine và Michel Orliac, Những vị thần thầm lặng: Những bí ẩn của đảo Phục Sinh (London: Thames và Hudson, 1995), một bài viết tổng quát ngắn; và John Loret và John Tancredi với cuốn: Đảo Phục Sinh: Thám hiểm khoa học vào các vấn đề môi trường của thế giới trong thế giới vi mô (New York: Kluwer/Plenum, 2003), 13 chương về kết quả những cuộc thám hiểm gần đây. Bất cứ ai thực sự quan tâm tới đảo Phục Sinh sẽ muốn đọc hai tác phẩm kinh điển: Tự thuật của Katherine Routledge, Bí ẩn của đảo Phục Sinh (London: Sifton Praed, 1919, Nhà xuất bản Adventure Unlimited, Kemptom, 111, 1988), và Alfred Metraux, Dân tộc học về đảo Phục Sinh (Honolulu: Bản tin Bảo tàng Bishop 160, 1940, tái bản 1971). Erik Kjellgren với cuốn Sự biệt lập huy hoàng: Nghệ thuật của đảo Phục Sinh (New York: Bảo tàng nghệ thuật thủ đô, 2001) sưu tập hàng chục bức ảnh, trong đó có nhiều ảnh màu, về thuật khắc đá, những bảng rongo-rongo, những tượng đá moia kavakava, những hình trang phục bằng vỏ cây và một vòng lông chim đỏ cảm hứng để cư dân Phục Sinh tạc những chiếc pukao bằng đá đỏ.
Những bài viết của Jo Anne Van Tilburg bao gồm: “Hoạt động khảo cổ của đảo Phục Sinh (Rapa Nui) từ năm 1955: một số ý kiến về sự phát triển, các vấn đề và tiềm năng”, các trang từ 555-577 trong J. M. Davidson và những người khác với cuốn Lịch sử văn hóa đại dương: Những bài viết tỏ lòng kính trọng Roger Green (Số đặc biệt của tạp chí Khảo cổ New Zealand, 1996); Jo Anne Van Tilburg và Cristian Arevalo Pakarati, “Quan điểm của những thợ điêu khắc Rapanui: những quan sát và ghi chép về thử nghiệm tái tạo tượng đá nguyên khối (moai)”, các trang từ 280-290 trong A. Herle và những người khác với cuốn Nghệ thuật Thái Bình Dương: Sự kiên trì, thay đổi và ý nghĩa (Bathurst, Australia: Nhà xuất bản Crawford, 2002) và Jo Anne Van Tilburg và Ted Ralston, “Cự thạch và thủy thủ: Khảo cổ thực nghiệm trên đảo Phục Sinh (Rapa Nui)”, in trong K. L. Johnson với cuốn Tiến lên và tiến lên! Những bài viết tỏ lòng kính trọng Clement W. Meighan (Nhà xuất bản Đại học Mỹ). Hai cuốn sau viết về những nghiên cứu thực nghiệm nhằm tìm hiểu xem có bao nhiêu người tham gia tạc và vận chuyển các bức tượng, và sẽ phải mất bao lâu.
Có nhiều cuốn sách hay mà độc giả thích đọc đủ các loại sách có thể tiếp cận về sự định cư của con người ở Polynesia cũng như toàn Thái Bình Dương. Đó là: Patrick Kirch, Trên những con đường đầy gió: Lịch sử khảo cổ học của các đảo Thái Bình Dương trước khi người Châu Âu xuất hiện (Berkeley: Nhà xuất bản Đại hcọ Califorlia, 2000), Những người Lapita: Tổ tiên của Thế giới đại dương (Oxford: Blackwell,1997), và Cuộc cách mạng của các tù trưởng Polynesia (Cambridge: Nhà xuất bản Đại học Cambridge, 1984); Peter Bellwood, Người Polynesia: Tiền sử học của đảo quốc, tái bản có sửa chữa (London: Thames và Hudson, 1987); Geoffey Irwin, Những cuộc thám hiểm và thuộc địa hóa thời tiền sử của Thái Bình Dương (Cambridge: Nhà xuất bản Đại học Cambridge 1992). David Lewis, Chúng ta, những nhà hàng hải (Honolulu nhà xuất bản Hawaii, 1972) là cuốn sách viết về những kỹ thuật hàng hải truyền thống độc đáo của cư dân Thái Bình Dương, theo lời kể của một thủy thủ hiện đại từng nghiên cứu những kỹ thuật này bằng cách tự mình thực hiện những chuyến đi biển dài ngày với những thổ dân từng là các thủy thủ hiện vẫn còn sống. Patrick Kirch và Terry Hunt với cuốn: Lịch sử sinh thái học của các đảo Thái Bình Dương: Môi trường thời tiền sử và những thay đổi phong cảnh (New Haven, Conn.,: Nhà xuất bản Đại học Yale, 1997) bao gồm các bài viết về những tác động của con người tới môi trường các đảo Thái Bình Dương, ngoài đảo Phục sinh.
Hai cuốn sách của Thor Heyerdahl truyền cảm hứng cho tôi và nhiều người khác về đảo Phục Sinh là Cuộc thám hiểm Kon-Tiki (London: Allen&Unwin, 1950) và Aku-Aku: Bí mật của đảo Phục Sinh (London: Allen&Unwin, 1958). Một lý giải khác biệt xuất hiện từ những cuộc khai quật của các nhà khảo cổ mà Heyerdahl đưa tới đảo Phục Sinh, như đã mô tả trong Thor Heyerdahl và E. Ferdon, Jr., với cuốn: Báo cáo về chuyến thám hiểm khảo cổ của đoàn Na Uy tới đảo Phục Sinh và Đông Thái Bình Dương, tập 1: Khảo cổ tại Đảo Phục sinh (London: Allen&Unwin, 1961). Steven Fischer, Khám phá những nét chạm trổ (New York: Copernicus, 1997) và Rongorongo: Mật mã của đảo Phục Sinh (Oxford: Nhà xuất bản Đại học Oxford, 1997), viết về những nỗ lực của Fischer nhằm cố gắng giải mã những ký tự Rongorongo. Andrew Sharp với cuốn Nhật ký của Jacob Roggeveen (London: Nhà xuất bản Đại học Oxford, 1970), tái bản, các trang từ 89-106, là những mô tả của nhân chứng châu Âu đầu tiên về đảo Phục sinh.
Một bản đồ khảo cổ sơ lược của đảo Phục sinh được Claudio Cristino, Patricia Vargas, và R.Izaurieta tóm lược trong cuốn Atlas Arqueologico de Isla de Pascua (Santiago: Đại học Chile, 1981). Các bài viết chi tiết về đảo Phục sinh được xuất bản thường xuyên trong tạp chí Rapa Nui của Hiệp hội đảo Phục Sinh, tạp chí cũng thi thoảng đăng tải tham luận trong các hội nghị về đảo này. Sưu tập những bài viết quan trọng là Claudio Cristino, Patricia Vargas với cuốn Hội nghị quốc tế đầu tiên, đảo Phục sinh và Đông Polynesia, tập 1 Khảo cổ (Santiago: Đại học Chile, 1988); Patricia Vargas Casanova với cuốn Đảo Phục Sinh và Đông Polynesia thời tiền sử (Santiago: Đại học Chile, 1998); và Christopher Stevenson và William Ayres với cuốn Khảo cổ đảo Phục Sinh: Nghiên cứu về văn hóa Rapa Nui thời kỳ đầu (Los Osos, Calif,:Hiệp hội đảo Phục Sinh, 2000). Một tóm lược lịch sử các mối quan hệ văn hóa được tìm thấy trong cuốn Isla de Pascua: Procesos, Alcanses y Efectos de la Aculturacion (Easter Island: Đại học Chile, 1984);
David Steadman viết về việc nhận dạng các xương chim và các loại xương khác được khai quật tại bãi biển Anakena trong ba bài viết: “Sự tuyệt chủng của những loài chim ở Đông Polynesia: Một đánh giá về di tích, và so sánh với những nhóm khác của các đảo Thái Bình Dương” (Tạp chí Khoa học khảo cổ 16: 177-205 (1989), và “Địa tầng học, niên đại và nội dung văn hóa của một bộ sưu tập hệ động vật nguyên thủy từ đảo Phục Sinh” (Các quan điểm của Châu Á 33: 79-96 (1994), cùng với Patricia Vargas và Claudio Cristino; và “Sự diệt chủng thời tiền sử của các loài chim đảo Phục Sinh: đa dạng sinh học gặp gỡ khảo cổ học động vật” (Tạp chí Khoa học 267: 1123-1131(1995)), William Ayres, “Sự tồn tại của đảo Phục Sinh” (Journal de la societe des Oceanistes 80:103-124 (1985)) cung cấp nhiều bằng chứng khảo cổ hơn về các loại thực phẩm mà cư dân Đảo Phục Sinh đã tiêu thụ. Đối với những bí ẩn của cọ Phục Sinh và kiến thức khác từ phấn hoa có trong những lõi trầm tích, xem J. R. Flenley và Sarah King, “Hồ sơ phấn hoa kỷ thứ tư muộn từ đảo Phục Sinh” (Tạp chí Tự nhiên 307: 47-50 (1984), J. Dransfield và những người khác, “Loài cọ tuyệt chủng gần đây ở đảo Phục Sinh” (Tạp chí Tự nhiên 312: 750-752 (1984)), và J. R. Flenley và những người khác, “Thực vật kỷ thứ tư muộn và lịch sử khí hậu của Đảo Phục Sinh” (Tạp chí Khoa học Kỷ thứ tư 6: 85-115 (1991)). Những phát hiện của Catherine Orliac được công bố trong một bài viết trong cuốn sách trích dẫn bên trên do Steven và Ayres biên tập, và trong cuốn “Donnees nouvelles sur la composition de la flore de Pile de Paques” (Tạp chí Xã hội đại dương 2: 23-31 (1998)). Trong số những tài liệu về những cuộc khảo cổ của Claudio Cristino và các đồng nghiệp có cuốn “ Lịch sử định cư tại đồng bằng bờ biển Rapa Nui (Tạp chí Khảo cổ Tân Thế giới 7: 29-38 (1986) của Christopher Stevenson và Claudio Cristino; Daris Swindler, Andrea Drusini và Claudio Cristino, “Ba loại thực vật làm thức ăn của cư dân đảo Phục Sinh thời kỳ tiền sử: tầm quan trọng về nhân loại học” (Tạp chí Xã hội Polynesia 106: 175-183 (1997)); và Claudio Cristino và Patricia Vargas, “Bệ đá Tongariki đảo Phục Sinh: Tầm quan trọng của niên đại và chính trị xã hội” (Tạp chí Rapa Nui 13: 67-69 (1999)).
Các bài viết của Christopher Stevenson về hoạt động nông nghiệp và việc sử dụng đá để bảo vệ cây mới trồng bao gồm Điều tra khảo cổ về Đảo Phục Sinh; Maunga Tari: Một tổ hợp nông nghiệp trên cao (Los Osos, Calif.: Hiệp hội đảo Phục Sinh, 1995), (với Joan Wozniak và Sonia Haoa) “Sản xuất nông nghiệp thời tiền sử ở đảo Phục Sinh (Rapa Nui), Chile” (Tạp chí Cổ xưa 73: 801-812 (1999), và (với Thegn Lade foged và Sonia Haoa) “Chiến lược sản xuất trong những môi trường không ổn định: hoạt động nông nghiệp thời cổ xưa trên đảo Phục Sinh” (Tạp chí Rapa Nui 16: 17-22 (2002)). Christopher Stevenson, “Phân vùng trên đảo Phục Sinh trong thế kỷ XVI: Bằng chứng từ sự phân bố trên những kiến trúc nhà mồ”, các trang từ 213-229 trong T. Ladeforged và M. Graves với cuốn Phong cảnh Thái Bình Dương (Los Osos, Calif.: Hiệp hội đảo Phục Sinh, 2002), tái tạo lãnh thổ của 11 bộ tộc xa xưa trên đảo Phục Sinh.
Dale Lightfoot, “Hình thái học và sinh thái học của nền nông nghiệp dùng đá bảo vệ cây mới trồng” (Tạp chí Đại lý 84: 172-185 (1994)) và Carleton White và những người khác, “Bảo vệ nước qua một kỹ thuật làm vườn của người Anasazi (Tạp chí Khoa học New Mexico 38: 251-278 (1998)) cung cấp bằng chứng về hiệu quả của việc dùng đá bảo vệ cây mới trồng ở những nơi khác trên thế giới. Andreas Mieth và Hans-Rudolf Bork “Sự suy thoái của các nguồn tài nguyên môi trường trong sử dụng đất thời kỳ tiền sử trên bán đảo Poike, đảo Phục Sinh (Rapa Nui)” (Tạp chí Rapa Nui 17: 34-41 (2003) thảo luận về tình trạng phá rừng và xói mòn trên bán đảo Poike. Karsten Haase và những người khác, “Tiến trình hình thành đá dung nham trên đảo Phục Sinh và những ngọn núi dưới đáy biển, những ngọn núi lửa trên biển Đông Nam Thái Bình Dương” (Tạp chí Thạch học 38: 785-813 (1997)) phân tích niên đại và thành phần hóa học của các núi lửa của Phục Sinh. Erika Hagelberg và những người khác, “DNA của các cư dân Phục Sinh thời xưa” (Tạp chí Tự nhiên 369: 25-26 (1994)) phân tích DNA trong 12 hài cốt của cư dân đảo Phục Sinh. James Brander và M. Scott Taylor, “Kinh tế đơn giản của đảo Phục Sinh: Một hình thái Ricardo-Malthus trong việc sử dụng những nguồn tài nguyên có thể tái sinh” (Tạp chí Kinh tế Mỹ 38: 119-138 (1998)) đưa ra quan điểm của một nhà kinh tế về tình trạng khai thác quá mức trên đảo Phục Sinh.
Chương 3
Sự định cư của con người ở Đông Nam Polynesia được đề cập trong hành loạt tài liệu về sự định cư của con người ở Polynesia mà tôi đã cung cấp trong phần Đọc thêm của Chương 2. Quần đảo Pitcairn: Địa lý sinh vật, Sinh thái học và Tiền sử (London: Nhà xuất bản Học thuật, 1995), do Tim Benton và Tom Spencer biên tập, là sản phẩm của một cuộc thám hiểm tới Pitcairn, Henderson và những đảo san hô Oeno và Ducie năm 1991-1992. Cuốn sách gồm 27 chương viết về địa lý, thực vật, các loài chim (kể cả những loài đã tuyệt chủng trên đảo Henderson), cá, các loài động vật không xương sống trên cạn và dưới biển và những tác động của con người tới những hòn đảo này.
Phần lớn thông tin của chúng ta về sự định cư và từ bỏ Pitcairn và Henderson của người Polynesia đều xuất phát từ những nghiên cứu của Marshall Weisler và những đồng nghiệp của ông. Weisler có một bài viết tổng quát về nghiên cứu của ông trong chương “Đảo Henderson thời tiền sử: Thuộc địa hóa và sự tuyệt chủng trên một đảo Polynesia xa xôi”, các trang 436-466 của cuốn sách đã trích dẫn bên trên của hai tác giả Benton và Spencer. Hai bài viết tổng quát khác của Weisler là “Sự định cư trong môi trường khó trồng trọt của người Polynesia: Bằng chứng mới từ đảo Henderson” (Tạp chí Khảo cổ Nông nghiệp 21: 83-102 (1994)) và “Một khảo sát khảo cổ về Mangareva: ý nghĩa của những hình thái định cư trong vùng và những nghiên cứu liên quan” (Loài người và Văn hóa và châu Đại Dương 12: 61-85 (1996)). Bốn bài viết của Weisler lý giải các phân tích hóa học trên những lưỡi rìu bằng đá bazan giúp xác định đá bazan có nguồn gốc từ đảo nào, từ đó xác định những tuyến đường thương mại: “Những nghiên cứu về nguồn gốc vật liệu làm rìu bằng đá bazan của người Polynesia: Những xem xét và đề xuất nhằm nâng cấp cơ sở dữ liệu vùng” (Tạp chí Quan điểm châu Á 32: 61-83 (1993)); “Những phân tích đồng vị pb của đá bazan và sự định cư thời tiền sử của người Polynesia”, đồng tác gải với Jon D.Whitehead (Những thành tựu của Viện khoa học Quốc Gia, Mỹ 92: 1881-1885 (1995)); “Sự di chuyển các công cụ bằng đá giữa các đảo và quần đảo ở Polynesia thời tiền sử”, đồng tác giả với Patrick V. Kirch (Những thành tựu của Viện Khoa học Quốc gia, Mỹ 92: 1881-1885 (1996)) và “Bằng chứng rõ ràng về sự liên hệ lẫn nhau tại Polynesia” (Nhân chủng học đương đại 39:521-532 (1998). Ba bài viết về mạng lưới thương mại Đông và Đông Nam Polynesia: Marshall Weisler và R.C.Green, “Các phương pháp chính thể luận nghiên cứu những mối quan hệ của Polynesia”, các trang từ 413-453 trong Martin Jones và Peter Sheppard với cuốn Những mối liên hệ và phương hướng mới của Austrailia (Auckland, N.Z.: Khoa Nhân chủng học, Đại học Auckland, 2001); R. C. Green và Marshall Weisler, “Trình tự và thời điểm mở rộng địa lý của người Mangareva về hướng Đông Nam Polynesia” (Các quan điểm châu Á 41: 213-241 (2002)): và Marshall Weisler, “Trung tâm và thất bại của chuyến di dài ngày ở Đông Polynesia”, các trang từ 257-273 trong Michael D. Glascock với cuốn Bằng chứng địa hóa học của những trao đổi ở khoảng cách xa xôi (London: Bergin và Garvey, 2002). Ba bài viết về các loại hoa màu và những hài cốt trên đảo Henderson là Jon G. Hather và Marshall Weisler, “Cây khoai nước đầm lầy khổng lồ thời tiền sử (Cyrtosperma chamissionis) từ đảo Henderson, Đông Nam Polynesia” (Tạp chí Khoa học Thái Bình Dương 54: 149-156 (2000); Sara Collins và Marshall Weisler, “Tàn tích răng và xương của con người trên đảo Henderson, Đông Nam Polynesia” (Tạp chí Con người và Văn hóa châu Đại Dương 16: 67-85 (2000)); và Vincent Stefan, Sara Collins và Marshall Weisler, “Những chiếc sọ trên đảo Henderson và ý nghĩa của chúng với tiền sử học Đông Nam Polynesia” (Tạp chí Xã hội Polynesia 111: 371-383 (2002)).
Không ai quan tâm tới Pitcairn và Henderson và yêu thích những câu chuyện vĩ đại lại có thể bỏ qua tiểu thuyết Đảo Pitcairn của Charles Nordhoff và James Norman Hall (Boston: Little, Brown, 1934) - tái hiện cuộc sống và những kẻ giết người trên chuyến tàu nổi loạn H.M.S Bounty và những người bạn Polynesia của họ trên đảo Pitcairn sau khi cướp tàu Bounty và ném thuyền trưởng Bligh và những người ủng hộ ông ta xuống biển. Caroline Alexander, The Bounty (New York: Viking, 2003) đã rất nỗ lực tìm hiểu điều gì đã xảy ra trên thực tế.
Chương 4
Tiền sử vùng Tây Nam nước Mỹ được mô tả trong nhiều cuốn sách dành cho những người ham đọc nhiều thể loại và có nhiều ảnh minh họa, thường là ảnh màu. Những cuốn sách đó bao gồm: Robert Lister và Florence Lister, Hẻm núi Chaco (Albuquerque: Nhà xuất bản Đại học New Mexico, 1981); Stephen Lekson, Nghệ thuật kiến trúc của người da đỏ tại Hẻm núi Chaco, New Mexico (Albuquerque: Nhà xuất bản Đại học New Mexico. 1986); William Ferguson và Arthur Rohn, Những di tích Anasazi ở Tây Nam qua màu sắc (Albuquerque: Nhà xuất bản Đại học New Mexico, 1987) Linda Cordell, Những người Anh Điêng cổ xưa (Montreal: Nhà xuất bản St.Remy, 1994); Linda Cordell, Khảo cổ vùng Tây Nam, tái bản lần thứ hai. (Sandiego: Nhà xuất bản Học thuật, 1997); và David Stuart, Người Anasazi của nước Mỹ (Albuquerque: Nhà xuất bản Đại học New Mexico, 2000).
Không nên bỏ qua ba cuốn sách minh họa về những đồ gốm được trang trí sặc sỡ của người Mimbres: J. J. Bordy, Đồ gốm trang trí của người Mimbres (Santa Fe: Trường Nghiên cứu Mỹ, 1997); Steven LeBlanc, Người Mimbres: Những họa sĩ Anh Điêng cổ đại và Tây Nam nước Mỹ (London: Thames và Hudson, 1983); và Tony Berlant, Steven LeBlanc, Catherine Scott, và J. J. Brody, Đồ gốm Mimbres: Nghệ thuật cổ xưa Tây Nam nước Mỹ (New York: Nhà xuất bản Hudson Hill, 1983).
Ba công trình nghiên cứu chi tiết về chiến tranh và bạo lực của người Anasazi với các bộ tộc láng giềng là Christy Turner II và Jacqueline Turner, Thức ăn của con người: Tục ăn thịt người và Bạo lực ở Tây Nam nước Mỹ thời tiền sử (Salt Lake City: Nhà xuất bản Đại học Utal, 1999); Steven LeBlanc, Chiến tranh thời tiền sử ở Tây Nam nước Mỹ (Salt Lake City: Nhà xuất bản Đại học Utah, 1999); và Jonathan Haas và Winifred Creamer, Áp lực và chiến tranh giữa những Kayenta Anasazi trong thế kỷ XIII (Chicago: Bảo tàng Lịch sử tự nhiên, 1993).
Những cuốn sách chuyên khảo hay học thuật về những vấn đề hay những dân tộc cụ thể ở Tây Nam bao gồm Paul Minnis, Sự thích nghi của xã hội đối với những áp lực lương thực: Một ví dụ ở Tây Nam thời tiền sử (Chicago: Nhà xuất bản Đại học Chicago, 1985); W. H. Wills, Nông nghiệp thời kỳ tiền sử ở Tây Nam nước Mỹ (Santa Fe: Trường Nghiên cứu Mỹ, 1988); R. Gwinn Vivian, Người Chaco thời tiền sử ở lưu vực San Juan (San Diego: Nhà xuất bản Học thuật, 1990); Lynne Sebastian, The Chaco Anasazi: Sự phát triển xã hội chính trị và Tây Nam thời tiền sử (Cambridge; Nhà xuất bản Đại học Cambridge, 1992); và Charles Redman, Người dân vòng cung Tonto: Một phát hiện khảo cổ về Arizona thời tiền sử (Washington, D.C: Nhà xuất bản Viện Smithsonian, 1993). Eric Force, R. Gwinn Vivian, Thomas Windes và Jeffrey Dean đánh giá lại những kênh lạch làm giảm thấp mực nước của Hẻm núi Chaco trong chuyên khảo của họ Mối quan hệ của kênh “Bonito” Paleo và những tác động cơ bản tới sự định cư của người Arizona Hẻm núi Chaco, New Mexico (Tucson: Nhà xuất bản Đại học Arizona, 2002). Tất cả những gì có thể bạn muốn biết về Rác chuột đàn được mô tả trong cuốn sách cùng tên của Julio Betancourt, Thomas Van Devender và Paul Martin (Tucson: Nhà xuất bản Đại học Arizona, 1990).
Tây Nam cũng được viết đến nhiều trong những cuốn sách tập hợp những bài viết của một số tác giả. Trong số đó có David Grant Nobel, Phát hiện mới về Hẻm núi Chaco (Santa Fe: Trường nghiên cứu Mỹ, 1984); George Gumerman, Người Anasazi trong một môi trường thay đổi (Cambridge; Nhà xuất bản Đại học Cambridge, 1988); Patricia Crown và W. James Judge, Chaco và Hohokam: Các hệ thống liên vùng thời tiền sử ở Tây Nam nước Mỹ (Santa Fe: Trường Nghiên cứu Mỹ, 1991); David Doyel, Tổ chức vùng của người Anasazi và hệ thống Chaco (Albuquerque: Bảo tàng nhân chủng học Maxwell, 1992); Michael Adler, Tiền sử học thế giới người da đỏ năm 1150-1350 (Tucson: Nhà xuất bản Đại học Arizona 1996); Jill Neitzel, Khảo cổ học những mối liên hệ vùng: Tín ngưỡng, chiến tranh và những trao đổi trong và ngoài vùng Tây Nam nước Mỹ (Boulder: Nhà xuất bản Đại học Colorado, 2000); và Michael Diehl và Steven LeBlanc, Những ngôi làng trên vách đá trong và ngoài thung lũng Mimbres thời kỳ sơ khai (Cambridge, Mass.,: Bảo tàng Khảo cổ và Dân tộc học Peabody, Đại học Harvard, 2001).
Thư mục những cuốn sách mà tôi đã giới thiệu sẽ giúp các bạn tìm kiếm những bài viết nghiên cứu về văn hóa Tây Nam dễ dàng hơn. Một số bài viết có liên quan trực tiếp tới chương này giờ sẽ được đề cập riêng. Các bài viết của Julio Betancourt và các đồng nghiệp của ông về những kinh nghiệm thu thập được từ việc tái tạo thảm thực vật tại Hẻm núi Chaco bao gồm Julio Betancourt và Thomas Van Devender “Thực vật thể holoxel tại Hẻm núi Chaco, New Mexico” (Tạp chí Khoa học 214: 656-658 (1981)); Michael Samuels và Julio Betancourt, “Mô hình hóa những tác động lâu dài của việc thu hoạch củi trên những rừng thông-bách xù” (Quản lý Môi trường 6: 505-515 (1982)); và Julio Betancourt, Jeffrey Dean và Herbert Hull, “Vận chuyển những xà gỗ xây dựng trên những chặng đường dài thời tiền sử, Hẻm núi Chaco, New Mexico”,(Tạp chí Di sản Mỹ 51: 370-375 (1986)). Hai bài viết về những thay đổi trong việc sử dụng gỗ của người Anasazi qua các thời đại là Timothy Kohler và Meredith Matthews, “Sử dụng đất và trồng rừng lâu dài của người Anasazi: một ví dụ điển hình ở Tây Nam Colorado” (Tạp chí Di sản Mỹ 53: 537-564 (1988)), và Thomas Windes và Dabney Ford, “Dự án rừng Chaco: Đánh giá thường kỳ về Bonito Anh Điêng” (Tạp chí Di sản Mỹ 61: 295-310 (1996)). William Bull đưa ra những nghiên cứu về những nguồn gốc phức tạp của việc đào kênh rạch trong bài viết “Những dòng suối sớm cạn” (Tạp chí Địa mạo học 19: 227-276 (1997)). Các đồng vị Stronti đã được sử dụng để xác định nguồn gốc bản địa của gỗ và ngô tại Chaco được mô tả trong hai bài viết của các tác giả: Với gỗ là Nathan English, Julio Betancourt, Jeffrey Dean và Jay Quade. “Các đồng vị Stronti tiết lộ nguồn gốc xa xôi của những cây gỗ điêu khắc tại Hẻm núi Chaco, New Mexico” (Các thành tựu của Viện Khoa học Quốc gia, Mỹ 98: 11891-11896 (2001)); và với ngô là Larry Benson và những người khác “Ngô thời cổ từ những căn nhà lớn của người Chaco: Chúng được trồng ở đâu?” (Các thành tựu của Viện Khoa học Quốc gia, Mỹ 100: 13111-13115 (2003). R. L. Axtell và những người khác tái tạo chi tiết về quy mô dân số và tiền năng nông nghiệp của người Anasazi ở Kayenta, thung lũng Long House trong cuốn sách “Tăng dân số và sụp đổ trong một hình thái có nhiều tác nhân của người Anasazi ở Kayenta, thung lũng Long House” (Các thành tựu của Viện Khoa học Quốc gia, Mỹ 99: 7275-7279 (2002)).
Chương 5
Ba cuốn sách gần đây giới thiệu những quan điểm khác nhau về sự sụp đổ của Maya và David Webster, Sự sụp đổ của Maya cổ (New York: Thames và Hudson, 2002); Richardson Gill, Những đợt hạn hán khắc nghiệt của Maya (Albuquerque: Nhà xuất bản Đại học New Mexico, 2000); và Arthur Demerest, Prudence Rice và Don Rice, Giai đoạn cuối thời kỳ tiền cổ của các vùng đất thấp Maya (Boulder: Nhà xuất bản Đại học Colorado, 2004). Webster đưa ra một cái nhìn tổng quát về xã hội và lịch sử Maya và diễn giải sự sụp đổ là do sự mất cân đối giữa dân số và các nguồn tài nguyên, trong khi Gill tập trung vào khí hậu và lý giải sự sụp đổ là do hạn hán, và Demerest cùng những người khác nhấn mạnh sự đa dạng phức tạp giữa các khu vực và không đánh giá cao những diễn giải về mặt sinh thái thống nhất. Trước đó, những cuốn sách của nhiều tác giả đặt ra hàng loạt giải thuyết là T. Patrick Culbert, Sự sụp đổ của Maya cổ điển (Albuquerque: Nhà xuất bản Đại học New Mexico, 1973), và T. Patrick Culbert và D. S. Rice, Lịch sử dân số thời kỳ tiền Columbia ở những vùng đất thấp Maya (Albuquerque: Nhà xuất bản Đại học New Mexico, 1990). David Lentz, Sự cân bằng không hoàn hảo: Sự dịch chuyển phong cảnh ở châu Mỹ thời kỳ tiền Columbia (New York: Nhà xuất bản Đại học Columbia, 2000) trong đó có một số chương liên quan tới Maya, cùng các chương liên quan đến các xã hội khác trong cuốn sách này, bao gồm các xã hội khác trong cuốn sách này, bao gồm các xã hội Hohokam, Andean và Mississippi.
Các cuốn sách tóm tắt sự hưng thịnh và suy vong của các thành phố cụ thể bao gồm David Webster, AnnCorinne Freter, và Nancy Golin, Copan: Sự hưng thịnh và suy vong của một vương quốc Maya cổ (Fort Worth: Harcourt Brace, 2000); Peter Harrison, Những chúa tể Tikal (New York: Thames và Hudson, 1999); Stephen Houston, Những chữ viết tượng hình và lịch sử tại Dos Pilas (Austin: Nhà xuất bản Đại học Texas, 1993); và M. P. Dunning, Những chúa tể của Hill: Khu dân cư Maya cổ trong vùng Puuc, Yucatan, Mexico (Madison, Wis.: Nhà xuất bản Prehistory, 1992). Về những cuốn sách về lịch sử và xã hội Maya không chú trọng cụ thể vào sự sụp đổ của xã hội này, hãy xem Michael Coe, Người Maya, tái bản lần thứ 6. (New York: Thames và Hudson, 1999); Robert Sharer, Maya cổ (Stanford, Calif. Nhà xuất bản Đại học Stanford, 1994); Linda Scheie và David Freidel, Khu rừng của các vị vua (New York: William Morrow, 1990); và Linda Scheie và Mary Miller, Máu của các vị vua (New York: Braziller, 1986).
Hai cuốn sách cổ điển của John Stephens mô tả những khám phá của ông là Những khó khăn khi đi lại ở Trung Mỹ, Chiapas và Yucatan (New York: Harper, 1841) và Những khó khăn đi lại ở Yucatan (New York: Harper, 1843); cả hai đều được nhà xuất bản Dover tái bản. Victor Wolfgang von Hagen, Nhà thám hiểm Maya (Norman: Nhà xuất bản Đại học Oklahoma, 1948) bao gồm tiểu sử của John Stephens với lời kể về những phát hiện của ông.
Một số bài viết và cuốn sách của B. L. Turner II thảo luận về các khía cạnh nâng cao năng suất của nền nông nghiệp và tăng dân số của Maya. Bao gồm B.L.Turner II, “Tăng cường hoạt động nông nghiệp ở các vùng đất thấp Maya” (Tạp chí Khoa học 213: 399-405 (1981); B. L. Turner II và Peter Harrison, Đầm lầy Pulltrouser: Môi trường sống, nền nông nghiệp và sự định cư của người Maya cổ ở miền Bắc Belize (Austin: Nhà xuất bản Đại học Texas, 1983); Thomas Whitmore và B. L. Turner II, “Phong cảnh trồng trọt ở Trung Mỹ trước khi bị chinh phục” (Biên niên sử của Hiệp Hội các nhà địa lý Mỹ: 402-425 (1992)); và B. L. Turner II và K. W. Butzer “ Những khó khăn và sự thay đổi trong sử dụng đất của người Colombia” (Tạp chí Môi trường 43: 16-20 và 37-44 (1992)).
Những bài viết gần đây mô tả chi tiết những nghiên cứu các lõi trầm tích dưới đáy các hồ cung cấp bằng chứng về những liên hệ giữa hạn hán và sự sụp đổ của Maya bao gồm Mark Brenner và những người khác, “Cổ di tích học của những vùng đất thấp Maya: Quan điểm lâu dài về sự liên hệ giữa khí hậu, môi trường và con người” (Tạp chí Trung Mỹ cổ 13: 141-157 (2002)) (cũng nên xem thêm những bài khác trên các trang từ 79-170 và 256-345 của cuốn sách này); David Hodell và những người khác “Ánh nắng gây hạn hán thường xuyên ở những vùng đất thấp Maya” (Tạp chí Khoa học 292: 1367-1370 (2001)); Jason Curtis và những người khác, “Tính biến thiên của khí hậu bán đảo Yucatan (Mexico) trong 3.500 năm qua, và ý nghĩa của nó với sự phát triển văn hóa Maya” (Tạp chí Khoa học Kỷ thứ tư 46: 37-47 (1996)); David Hodell và những người khác “Khả năng vai trò của khí hậu trong sự sụp đổ của nền văn minh Maya cổ điển (Tạp chí Tự nhiên 375: 391-394 (1995)). Hai bài khác của cùng nhóm các nhà khoa học này thảo luận về những giả thuyết về hạn hán rút ra từ các lõi trầm tích đáy hồ, nhất là vùng Peten là: Michael Rosenmeier, “Hồ sơ 4.000 năm từ các hồ nước về thay đổi môi trường ở các vùng đất thấp miền Nam Maya, Peten, Guatemala” (Tạp chí Khoa học Kỷ thứ tư 57: 183-190 (2002); và Jason Curtis và những người khác, “Nghiên cứu nhiều mặt về sự thay đổi môi trường Holocene tại các vùng đất thấp Maya của Peten, Guatemala” (Tạp chí Cổ di tích học 19: 139-159 (1998)). Bổ sung vào những nghiên cứu trầm tích ở hồ này là Gerald Haug và những người khác, “Khí hậu và sự sụp đổ của nền văn minh Maya” (Tạp chí Khoa học 299: 1731-1735 (2003)); nghiên cứu sự thay đổi của lượng mưa hằng năm bằng cách phân tích những trầm tích bị cuốn từ sông ra biển.
Không ai quan tâm tới Maya lại có thể bỏ qua Mary Ellen Miller, Bức tranh Bonampark (Princeton, N.J: Nhà xuất bản Đại học Princeton, 1986), với những bức họa màu sắc rực rỡ và những bức đen trắng, mô tả những cảnh tra tấn rùng rợn; hay hàng loạt sách của Justin Kerr tái hiện những đồ gốm của Maya cổ, Sách giới thiệu đồ gốm Maya (New York: Hiệp hội Kerr, nhiều thời điểm). Câu chuyện lý thú về việc chữ viết của Maya được giải mã như thế nào là Michael Coe, Giải mã chữ viết Maya, tái bản lần thứ hai (New York: Thames và Hudson, 1999); và Stephen Houston, Oswaldo Chinchilla Mazareigos và David Stuart, Giải mã ký tự Maya cổ (Norman: Đại học Oklahoma, 2001). Những bể nước của Tikal được Vernon Scarborough và Gari Gallopin mô tả trong “Mô phỏng bể chứa nước tại các vùng đất thấp Maya” (Tạp chí Khoa học 251: 658-662 (1991). Bài viết của Lisa Lucero “Sự sụp đổ của Maya cổ điển: Một minh chứng về vai trò kiểm soát nước” (Tạp chí Nhà nhân chủng học Mỹ 104: 814-826 (2002)) lý giải tại sao có sự khác biệt của những vấn đề nước ở mỗi vùng có thể góp phần gây ra sự sụp đổ khác nhau trong thời kỳ Cổ điển, với những thành phố khác nhau, có những số phận khác nhau, tại những thời điểm khác nhau. Arturo Gomez-Pompa, Jose Salvador Flores và Victoria Sosa, “’Pet-kot”: Khu rừng nhiệt đới nhân tạo của Maya” (Interciencia 12: 10-15 (1987) mô tả người Maya trồng những vạt rừng với những loài cây hữu ích. Timothy Beach. “Các chủng loại đất, phá rừng nhiệt đới và xói mòn đất cổ xưa và hiện đại tại Peten, Guatemala” (Tạp chí Địa Vật Lý 19: 378-405 (1998)) cho thấy một số khu vực của Maya có thể làm giảm hiện tượng xói mòn đất bằng phương pháp làm ruộng bậc thang, nhưng không thể áp dụng ở những nơi khác. Richard Hansen và những người khác, “Tính biến thiên của khí hậu và môi trường trong sự hưng thịnh của nền văn minh Mayza: một quan điểm sơ bộ từ miền Bắc Peten” (Tạp chí Trung Mỹ cổ 13: 273-295 (2002)) giới thiệu một nghiên cứu về nhiều lĩnh vực của một vùng dân cư đông đúc trong thời kỳ tiền Cổ điển, và những bằng chứng về tác động tới sản xuất như một động lực dẫn tới tình trạng phá rừng ở nơi đây.
Chương 6-8
Vikings: Huyền thoại Bắc Atlanta, do William Fitzhugh và Elisabeth Ward biên tập (Washington, D.C: Nhà xuất bản Viện Smithsonia, 2000), là một cuốn sách của nhiều tác giả, được minh họa bằng những bức hình màu đẹp đẽ, có 31 chương viết chi tiết về xã hội Viking sự mở rộng của họ ở châu Âu, và những thuộc địa Bắc Đại Tây Dương. Những bài viết tổng quát, ngắn hơn của một tác giả về người Viking - bao gồm Eric Chritiansen, Người Na Uy trong thời đại Viking (Oxford: Blackwell, 2002), F. Donald Logan, Người Viking trong lịch sử, tái bản lần hai (New York: Routledge, 1991), và Else Roestahl, Người Viking (New York:Penguin, 1987). Gwyn Jones, Vikings: Truyền thuyết Bắc Đại Tây Dương, tái bản lần hai (Oxford: Nhà xuất bản Đại học Oxford, 1986) và G. J. Marcus, Cuộc chinh phục Bắc Đại Tây Dương (New York: Nhà xuất bản Đại học Oxford, 1981) nghiên cứu cụ thể ba thuộc địa Bắc Đại Tây Dương xa xôi của người Viking là Iceland, Greenland và Vinland. Một điểm nổi bật rất hữu ích trong cuốn sách của Jone là trong phần phụ lục có những bản dịch các tài liệu nguồn liên quan tới các truyền thuyết, trong đó có Cuốn sách của người Iceland, cả các truyền thuyết Vinland và Những câu chuyện của Einar Sokkason.
Hai cuốn sách mới đây tóm tắt lịch sử của Iceland và Jesse Byock, Iceland thời đại Viking (New York: Penguin Putnam, 2001), viết về thời kỳ suy thoái của Khối thịnh vượng Iceland giai đoạn 1262-1264, được xây dựng dựa trên tác phẩm trước đó của cùng tác giả Iceland thời Trung cổ: Xã hội, Truyền thuyết và Hiện tại (Berkeley: Nhà xuất bản Đại học Califorlia, 1988); và Gunnar Karlsson, 1100 năm của Iceland: Lịch sử của một xã hội đầy khó khăn (London: Hurst, 2000), không chỉ viết về thời Trung cổ mà còn cả thời hiện đại. Thay đổi môi trường của Iceland: Quá khứ và hiện tại (Dordrecht: Kluwer, 1991) của hai tác giả Judith Maizels và Chris Caseldine, đó là cuốn sách mang tính chất kỹ thuật nhiều hơn về lịch sử môi trường của Iceland. Kristen Hastrup, Nhân chủng học của Iceland: Những nghiên cứu về quá khứ và hiện tại của Iceland (Viborg: Nhà xuất bản Đại học Odense, 1990) tập hợp những bài viết về nhân chủng học của tác giả Iceland. Tuyển tập những truyền thuyết của người Iceland (New York: Penguin, 1997) đăng tải những bản dịch của 17 truyền thuyết (trong đó có hai truyền thuyết của Vinland), rút ra từ năm tập Tuyển tập truyền thuyết của Iceland (Reykjavik: Leifur Eiriksson, 1997).
Hai bài viết khác liên quan tới những thay đổi của thiên nhiên Iceland là Andrew Dugmore và những người khác, “Địa thời học, thay đổi môi trường và sự định cư của người Norse ở Iceland” (Khảo cổ Môi trường 5: 21-34 (2000)), và Ian Simpson cùng những người khác “Vượt qua ngưỡng cửa: Sinh thái học loài người và những hình thái suy thái môi trường trong lịch sử (Catena 42: 175-192 (2001)). Bởi mỗi loài côn trùng đều có môi trường sống riêng và thích ứng với các điều kiện khí hậu riêng, nên Paul Buckland và các đồng nghiệp của ông có thể sử dụng những loài côn trùng được bảo quản tại các khu vực khảo cổ như những dấu hiệu môi trường của từng thời kỳ. Các bài viết của họ bao gồm Gudrún Sveinbjarnardóttir và những người khác. “Thay đổi phong cách tại Eyjafjallasveit, miền Nam Iceland” (Norsk Geog. Tidsskr 36: 75-88 (1982)); Paul Buckland và những người khác “Cổ sinh thái học thể holocene muộn tại Ketilsstadir tại Myrdalur, Nam Iceland” (Jokull 36: 41-55 (1986)); Paul Buckland và những người khác “Đồi cây ở Eyjafjallasveit, miền Nam Iceland: Những nghiên cứu cổ sinh thái học về tác động của Landnam” (Acta Archaeologica 61: 252-271 (1991)); Gudrun Sveinbjarnardottir và những người khác, “Những đồng cỏ tại Iceland: Một khảo sát lịch sử và khảo cổ học” (Acta Archaeologica 61: 74-96 (1991)); Paul Buckland và những người khác “Những điều tra cổ sinh thái học tại Reykholt, Tây Iceland”, các trang từ 149-168 trong C. D. Morriss và D. J. Rackhan, Sự tồn tại và định cư của người Norse và sau này tại Bắc Đại Tây Dương (Glasgow: Nhà xuất bản Đại học Glasgow, 1992); và Paul Buckland và những người khác,. “Cái nhìn của côn trùng trong trang trại của người Norse”, các trang từ 518-528 trong Colleen Batey và những người khác, Thời đại Viking tại Caithness, Orkney và Bắc Đại Tây Dương (Edinburg: Nhà xuất bản Đại học Edinburg, 1993). Cũng là một phương pháp dựa trên côn trùng để tìm hiểu những thay đổi môi trường tại quần đảo Faeroe được Kevin Edward, và những người khác sử dụng trong cuốn “Phong cảnh tại landnám: Bằng chứng phấn hoa và cổ phấn hoa từ Toftanes, quần đảo Faro” (Frodskaparrit 46: 177-192 (1998)).
Hai cuốn sách tập hợp chi tiết những thông tin hiện có về xã hội người Norse ở Greenland: Kirsten Seaver, Tiếng dội băng giá: Greenland và sự thám hiểm Bắc Mỹ năm 1000-1500 (Stanford, Calif. Nhà xuất bản Đại học Stanford, 1996), và Finn Gad, Lịch sử của Greenland, tập một: Những thời kỳ đầu tới năm 1700 (Montreal: Nhà xuất bản Đại học McGill-Queen, 1971). Một cuốn sách tiếp nối của Finn Gad, Lịch sử Greenland, tập hai: 1700-1782 (Montreal: Nhà xuất bản Đại học McGill-Queen, 1973), tiếp tục câu chuyện qua thời kỳ “sắp đặt lại” và thuộc địa hóa của người Đan Mạch. Niels Lynnerup viết về những phân tích của ông từ những bộ hài cốt hiện có của người Norse ở Greenland trong chuyên khảo Người Norse ở Greenland: Một nghiên cứu nhân chủng học và sinh học (Copenhagen: Ủy ban Nghiên cứu khoa học tại Greenland, 1998). Hai chuyên khảo nhiều tác giả với nhiều bài viết về người Inuit và những tổ tiên người Mỹ thổ dân ở Greenland là Martin Appelt và Hans Christian Gullov với cuốn Late Dorset in High Arctic Greenland (Copenhagen: Trung tâm Địa cực Đan Mạch, 1999) và Martin Appelt và những người khác trong cuốn Những đặc tính và mối liên hệ văn hóa tại Bắc Cực (Copenhagen: Trung tâm Địa cực Đan Mạch, 2000). Một cái nhìn cá nhân sâu sắc về đời sống của người Inuit ở Greenland được dựng lên sau khi phát hiện hài cốt của sáu phụ nữ, một trẻ em và một trẻ sơ sinh được chôn vào khoảng năm 1475, toàn bộ cơ thể và quần áo vẫn còn được bảo quản tốt nhờ khí hậu khô lạnh. Những xác ướp này được mô tả và minh họa bởi Jens Peder Hart Hansen và những người khác với cuốn Những xác ướp ở Greenland (London: Nhà xuất bản Bảo tàng Anh, 1991); nội dung cuốn sách có ảnh gương mặt của đứa trẻ sơ sinh mới 6 tháng tuổi rất ấn tượng và khó quên.
Hai bộ nghiên cứu khảo cổ quan trọng nhất về xã hội Norse Greenland trong vòng 20 năm qua là của Thomas McGovern và Jette Arneborg và các đồng nghiệp của họ. Trong những bài viết của McGovern có Thomas McGovern “Thám hiểm Vinland: Một quan điểm từ Bắc Đại Tây Dương” (Tạp chí Nhà khảo cổ Bắc Mỹ 2: 285-308 (1981); Thomas McGovern, “Những đóng góp vào nền kinh tế cổ của xã hội Norse của Greenland” (Acta Archaeologica 54: 73-122 (1985)); Thomas McGovern và những người khác, “Các đảo miền Bắc, thời đại của con người và suy thoái môi trường: Một cái nhìn về thay đổi sinh học và xã hội ở Bắc Đại Tây Dương thời Trung cổ” (Sinh thái học con người 16: 225-270 (1998)); Thomas McGovern, “Khí hậu, sự tương quan và kết quả trong xã hội Norse của Greenland” (Nhân chủng học Bắc Cực 28: 77-100 (1991)); Thomas McGovern và những người khác, “Khảo cổ học động vật có xương sống tại khu vực Sandnes V51: Thay đổi kinh tế tại một trang trại của tù trưởng ở phía Tây Greenland” (Nhân chủng học Bắc cực 33: 94-121 (1996)); Thomas Amorosi và những người khác, “Cướp bóc thiên nhiên: Tác động của con người tới vùng Bắc Đại Tây Dương của người Scandinavi” (Sinh thái học con người 25: 491-518 (1997)); và Tom Amorosi và những người khác, “Họ đã không chỉ sống bằng cỏ: Chính trị và cổ sinh thái học cỏ khô của gia súc trong khu vực Bắc Đại Tây Dương (Khảo cổ môi trường 1: 41-54 (1998)). Các bài viết của Arneborg bao gồm Jette Arneborg, “Nhà thờ La Mã trong xã hội Norse của Greenland” (Acta Archaeologica 61: 142-150 (1991)); Jette Arneborg, “Mối liên hệ giữa người Eskimoss và người Norse tại Greenland: Tổng quan về các bằng chứng”, các trang từ 23-35 trong Tvaerfaglige Vikingesymposium (Aarhus, Đan Mạch: Đại học Aarhus, 1993); Jette Arneborg, “Những đỉnh núi Burgundian Basques và những người Norse chết tại Herjolfsnaes, Greenland”, các trang từ 75-83 trong Nationalmuseets Arbejdsmark (Copenhagen: Nationalmuseets, 1996); và Jette Arneborg và những người khác, “Sự thay đổi trong khẩu phần ăn của người Viking ở Greenland được xác định từ các phân tích chất đồng vị carbon ổn định và phương pháp xác định niên đại bằng carbon 14 trên xương họ” (Carbon phóng xạ 41: 157-168 (1999). Trong số những khu vực ở Greenland mà Arneborg và các đồng nghiệp của bà khai quật, đáng chú ý là “Trang trại dưới cát”, một trang trại lớn của người Norse được bao phủ một lớp cát dày ở Khu định cư phía Tây; khu vực đó và một số vùng khác của Greenland được mô tả trong một chuyên khảo của Jette Arneborg và Hans Christian Gullov, Con người, Văn hóa và Môi trường trong xã hội Greenland cổ đại (Copenhagen: Trung tâm Địa cực Đan Mạch, 1998).C. L. Vebaek mô tả những cuộc khai quật của ông trong giai đoạn từ 1945-1962 trong ba chuyên khảo tương ứng với các số 14, 17 và 18 (1991, 1992 và 1993), trong hàng loạt Meddlelser om Gronland, Con người và Xã hội, Copenhagen: Địa hình Nhà thờ của Khu Đông và Cuộc khai quật tu viện Benecdictine tại Narsarsuaq tại vịnh Uunartoq; Vatnahverfi: Một vùng nội địa của Khu Đông tại Greenland; và Narsaq: Một trang trại của người Norse ở Landnama.
Trong số những bài viết độc lập quan trọng về xã hội Norse ở Greenland là Robert Mc Ghee, “Mối liên hệ giữa thổ dân Bắc Mỹ và người Norse thời Trung cổ: Tổng quan về các bằng chứng”, (Tạp chí Nước Mỹ cổ xưa 49: 4-26 (1984); Joel Berglund, “Sự suy thoái của những khu định cư của người Norse tại Greenland (Nhân chủng học Địa cực 23: 109-135 (1986)); Svend Albrethsen và Christian Keller, “Sử dụng saeter trong hoạt động nông nghiệp của người Norse tại Greenland” (Nhân chủng học Địa cực 23: 91-107 (1986)); Christian Keller “Người Viking ở Tây Đại Tây Dương: Một hình thái xã hội của người Norse Greenland thời Trung cổ (Acta Archaeologica 61: 126-141 (1990)); Bent Fredskild, “Nông nghiệp trong một khu vực khó khăn: Miền Nam Greenland từ vùng đất Landnam của người Norse (1985) tới năm 1985”, các trang từ 381-393 trong Hilary Birks và những người khác với cuốn Phong cảnh văn hóa: Quá khứ, hiện tại và tương lai (Cambridge; Nhà xuất bản Đại học Cambridge, 1988); Bent Fredskild, “Xói mòn và những thay đổi thực vật tại miền Nam Greenland do nông nghiệp gây ra” (Geografisk Tidsskrift 92: 14-21 (1992); và Bjarne Jakobsen “Tài nguyên đất và xói mòn đất tại khu định cư của người Norse Osterbygden ở Miền Nam Greenland” (Acta Borealia 1: 56-68 (1991)).
Chương 9
Ba cuốn sách, với những điểm nổi bật khác nhau, mô tả các xã hội cao nguyên New Guinea là: Một đánh giá lịch sử của Gavin Souter, New Guinea: Sự bí ẩn cuối cùng (Sydney: Angus và Robertson, 1964); Bob Connolly và Robin Anderson, Những mối quan hệ đầu tiên (New York: Viking, 1987), một lời kể cảm động về những cuộc gặp gỡ đầu tiên của cư dân New Guinea cao nguyên với người châu Âu; và Tim Flannery, Throwim Way Leg (New York: Nhà xuất bản Atlantic Monthly, 1998), là những kinh nghiệm của một nhà động vật học với những cư dân cao nguyên. Hai bài viết của R. Michale Bourke đề cập tới các hoạt động trồng rừng phi lao và các hoạt động nông nghiệp khác duy trì độ màu của đất ở các cao nguyên New Guinea: “Các hoạt động nông nghiệp bảo tồn bản địa”, Báo cáo của Hội thảo chung ASOCON/Khối Thịnh Vượng, các trang từ 67-71 (Jakarta: Hệ thống bảo tồn đất châu Á, 1991), và “Quản lý các loài cây hoang dã với hoạt động trồng cây ở Papua New Guinea”, Tài liệu kỹ thuật Quản lý tài nguyên tại châu Á/Thái Bình Dương 1997/5 (Canberra, Trường Nghiên cứu châu Á-Thái Bình Dương, Đại học Quốc gia Australia, 1997). Ba bài viết của Simon Haberle tóm lược bằng chứng phấn hoa để tái hiện lịch sử trồng cây phi lao: “Những thay đổi trong môi trường cổ ở các cao nguyên phía đông của Papua New Guinea”, (Khảo cổ học châu Đại Dương 31:1-11 (1996)); “Xác định niên đại các bằng chứng về thay đổi trong nông nghiệp ở các cao nguyên New Guinea: 2.000 năm cuối” (Khảo cổ Australia số 47: 1-19 (1998)); và S. G. Haberle, G. S. Hope, và Y. de Fretes, “Thay đổi môi trường tại thung lũng Baliem, núi Irian-Jaya, Cộng hòa Indonesia” (Tạp chí Địa lý sinh