Lời bạt
Sự thăng trầm của Angkor - Những thắc mắc về Angkor - Môi trường của Angkor - Sự trỗi dậy của Angkor - Thành phố vĩ đại - Kỹ thuật ấn tượng - Sự suy tàn của Angkor.
Năm 2008, cuối cùng ước mơ lâu nay của tôi đã trở thành hiện thực khi được đến thăm những di tích của thành phố cổ Angkor ở Đông Nam Á trên đất nước Campuchia hiện đại. Mặc dù trước đó đã từng đọc nhiều tài liệu về di tích vĩ đại này nhưng tôi vẫn choáng ngợp trước quy mô rộng lớn của nó khi nhìn thấy tận mắt. Tại thời kỳ cực thịnh cách đây một ngàn năm, đây từng là thành phố rộng nhất thế giới, thuộc số thành phố đông dân nhất thế giới, và là kinh đô của đế chế lớn nhất và hùng mạnh nhất Đông Nam Á (đế chế Khmer). Các ngôi đền của nó, như Angkor Wat, thuộc số các kiến trúc tôn giáo lớn nhất thế giới thời kỳ tiền hiện đại. Cùng với Vạn Lý Trường Thành của Trung Quốc, quy mô vĩ đại của Angkor đưa nó trở thành một trong những công trình xây dựng cổ xưa có thể nhìn thấy rõ ràng từ trên vũ trụ.
Nhưng tới thế kỷ XIX, nơi đây chỉ còn tám ngôi làng nhỏ nằm rải rác trên khắp khu vực trung tâm trước đây từng là một thành phố lớn. Campuchia ngày nay đã trở thành quốc gia nghèo nhất Đông Nam Á. Tôi chưa thấy một quốc gia hiện đại nào lại gắn bó với hào quang quá khứ của mình như Campuchia khi in hình Angkor trên quốc kỳ. Sự suy tàn của một kinh đô lớn thành một phong cảnh điêu tàn với vài ngôi làng rải rác chắc chắn rất đáng gọi là sụp đổ. Vậy môi trường ở đây ngày xưa như thế nào để những người nông dân nghèo có thể dựng lên một đế chế và một thành phố vĩ đại tới vậy, rồi sau đó lại biến mất?
Trong ấn bản đầu tiên của cuốn Collapse (tạm dịch: Sụp đổ) năm 2005, tôi chỉ dành vỏn vẹn bốn dòng viết về Angkor bởi khi đó có quá ít thông tin về sự sụp đổ của thành phố này. Giờ đây, nhờ vào dòng thác thông tin từ các khảo sát radar vệ tinh, khảo sát hiện trường, khảo cổ, dữ liệu từ các vòng gỗ thân cây nên chúng ta có thể hiểu rõ hơn những gì đã diễn ra, mặc dù vẫn còn nhiều câu hỏi chưa có lời giải đáp. Hóa ra Angkor không phải là hiện tượng cá biệt, như nhầm tưởng ban đầu. Nó “chỉ là” ví dụ lớn nhất về một thành phố vĩ đại từng xuất hiện trong môi trường nhiệt đới ẩm ướt nhưng không còn tồn tại đến ngày nay. Giờ chúng ta nhận thấy Angkor là một hình thái đô thị xa lạ với một mật độ dân số thấp, trải rộng hơn cả thành phố Los Angeles quê tôi: Một thành phố với những khu đất canh tác và các nông trại ở sát ngay các cung điện và đền đài, với mật độ dân số thấp hơn các thành phố hiện đại không có đất canh tác quen thuộc khác của chúng ta, nhưng lại cao hơn các vùng nông thôn đông dân hiện đại khác. Ngoài Angkor, những thành phố ít dân khác tương tự cũng từng tồn tại ở Sri Lanka, Java, Thái Lan, Việt Nam và Myanmar. Hình thái thành phố ít dân này cũng xuất hiện tại Maya của Mexico và Honduras, nơi có thành phố Tikal, Copán và các thành phố Maya vĩ đại khác là những ví dụ quen thuộc về những hình thái đô thị đã biến mất. Nhưng thậm chí cả Tikal, thành phố Maya lớn nhất và được khảo sát kỹ lưỡng nhất, cũng chỉ rộng bằng một phần năm của Angkor. Tất cả những thành phố có mật độ dân số thấp này đã sụp đổ trước khi người châu Âu kịp đặt chân đến và ghi chép. Liệu những hiểu biết về sự suy tàn của Angkor có thể làm sáng tỏ cho những xã hội sụp đổ trong thời kỳ Maya ở Vùng đất thấp cổ điển mà tôi đã mô tả trong Chương 5 không?
Một thắc mắc khác rộng hơn có liên hệ đến Angkor cứ ám ảnh tâm trí tôi khi đến thăm nơi này. Đáng tiếc là Campuchia ngày nay không chỉ nổi tiếng bởi quá khứ cổ xưa huy hoàng, mà còn cả những quá khứ rùng rợn mới đây của mình. Giai đoạn từ 1975-1979, dưới sự cai trị tàn bạo của tên độc tài Pol Pot và Khmer Đỏ, Campuchia trở thành đất nước bị diệt chủng lớn nhất kể từ sau Thế chiến Thứ hai, khi chính người Campuchia đã tàn sát hơn một triệu đồng bào của mình, ước khoảng một phần bảy hay một phần ba dân số khi đó. Một số nạn nhân “chỉ” bị bỏ đói đến chết, những người khác thì bị chết do tra tấn hay bị chính cha mẹ giết. Trong số hướng dẫn viên người Campuchia của tôi tại Angkor năm 2008 có một người từng sống dưới chế độ rùng rợn của Pol Pot và miễn cưỡng trả lời những câu hỏi của tôi về thời kỳ đó. Bất kỳ ai có dấu hiệu không phải là nông dân - như đeo kính, biết ngoại ngữ, có giáo dục - đều bị giết. Trong nỗ lực thay đổi triệt để xã hội Campuchia cực đoan hơn cả Triều Tiên và Albania và đưa xã hội trở lại thời kỳ Angkor hàng ngàn năm trước, Polpot đã sơ tán các thành phố; tiền, tôn giáo, chợ, tài sản các nhân, các hoạt động kinh doanh bị phá hủy; trường học, bệnh viện và các cửa hàng bị đóng cửa; không xuất bản báo chí hay sách; và tất cả mọi người phải mặc quần áo màu đen, ăn trong các bếp công xã, và đều làm nông dân trồng lúa.
Nhưng những du khách tới Campuchia ngày nay đều thấy người dân nơi đây hiền lành, thật thà và tốt bụng. Vậy tại sao những con người bình thường hiền hòa lại bỗng nhiên trở lên độc ác tột cùng như vậy? Bên trong vẻ ngoài nhu mì, chắc hẳn nhiều người Campuchia rất nóng nảy khi tức giận. Có điều gì về lịch sử Campuchia và về xã hội thời kỳ đó khiến người Campuchia có thể dựng lên một thành phố và một đế chế hùng mạnh tới vậy không và điều đó có thể giúp chúng ta hiểu hoàn cảnh khó khăn và sự bùng nổ của Campuchia hiện đại?
Các đặc tính môi trường mà trong đó đế chế Khmer đã phát triển rất quan trọng với việc tìm hiểu những thăng trầm của đế chế này và hào quang của kinh đô của nó. Ở thời kỳ hưng thịnh nhất, đế chế này kiểm soát tới một phần ba lục địa Đông Nam Á. Trong khi trung tâm của đế chế này đặt tại lưu vực hạ lưu sông Mekong tại Campuchia, thì nó vẫn tiếp tục mở rộng ra xung quanh, lấn sang các quốc gia lân cận. Angkor có môi trường nhiệt đới nóng với nhiệt độ thường xuyên ở mức trên 200C, kể cả tại thời điểm rạng đông của đêm lạnh nhất của tháng lạnh nhất trong năm. Ở đây hiếm khi phải mặc quần áo ấm hay sưởi ấm.
Những thách thức môi trường chủ yếu của Angkor liên quan tới mưa và nước. Khu vực này cũng có khí hậu gió mùa, một thuật ngữ gợi lên hình ảnh những cơn mưa xối xả. Thực ra, lượng mưa trung bình hằng năm của Angkor chỉ vào khoảng 1.500 milimét, chỉ cao hơn lượng mưa của thành phố New York một chút. So với một số khu vực nghiên cứu của tôi tại New Guinea và thành phố quê hương Los Angeles, với lượng mưa hằng năm tương ứng là hơn 10.100 milimét và 380 milimét, thì Angkor cũng không quá ẩm ướt mà cũng không quá khô.
Thay vào đó, những vấn đề về nước của Angkor xuất phát từ thực tế là lượng mưa thay đổi bất thường giữa các mùa và giữa các năm. Phần lớn lượng mưa diễn ra trong thời gian gió mùa mùa hè từ tháng Sáu đến tháng Mười một. Những tháng mùa đông, từ tháng Mười hai đến tháng Năm, tương đối khô, gây ảnh hưởng đến sản lượng hoa màu trừ khi tích trữ nước mưa trong mùa mưa để tưới cho hoa màu - điều mà người Khmer đã làm như chúng ta sẽ thấy. Về dao động giữa các năm, lượng mưa hằng năm có thể ở mức thấp 965 milimét hoặc có thể ở mức cao 2.300 milimét. Điều này có thể khiến cư dân Angkor đối mặt với nguy cơ mất mùa do hạn hán hay lũ lụt, trừ khi họ có hệ thống để tích trữ nước mưa trong những năm ẩm ướt để sử dụng trong những năm khô hạn và để kiểm soát và thoát nước nhanh trong mùa bão lũ. Như chúng ta thấy, hệ thống điều hòa nước của người Khmer cũng đã xử lý được với những vấn đề này trong nhiều thế kỷ, cho tới khi thời tiết trở nên cực đoan với hạn hán quá gay gắt hay lũ quá lớn phá hủy hệ thống này.
Phía nam của Angkor là những rặng núi thấp chạy từ bờ biển của Vịnh Thái Lan, bởi vậy đế chế Khmer chú trọng phát triển thương mại đường bộ, hơn là đường biển, và Campuchia mới chỉ hoàn tất cảng biển nước sâu đầu tiên vào năm 1960. Phía bắc của Angkor là rặng đồi núi Kulen Hills trải dài khoảng 19 kilômét, dốc đến mức nếu rừng bị phá thì sẽ khiến đất bị xói mòn nặng nề. (Đây cũng là một vấn đề đối với đế chế Khmer.) Từ rặng đồi núi Kulen Hills về phía nam Angkor, địa hình cực kỳ bằng phẳng với độ dốc trung bình chỉ 0,1%. Điều này cũng gây khó khăn lớn cho các kỹ sư Khmer của Angkor trong việc điều hòa các dòng nước trên khắp các đồng bằng. Nó cũng gây ra những vấn đề lớn về vệ sinh bởi các dòng nước chảy chậm trên những đồng bằng này. Các dòng sông và dòng kênh trên các đồng bằng không chỉ cung cấp nước cho người dân ăn uống, đun nấu và tắm giặt, mà còn kiêm cả chức năng thoát nước thải cho khu vực. Một sứ thần Trung Quốc tới Angkor thời kỳ còn hưng thịnh ghi nhận cư dân nơi đây thường xuyên mắc kiết lỵ, mà 90% bị kiết lỵ nặng.
Một đặc điểm nổi bật của vùng đất trung tâm Khmer, và có lẽ cũng là lý do kinh đô Khmer đặt tại Angkor, là hồ Tonle Sap lớn nhất Đông Nam Á, tạo thành một phần mở rộng của sông Tonle, một trong bốn nhánh sông chính của sông Mekong. Mùa khô, mực nước hồ xuống thấp, diện tích hồ chỉ còn khoảng 2.600 kilômét vuông. Nhưng mùa mưa, lượng nước đổ vào các sông nhánh của Mekong lớn tới mức đến mùa khô thì dòng nước lại chảy ngược từ hồ xuống sông Tonle. Mùa lũ hồ còn tích nước lũ từ sông vào hồ và diện tích mở rộng gấp bốn lần lên tới hơn 10.000 kilômét vuông. Có nghĩa là khoảng 7.000 kilômét vuông vùng ngập có thể được tưới nước bằng những trận lũ tự nhiên và rất lý tưởng cho trồng lúa.
Lợi ích thứ hai của hồ Tonle Sap đối với cư dân Angkor là vai trò giao thông huyết mạch ra sông Mekong và ra biển. Lợi ích còn lại là hồ có năng suất sinh vật rất cao, với mật độ cá trên mỗi mét khối nước ngọt lớn nhất thế giới, nhờ lượng phù sa mà các trận lụt hằng năm của sông Mekong mang vào hồ. Một du khách người Pháp trước đây từng viết: “Cá ở đây cực kỳ dồi dào mỗi khi mực nước lên cao và chúng còn va cả vào thuyền và đôi khi còn khó chèo thuyền do nhiều cá quá”. Hồ này hiện vẫn cung cấp phần lớn lượng cá của Campuchia và lượng đạm trong thức ăn của người dân, khiến mức tiêu thụ cá của người dân nơi đây cao nhất thế giới.
Mặc dù lúa là lương thực chính của người Khmer cả trong quá khứ và hiện tại, nhưng phần lớn đồng bằng của người Campuchia được đánh giá là có chất lượng đất trung bình hoặc kém cho trồng lúa. Đất chủ yếu là cát và có hàm lượng dinh dưỡng thấp. Trong số ba phương pháp trồng lúa chính ở Campuchia, phương pháp thứ nhất là làm nương rẫy, hay đốt nương làm rẫy, thường áp dụng ở những vùng đồi núi và phụ thuộc vào mưa để tưới cho hoa màu. Phương pháp thứ hai và tốn kém nhất, nhưng không thực sự hiệu quả theo tiêu chuẩn của người Trung Quốc và người Nhật, là trồng lúa trên những cánh đồng ngập nước. Phương pháp hiệu quả nhất, từng cung cấp phần lớn gạo cho người Khmer cổ, là canh tác sau lũ: lúa được trồng trong các cánh đồng mà nước đã giữ lại ở thượng nguồn được dùng để tưới cho lúa.
Bởi vậy, môi trường Angkor có một số thuận lợi - nhất là những ưu điểm gắn liền với hồ, và với các đồng bằng có diện tích lớn ở hạ lưu sông Mekong. Nhưng nó cũng có một số vấn đề. Người Khmer đã xử lý những vấn đề này một cách thông minh trong nhiều thế kỷ, bởi vậy đã xây dựng thành phố và đế chế vĩ đại thành công, nhưng cuối cùng lại bị chính những vấn đề này phản công và tiêu diệt.
Người Khmer là ai và đế chế của họ đã nổi lên như thế nào? Ngày nay người Khmer chiếm 90% dân số Campuchia, và họ đã thống trị khu vực Angkor ít nhất 1.400 năm trước theo những dòng chữ Khmer khắc trên đá còn được lưu giữ đến ngày nay. Tiếng Khmer thuộc ngữ hệ Đông Nam Á bao gồm 150 ngôn ngữ được sử dụng rải rác từ Ấn Độ đến miền bắc Việt Nam cùng bán đảo Malay và đa phần bị bao quanh bởi các ngữ hệ khác (nhất là ngữ hệ Hán-Tạng và Thái-Kadai). Việc phân bố rải rác cho thấy hai ngữ hệ sau đã xâm lấn lãnh thổ của ngữ hệ Đông Nam Á, và chúng ta cũng biết rằng tiếng Việt và tiếng Thái cũng đã mở rộng phạm vi trong lịch sử. Trong ngữ hệ Đông Nam Á, chỉ có tiếng Việt là hơi quen thuộc với phần lớn độc giả của cuốn sách này, và đã được sửa đổi nhiều hơn qua mối liên hệ với người Trung Hoa (ví dụ như trở thành ngôn ngữ thanh điệu) so với tiếng Khmer.
Cách đây 5.000 năm, tất cả các dân tộc Đông Nam Á nhiệt đới đều sinh sống bằng cách săn bắn hái lượm và sử dụng các dụng cụ bằng đá, cũng giống như tất cả các dân tộc khác trên thế giới cho tới khi xuất hiện hình thức làm nông nghiệp. Trồng lúa du nhập vào Campuchia từ miền nam Trung Quốc vào khoảng năm 2000 TrCN và sau đó là công cụ sản xuất bằng sắt vào khoảng năm 500 TrCN làm tăng sản lượng lương thực và bùng nổ dân số. Các cuộc khai quật khảo cổ cho thấy, vào khoảng năm 200 Campuchia đã tồn tại các thị trấn khiêm tốn và các vương quốc nhỏ. Từ năm 245 trở đi, các bản ghi của hoàng đế Trung Hoa đã mô tả một tộc người “dã man” sống trên vùng đất có tên “Funan” rõ ràng thuộc lãnh thổ Campuchia ngày nay, đã phái các đoàn thương gia hay đến Trung Hoa để cống nạp, và các quốc vương đều cưỡi trên lưng voi. Mặc dù có những mối quan hệ với Trung Quốc, nhưng Campuchia trở nên hùng mạnh là nhờ ảnh hưởng của sự bang giao với Ấn Độ, từ đó (bắt đầu vào khoảng năm 300) du nhập đạo Phật và đạo Hindu, chữ viết bắt nguồn từ chữ Brahmi của Nam Ấn, và sử dụng tiếng Sanskrit trong những văn bản tôn giáo. Câu khắc đầu tiên bằng tiếng Khmer có niên đại từ năm 611.
Quyền lực chính trị ở các vương quốc Campuchia Ấn Độ hóa sớm nhất này tập trung ở vùng hạ lưu châu thổ Mekong, cho phép tiếp cận với thương mại đường biển. Khoảng năm 600, quyền lực chuyển dịch vào sâu trong đất liền, nơi các vương quốc đang ganh đua nhau xây dựng những thị trấn, đền đài và những hồ chứa nước lớn. Năm 802, các vương quốc độc lập cuối cùng đã thống nhất dưới tay quốc vương Jayavarman đệ nhị, người được coi là sáng lập ra đế chế Khmer và đã chọn Angkor làm kinh đô. Trong năm thế kỷ tiếp theo, đế chế này được cai trị bởi sự kế vị của 24 quốc vương, tất cả đều mang tước hiệu Ấn hóa kiểu như “Udayadityavarman đệ nhị,” “Dharamindravarman,” và “Jayavarmadiparameshvara.” Cứ chừng nửa thế kỷ, mỗi khi có một quốc vương băng hà, là vương quốc lại mở cuộc thi tìm người kế vị, và đế chế này cũng bị phân rã thành nhiều vương quốc nhỏ trước khi hợp nhất trở lại.
Các quốc vương kế vị so bì nhau bằng cách lấy những dự án xây dựng lớn của các quốc vương trước khi thống nhất là hình mẫu và xây dựng công trình lớn hơn, rồi trở thành những công trình khổng lồ, và cuối cùng là những công trình vĩ đại kỷ lục thế giới. Ví dụ, quốc vương thứ ba sau khi thống nhất là Indravarman đệ nhất, lấy cảm hứng là những hồ trữ nước lớn của các vương quốc trước khi thống nhất, đã phá vỡ những kỷ lục trước kia bằng việc khởi công xây dựng, chỉ năm ngày sau khi ông lên ngôi, một hồ hình chữ nhật dài khoảng 4 kilômét và rộng 800 mét, được khiêm tốn đặt tên theo vị quốc vương là Indratataka (“Biển Indra”). Người kế vị ông, quốc vương Yashovarman đệ nhất, sau đó xây một hồ khác rộng gấp 8 lần với kích thước dài 7,5 kilômét và rộng 1,7 kilômét và cũng được đặt tên theo tên ông là Yashodharatataka, hay Đông Baray. Một thế kỷ trôi qua, quốc vương Suryavarman đệ nhất phá vỡ kỷ lục này bằng chiếc hồ Tây Baray dài 8 kilômét và rộng 2,2 kilômét, một trong những công trình xây dựng lớn nhất của con người trước thời kỳ công nghiệp hiện đại. Hai thế kỷ sau, quốc vương Jayavarman đệ thất, quá bận rộn với những công trình xây dựng khác như thành phố Angkor Thom và đền Bayon, đã phải nén lòng kiêu hãnh và gắn tên mình với một chiếc hồ mới khiêm tốn là Jayatataka (“Biển Jaya”), với kích thước dài 3,5 kilômét và rộng 900 mét. Đây là những công trình kiến trúc của Khmer mà người ngoài hành tinh có thể quan sát nếu họ từ trong vũ trụ ngắm nhìn Trái đất.
Mặc dù những tước hiệu, chữ viết và tôn giáo Ấn hóa phát triển thịnh vượng tại Angkor, nhưng ảnh hưởng từ Trung Hoa vẫn tiếp tục phát triển. Người Khmer cử các sứ thần sang triều cống Trung Hoa, để đổi lại Trung Hoa cũng cử sứ thần qua và bán các sản phẩm sang Angkor, những phù điêu bằng đá tại Angkor mô tả những sáng chế của người Trung Hoa như cầu phao và súng thần công. Những di vật đời Đường, Tống và những đồ gốm các triều đại sau này hiện vẫn còn rải rác khắp Angkor.
Những cung điện hoàng gia và các công trình kiến trúc vĩ đại là những gánh nặng với những người nông dân của đế chế này, những người phải nộp tô thuế dưới hình thức thóc gạo hay công lao động. Dự đoán công trình xây dựng Tây Baray cũng phải cần tới 200.000 lao động làm việc trong ba năm. Một quốc vương cần 4.000 thê thiếp và chỉ một ngôi đền cỡ trung bình cũng cần tới 1.000 người phục vụ, trên 600 vũ nữ và 95 giáo đồ và những người khác với tổng số lên đến 12.640 người làm, tất cả đều cần phải ăn. Khi lần đầu tiên nghe con số này, tôi đã lờ mờ hiểu rằng người nông dân Campuchia bị giới quý tộc ngông cuồng bóc lột nặng nề trong nhiều thế kỷ khiến họ nung nấu lòng căm hờn và bùng nổ dưới thời Pol Pot.
Chúng ta không nên để tất cả những đền đài, tượng Phật và những hồ nước đó lừa dối để nghĩ rằng các quốc vương Angkor là những người yêu chuộng hòa bình. Người Khmer thường xuyên đánh lẫn nhau và với cả những hàng xóm người Thái phía tây, người Chăm phía đông ở miền nam Việt Nam, và hàng xóm phía đông bắc ở miền bắc Việt Nam. Đế chế này đã chinh phục không chỉ khu vực Campuchia và Lào hiện nay mà còn cả một phần miền nam Việt Nam, Thái Lan và một phần nhỏ đông nam Myanmar. Rất nhiều phù điêu bằng đá mô tả sống động những khẩu thần công, khiên, giáp, chiến xa, các kỵ binh cưỡi voi và cưỡi ngựa, những cuộc chiến trên bộ và trên biển sử dụng thuyền chiến với những chiếc câu liêm và hàng chục người chèo thuyền.
Việc phân bố dân số trong các xã hội đô thị cũng tương tự như chúng ta ngày nay là không đồng đều và có thứ bậc. Đó là, một diện tích rộng lớn được sử dụng cho nông nghiệp và công nghiệp thì chỉ có mật độ dân số thấp, trong khi đô thị là một diện tích nhỏ hơn nhiều nhưng có mật độ dân số cao. Các vùng đô thị cũng hình thành theo thứ tự, cao nhất là kinh đô rộng lớn, bên dưới là các thành phố có quy mô và dân số trung bình, tiếp theo là các thành phố nhỏ hơn, các thị xã và làng mạc, bao quanh là đất nông nghiệp rõ ràng khác biệt với các thành phố.
Tuy nhiên, trong đế chế Khmer, ít nhất là trong vùng lõi được nghiên cứu kỹ lưỡng của nó, tất cả các cấp độ trung bình đều không có: thành phố lớn duy nhất là Angkor, bên dưới chỉ là các trung tâm tỉnh lị nhỏ. Trong vùng lõi đô thị rộng lớn đó, sự khác biệt giữa các vùng đô thị và các vùng nông nghiệp cũng rất mờ nhạt hay không có sự khác biệt. Thay vào đó, Angkor là một thành phố có mật độ dân cư thấp và các cánh đồng lúa nằm ngay bên ngoài bức tường của các ngôi đền, và ngay trong thành phố cũng có những cánh đồng lúa bát ngát với những ngôi nhà của nông dân tập trung thành từng cụm và nằm rải rác trong toàn thành phố. Khu vực của Angkor, khoảng hơn 1.000 kilômét vuông, bởi vậy lớn hơn các thành phố đông dân quen thuộc thời kỳ tiền công nghiệp Âu Á gấp nhiều lần, như Tokyo thế kỷ XIX (gọi là Edo), Constantinople thời Trung cổ, Baghdad thế kỷ thứ VII, Rome trong Đế chế La Mã, và các thành phố châu Âu khác trước thế kỷ XVI, tất cả các thành phố này đều có diện tích nhỏ hơn 1.000 kilômét vuông và đa phần chỉ rộng 25 kilômét vuông. Trong khi mật độ dân số của Angkor thấp hơn các thành phố đông dân này, tổng số dân của Angkor ước tính chỉ khoảng 750.000 người sống trong một diện tích rộng tương đương kinh đô vĩ đại của Trung Quốc ngày đó.
Điều này khiến các nhà khảo cổ nhận ra rằng các thành phố nông nghiệp thời kỳ tiền công nghiệp có mật độ dân số thấp trong các vùng nhiệt đới ẩm ướt từng phổ biến hơn nhiều so với nhận thức trước đây của chúng ta. Danh mục các thành phố này ngày càng tăng bao gồm các thành phố Maya vùng đất thấp cổ điển cho tới tận thế kỷ thứ IX; như Tikal và Copán; các thành phố Anuradhapura và Pollonaruwa của Sri Lanka, trong khoảng từ thế kỷ thứ IV TrCN cho tới thế kỷ XII; thành phố Bagan trong thế kỷ XIII của Myanmar; hai thành phố đối địch Angkor là kinh đô Cham của Mỹ Sơn tại Việt Nam tới tận thế kỷ XIII và kinh đô Sukhotai của người Thái giai đoạn từ năm 1238 đến 1438; và có lẽ cả trung tâm Java thế kỷ thứ IX đến thế kỷ X xung quanh các ngôi đền Borobudur và Prambanan. Chúng ta không có những chứng cứ từ người châu Âu về bất kỳ thành phố nhiệt đới ít dân cư nào tại thời điểm cực thịnh của chúng, bởi tất cả đã suy tàn và bị bỏ hoang từ lâu trước khi người châu Âu bắt đầu thám hiểm thế giới, vào khoảng năm 1500. Rõ ràng, trong xu thế lâu dài hình thái thành phố này có điều gì đó bất ổn: Đó là gì? Tôi sẽ trở lại câu hỏi này đối với trường hợp của Angkor.
Mặc dù không có những ghi chép của người châu Âu đương thời về Angkor, nhưng chúng ta có cả một tài liệu dài của một người Hoa, sứ thần thương mại Chu Đạt Quan, người đã lưu lại Angkor trong thời gian một năm, từ năm 1295 - 1296, cuối thời kỳ trị vì của quốc vương thứ tám của triều đại Jayavarman. Một phần tài liệu của ông Chu được tìm thấy ở Bắc Kinh hồi thế kỷ XIX trong tình trạng tốt một cách đáng kinh ngạc. Cuốn sách của ông mô tả chi tiết đời sống thường nhật tại Angkor cùng với những câu cho chúng ta biết cách quản lý các ngôi đền ở đây, những nét chạm khắc phù điêu mô tả các nghi lễ tôn giáo và các cuộc chiến trên tường các ngôi đền cũng cung cấp cho chúng ta những thông tin khác. Hãy hình dung chúng ta sẽ hiểu hơn nhiều về đời sống Maya cổ đại nếu chúng ta có một tài liệu như của ông Chu về thành phố Tikal của Maya tại thời kỳ cực thịnh của nó! Để các bạn khỏi tò mò về cuốn sách của ông Chu, sau đây là một số đoạn trích trong cuốn Hồi Ký của ông về phong tục của Campuchia: Về kiến trúc cực kỳ xa hoa: “Ở giữa kinh đô là một tòa tháp bằng vàng (đền Bayon)… về phía đông là một cây cầu dát vàng với hai con sư tử bằng vàng đứng canh… khoảng 500 mét về phía bắc của tòa tháp vàng là một tòa tháp bạc (đền Baphuon). Tháp này thậm chí còn cao hơn cả tháp vàng, và là một thắng cảnh cực kỳ đẹp… cách khoảng 1,5 kilômét về phía đông thành phố là Hồ Đông (Đông Baray). Hồ này chu vi khoảng 48 kilômét. Ở giữa hồ là một tượng Phật ngồi bằng đồng với dòng nước liên tục chảy ra từ rốn của Phật”. Lời kể của ông Chu được xác nhận bằng việc phát hiện một phần tượng phật khổng lồ này vào năm 1936, thực ra là ở Tây Baray; dường như ông Chu đã quay ngược chiếc la bàn của mình.
Là một sứ thần thương mại, ông Chu đặc biệt quan tâm tới thương mại giữa Angkor và Trung Hoa. Ông liệt kê những mặt hàng xuất khẩu chính từ Angkor sang Trung Hoa, theo thứ tự ưu tiên giảm dần, là: lông chim bói cá xanh sáng, ngà voi, sừng tê, sáp ong, trầm, cây bạch đậu khấu, nhựa thông, sơn mài, dầu chữa bệnh và hạt tiêu. Mặt hàng nhập khẩu chính của Angkor từ Trung Hoa là vàng, bạc, vải lụa, hàng hóa bằng thiếc, các khay sơn mài, ngọc, thủy ngân, giấy và diêm tiêu để làm thuốc súng.
Về nô lệ: “Nếu trẻ khỏe, nô lệ có thể đáng giá 100 mảnh vải; nếu già yếu, họ chỉ được đổi với giá 30-40 mảnh. Nô lệ được phép nằm hay ngồi trên sàn nhà. Khi làm việc, họ có thể được phép lên gác, nhưng chỉ sau khi đã khom lưng, quỳ gối và chắp tay để tỏ lòng tôn kính… khi mắc lỗi, nô lệ phải cúi đầu chịu phạt mà không được phép cử động. Nếu bỏ trốn và bị bắt lại, nô lệ sẽ bị xăm một dấu màu xanh lên mặt; ngoài ra còn phải đeo gông sắt ở cổ, hay bị cùm chân tay”.
Về thẩm vấn và xử phạt tội phạm: “Nếu mất đồ vật gì đó, và kẻ bị tình nghi không nhận tội, thì kẻ đó sẽ phải nhúng tay vào dầu sôi. Nếu là đúng là thủ phạm thì tay kẻ đó sẽ bị bỏng; nếu không phải thì tay kẻ đó sẽ không bị làm sao. Đây là cách xét xử của những người man rợ…[hình phạt cho những tội nặng], tội phạm bị chôn xuống một chiếc hố và bị ném đất, đá vào người cho tới khi đống đất đá vùi lấp kẻ phạm tội, thế là xong”.
Về nhu cầu tình dục mạnh mẽ của phụ nữ Campuchia: “Một hay hai ngày sau khi sinh, họ đã sẵn sàng quan hệ tình dục: nếu người chồng không đáp ứng, anh ta sẽ bị bỏ ngay. Khi người chồng đi làm ăn xa, phụ nữ có thể chờ đợi trong thời gian ngắn; nhưng nếu anh ta đi quá 10 ngày, người vợ có thể nói ‘tôi không phải người chết mà có thể nằm một mình!’. Mặc dù có nhu cầu tình dục cao, nhưng nhiều phụ nữ vẫn chung thủy với chồng.” Về các kỹ năng quân sự của người Khmer, ông Chu tỏ ra coi thường: “Nói chung, những người này không có kỷ luật hay chiến lược gì cả”.
Người Khmer cũng có sách riêng của mình. Những cuốn sách tôn giáo được khắc trên lá cọ bằng bút trâm, sau đó các vết khắc được bôi thuốc nhuộm đen. Những cuốn sách cổ hoặc được viết bằng bút chì trắng hay mực đen trên những nếp gấp xanh như đàn accordion của những tờ giấy đen hoặc trắng tương ứng. Đáng tiếc là những chất liệu này dễ bị hư hỏng trong khí hậu nóng ẩm, và tất cả những cuốn sách của Angkor cũng không phải là ngoại lệ và đều bị hỏng. Chúng ta chỉ có thể phán đoán rằng những cuốn sách đó viết về lịch sử, xã hội, khoa học và triết học của người Khmer. Cũng giống như chúng ta cố gắng đánh giá người Hy Lạp cổ đại mặc dù tất cả những tác phẩm của Homer, Plato, Aristotle, Thucydides, Herodotus, Sappho và Sophocles đã bị thất lạc.
Thời điểm khi Pháp áp đặt chế độ thuộc địa lên Campuchia năm 1863, Angkor đã bị rừng già bao phủ phần lớn, nhưng những ngôi đền và hồ nước vĩ đại và những kênh đào lớn vẫn còn hiện rõ. Trong suốt cả thế kỷ tiếp theo, các nhà khảo cổ người Pháp đã dọn dẹp, lập bản đồ khu vực này và tái tạo những kiến trúc đổ nát, một cuộc tranh cãi về chức năng của các hồ nước nổ ra. Trong những năm 1980, các học giả người Anh và người Mỹ bắt đầu nghiêng theo quan điểm rằng chúng chỉ để trang trí và sử dụng trong các nghi lễ tôn giáo, trong khi các học giả người Pháp (nhất là sau công trình nghiên cứu của Bernard Philippe Groslier) coi Angkor như một “thành phố chạy bằng sức nước” phụ thuộc vào các hồ chứa để tưới cho các cánh đồng lúa. Một phản biện mạnh mẽ đối với quan điểm của Groslier là các hồ chứa này rõ ràng không có các đầu vào và đầu ra, và như vậy thì chúng không thể được sử dụng để đưa nước tới các cánh đồng.
Cuộc tranh luận này phải chờ mãi tới khi Campuchia kết thúc nội chiến và chấm dứt thời kỳ Pol Pot thì mới có hồi kết nhờ việc áp dụng các kỹ thuật lập bản đồ mới, và một dự án chung giữa các nhà khảo cổ của Australia, Pháp và Campuchia được hình thành năm 2002. Các nhóm nghiên cứu tham gia dự án gồm Trường Đại học Sydney và École Française d’Extrême-Orient (đứng đầu bởi Roland Fletcher và Christophe Pottier tương ứng), hợp tác với cơ quan quản lý Angkor của chính quyền của Campuchia. Một kỹ thuật hiện đại được áp dụng trong dự án là chụp ảnh bằng radar không gian, có khả năng nhìn xuyên qua mây và phát hiện những khác biệt trên những bề mặt gồ ghề, thực vật và độ ẩm, và từ đó nhận ra những điểm đặc biệt mà những người quan sát trên mặt đất không thể nhận ra. Những hình ảnh radar này sau đó được các nhóm nghiên cứu sử dụng để tìm kiếm những tàn tích của những viên gạch, các đồ gốm và những chứng cứ trực tiếp khác của các kiến trúc đổ nát và bị chôn vùi. Hình ảnh radar đầu tiên của Angkor do tàu vũ trụ con thoi Endeavor chụp năm 1994, rồi lại được Phòng Thí nghiệm Sức đẩy Phản lực của NASA chụp chi tiết gấp nhiều lần trong cuộc khảo sát bằng radar hàng không vào tháng Chín năm 2000 sau những cuộc khảo sát thực địa chuyên sâu của Christophe Pottier trong những năm 1990. Những hình ảnh radar này kết hợp với ảnh chụp bằng máy bay và các khảo sát khác tạo nên một bản đồ có độ phân giải cao của vùng lõi của tổ hợp đô thị Angkor Vĩ Đại trên diện tích hơn 1.000 kilômét vuông.
Bản đồ này cho thấy một mạng lưới các kênh đào có bờ cao được sử dụng để làm đường đi, vết tích các hồ chứa mọi kích thước từ hồ Baray vĩ đại cho tới các ao nhỏ của mỗi gia đình và hệ thống các cánh đồng lúa ẩn dưới bề mặt các ruộng lúa đang trồng ngày nay. Rừng nguyên sinh trong toàn bộ khu vực từ phía bắc hồ Tonle tới rặng đồi núi Kulen Hills đã bị phá bỏ và chuyển thành thành phố có mật độ dân cư thấp, nơi đất đai được dành để trồng lúa, xây dựng các ngôi nhà và đền đài. Từ khu vực trung tâm với các ngôi đền lớn nhất tỏa ra sáu con đường trên những bờ kênh lớn, được nối với nhau bằng những chiếc cầu. Những cuộc khảo sát hiện trường cũng xác định được vị trí của những tuyến kênh đầu vào và đầu ra của hồ Baray được tìm kiếm từ lâu nay, kết nối chúng với hệ thống kênh mương tưới tiêu. Bên cạnh những ngôi đền chính nổi tiếng như Angkor Wat, Baphuon và Bayon, còn có hàng trăm ngôi đền nhỏ của các địa phương, nằm trên diện tích khoảng 20 mét mỗi chiều, bao quanh là một chiếc hào có một đường đất bắc qua ở bờ phía tây.
Lãnh thổ Angkor được chia thành ba vùng, mỗi vùng có vai trò riêng trong quản lý nước. Vùng đông bắc, bao gồm rặng đồi núi Kulen Hills, có vai trò thu nước nước chảy xuống từ các ngọn đồi về các con sông. Vùng trung tâm, bao gồm hồ Baray lớn, lưu trữ nước đã thu về. Vùng tây nam có hệ thống kênh mương chằng chịt để dẫn nước đến các cánh đồng lúa hay để thoát nước nhanh chóng ra hồ, tùy từng thời điểm. Các kênh mương có cả các kênh mương có góc rẽ phải và đan chéo nhau để làm giảm tốc độ của dòng nước, giảm xói mòn bờ kênh, giảm lượng bùn lơ lửng và để kênh mương không bị bùn đất làm tắc nghẽn. Quy hoạch của hệ thống và niên đại của các thành phần của nó cho phép xác định hệ thống thủy lợi này được phát triển trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ XIV, khi những dòng sông liên tục tiến về phía bắc và phía tây và các kênh mương nối vào chúng để thu nước.
Toàn bộ hệ thống thể hiện trình độ kỹ thuật tài ba trên quy mô lớn của người Khmer. Các dòng sông bị nắn dòng để chảy từ phía bắc sang phía nam thay vì dòng chảy nguyên thủy từ đông bắc sang tây nam. Những hồ chứa lớn có quy mô của thời kỳ công nghiệp hiện đại, cá biệt có hồ với bờ rộng hơn 90 mét và cao hơn 9 mét. Hệ thống phức tạp tới mức chúng ta mới chỉ bắt đầu hiểu hoạt động của nó, và vẫn còn những yếu tố lớn hơn mà chức năng vẫn còn là một điều bí ẩn. Rõ ràng, nó được thiết kế để quản lý nước, chứ không phải chỉ để trang trí và làm nơi tiến hành các nghi lễ tôn giáo như một số nhà khảo cổ trước đây đã nhận định. Mục đích rõ ràng nhất của hệ thống là để quản lý các rủi ro: điều chỉnh những biến động về nguồn nước giữa các mùa và các năm, và để đảm bảo cung cấp nước đầy đủ cho trồng lúa cho dù lượng mưa trong năm thấp hay không có mưa. Bởi vậy hệ thống có vai trò đảm bảo cung cấp lương thực cho các cư dân kinh đô, và nó minh họa các hệ thống được sử dụng trong toàn đế chế nhằm cung cấp nuôi sống dân số và quyền lực của đế chế.
Đầu những năm 1200, đế chế Khmer dưới sự trị vì của quốc vương Jayavarman đệ thất là một quốc gia lớn nhất và hùng mạnh nhất Đông Nam Á, với kinh đô là Angkor. Trong những năm 1860, khi người Pháp đặt chân tới đây thì chỉ còn thấy một vương quốc Khmer nhỏ và yếu đuối, với kinh đô đặt tại Phnom Penh, cách Angkor hơn 200 kilômét về phía nam và chỉ còn rải rác vài ngôi làng trên khu vực đô thị trước đây của Angkor. Điều gì đã xảy ra trong giai đoạn đầu những năm 1200 đến 1860 gây ra hậu quả này?
Một thế kỷ sau thời gian trị vì của quốc vương Jayavarman đệ thất, đế chế này bắt đầu dần suy tàn. Mặc dù những ngọn tháp vàng và những nghi lễ hoành tráng vẫn khiến sứ thần Chu Đạt Quan ấn tượng trong thời gian ông lưu lại đây năm 1295 - 1296, nhưng việc xây dựng những đền đài bằng đá lớn đã chấm dứt, ngôi đền truyền thống cuối cùng được khánh thành năm 1295, và chữ Sanskrit cuối cùng được khắc năm 1327. Khoảng đầu thế kỷ XV, các kinh đô mới bắt đầu phát triển về phía đông và phía nam hồ Tonle trong vùng phụ cận của Phnom Penh, và người dân dường như bắt đầu di chuyển ra khỏi Angkor. Mặc dù quốc vương Khmer trong những năm 1600 vẫn khoe khoang rằng ông ta đã mạ vàng những ngọn tháp của Angkor Wat, nhưng vùng đô thị của Angkor đã bắt đầu bị bỏ hoang từ sau khoảng năm 1660, và vương quốc Khmer tiếp tục suy tàn.
Lý do khiến đế chế Khmer suy tàn chính là sự nổi lên của những thù địch hùng mạnh. Từ những năm 1200, cả người Thái và người Việt đều mở rộng lãnh thổ về phía nam, người Thái ở phía tây từ miền nam Trung Hoa và người Việt ở phía đông Angkor, khiến đế chế Khmer rơi vào suy tàn. Trong thế kỷ XV, người Thái được cho rằng đã chiếm giữ Angkor trong một thời gian, trong khi người Việt định cư ở châu thổ Mekong từ những năm 1700.
Một nguyên nhân khác là sự thay đổi trọng tâm của nền kinh tế Khmer, khi chuyển từ canh tác nông nghiệp trên đất liền sang tăng cường thương mại hàng hải dọc bờ biển Đông Nam Á giao thương với Trung Hoa, Ấn Độ và trung tâm Hồi giáo. Đây có thể là nguyên nhân chuyển dịch kinh đô từ Angkor nằm sâu trong đất liền sang Phnom Penh, nơi có thể kết nối trực tiếp hơn với bờ biển và xuống tận sông Mekong. Nhưng sự mở rộng của người Việt sau này khiến thương mại hàng hải cua Khmer ngày càng khó khăn hơn.
Một yếu tố khác lớn hơn mà giờ chúng ta cần biết để hiểu hơn về sự suy tàn của Angkor chính là thay đổi khí hậu. Các nghiên cứu về hệ thống thủy lợi đã mang lại chứng cứ trái ngược với cả những trận lụt và những đợt hạn hán trong thế kỷ XIV và XV. Một mặt, những kênh mương lớn ở phía nam Angkor đã bị bồi lấp bởi cát sỏi, cho thấy có thể đã có những trận mưa và lụt lớn. Mặt khác, các kênh thoát nước của hồ nước lớn Baray bị chặn lại, trong khi kênh thoát nước của hồ Đông Baray được sửa chữa khiến nó hẹp hơn và rồi bị hoán cải từ một kênh đầu ra trở thành kênh đầu vào - một dấu hiệu rõ ràng của tình trạng thiếu nước và nỗ lực giữ mực nước trong hồ ở mức cao. Giải pháp cho sự kết hợp trái ngược của lũ lụt và hạn hán này chỉ mới vừa được phát hiện thông qua nghiên cứu dữ liệu những vòng gỗ trên thân các loại cây trong khoảng thời gian 979 năm, tương tự như nghiên cứu vòng gỗ thân cây minh họa cho hiện tượng khí hậu thay đổi tại khu vực của người Anasazi mà tôi đã thảo luận trong Chương 4.
Những dữ liệu của vòng gỗ thân cây cho thấy lượng mưa gió mùa ở Đông Nam Á sau năm 1350 biến động rất lớn, với hai đợt siêu hạn hán kéo dài từ năm 1336 đến 1374 và từ năm 1400 đến 1425, và lượng mưa lớn bất thường trong một số năm xen giữa hai thời kỳ đó và chỉ ngay trước và sau hai đợt hạn hán này. Giai đoạn 1322 đến 1453 có số các năm khô nhất và nhiều mưa nhất không cân xứng trong thiên niên kỷ vừa qua.
Giờ chúng ta có thể đặt sự suy tàn của Angkor trong khung năm điểm mà tôi đã giới thiệu trong phần mở đầu của cuốn sách này để tìm hiểu về sự thành công hay thất bại của một xã hội. Đầu tiên, người Khmer đã vô tình gây tổn hại đến môi trường sống của họ: họ phá rừng trên đồng bằng Angkor và trên các sườn đồi núi Kulen Hills. Không có cây để ngăn nước mưa, những đợt mưa lớn làm xói mòn đất đai, đánh bật những lớp trầm tích và quét chúng xuống các kênh mương, lũ lụt cũng làm hư hỏng hệ thống kênh mương của sông Siem Riep. Hiện sông này chỉ sâu khoảng 6 mét so với mặt đất của người Angkor. Thứ hai, thay đổi khí hậu khiến Angkor vừa khô hơn vừa ẩm ướt hơn so với điều kiện mà hệ thống Angkor có thể thích ứng. Thứ ba, người Khmer, cũng giống như đế chế La Mã và người Norse Greenland, phải đối mặt với những vấn đề ngày càng nghiêm trọng do các láng giềng thù địch gây ra. Thứ tư, các đối tác thương mại hữu nghị đóng vai trò lớn, thông qua việc đem lại những cơ hội kinh tế hàng hải cho người Khmer hấp dẫn hơn những cơ hội trong đất liền, nhưng sau đó những cơ hội này bị thu hẹp lại. Cuối cùng, đế chế Khmer phản ứng trước những thuận lợi và khó khăn của môi trường Angkor bằng cách xây dựng hệ thống quản lý nước ngày càng lớn hơn, phức tạp và khó duy trì hơn và không thể quay trở lại như trước được. Tất cả năm yếu tố này tương tác với nhau: thay đổi khí hậu và xói mòn làm suy yếu người Khmer tới mức họ không thể chống lại các nước láng giềng đối địch, không thể duy trì và cải tiến hệ thống quản lý nước của mình, và quay lưng lại với nền kinh tế nông nghiệp để chuyển sang kinh tế hàng hải cho tới khi các tuyến đường thương mại thay đổi và quyền lực chính trị suy giảm cũng khiến hoạt động kinh tế hàng hải ít lợi nhuận hơn.
Chúng ta cũng có thể liệt sự suy tàn của đế chế Khmer vào chuỗi những xã hội bị sụp đổ, từ sụp đổ nhanh và thảm khốc tới sụp đổ từ từ và không thảm khốc. Xã hội sụp đổ nhanh và thảm khốc chính là sự tuyệt diệt của các khu dân cư Tây Greenland, nơi có thể tất cả dân cư đã chết trong một mùa đông lạnh giá. Sự suy tàn của Angkor dường như trái ngược hẳn: nó diễn ra trong hàng thế kỷ, người dân dần chuyển đi nơi khác, và không có chứng cứ về hiện tượng người dân bị chết trên quy mô lớn. Nhưng dù sao, hậu quả vẫn rõ ràng là một xã hội bị sụp đổ: đó là những ngôi làng rải rác ở khu vực trung tâm đô thị trước kia, nơi từng là một thành phố tầm cỡ thế giới và là thủ phủ của đế chế hùng mạnh nhất trong vùng.
Với tất cả những người trong chúng ta bị mê hoặc bởi hào quang và sự bí ẩn của Angkor, thì đây là những thời điểm thú vị. Trong thập kỷ trước, chúng ta đã thu thập được nhiều kiến thức chi tiết về thành phố này, dựa trên những đợt khảo cổ diễn ra từ cả trăm năm trước. Nhưng nhiều câu hỏi lớn vẫn còn để ngỏ, và thập kỷ tới hứa hẹn sẽ khám phá ra nhiều điều thú vị hơn. Sau đây là danh mục năm bộ câu hỏi lớn mà tôi muốn được trả lời vào năm 2020:
Cư dân Angkor lấy gỗ ở đâu để xây dựng và làm củi đun? Dân số 750.000 người của thành phố này chắc hẳn phải cần lượng gỗ lớn để xây dựng nhà cửa cùng các kiến trúc khác, và để làm củi đun. Nhưng những cánh rừng nguyên sinh trên đồng bằng Angkor và phần lớn rừng của rặng đồi núi Kulen Hills đã bị đốn, và khó có thể tin rằng cư dân thời đó đã trồng cây quanh nhà để đáp ứng những nhu cầu của số lượng dân lớn như vậy.
Người Khmer đã quản lý nước như thế nào? Chắc chắn họ có những biện pháp để ghi lại những mùa mưa và dự đoán dòng chảy của nước. Những miếu thờ ở giữa hồ Baray có vai trò gì trong quản lý mạng lưới kênh mương? Người Khmer lưu chuyển nước xung quanh lãnh thổ như thế nào mà không cần dùng bơm? Hồ Tây Baray không đào sâu vào trong đất mà được xây dựng trên mặt đất, và được đặt ở vị trí rất thông minh để các kênh mương đầu vào cấp lượng nước cao hơn mực nước đầu ra khoảng một mét. Làm thế nào để các kỹ sư thủy lợi Khmer có thể chuyển dòng nước từ kênh này sang kênh kia khi cần thiết? Các kênh này có cửa đập hay không?
Toàn bộ hệ thống quản lý nước này hoạt động như thế nào? Nó bao gồm nhiều cấu trúc lớn đã được xác định nhưng chức năng của chúng thì vẫn còn là điều bí ẩn.
Tại sao Angkor phải mất nhiều thời gian như vậy để phục hồi lại dân cư đông đúc như trước sau khi thành phố bị bỏ hoang phần lớn vào những năm 1600? Câu hỏi này cũng được đặt ra với vùng đất thấp phía nam Maya, dân cư vẫn thưa thớt sau khi nhà thám hiểm Cortés đặt chân đến đây vào năm 1524, sáu hay bảy thế kỷ sau khi Maya cổ điển sụp đổ.
Cuối cùng, tôi đã đề cập ngay từ đầu chương này rằng ngoài Angkor, thế giới từng có một số thành phố nhỏ ít cư dân khác trong các vùng nhiệt đới ẩm ướt, nhưng tất cả những thành phố này đều đã suy tàn trước khi châu Âu mở rộng trong năm thế kỷ qua. Vậy gót chân Achilles đã khiến Angkor và những thành phố tương tự khác rơi vào suy tàn trong suốt thời gian dài là gì?