← Quay lại trang sách

Hậu Đe dọa, năm thứ nhất, châu Úc

Trình Tâm đứng trước nhà Già Fraisse, ngắm nhìn sa mạc Victoria cuồn cuộn những làn sóng nhiệt. Trước mắt cô, những căn nhà lắp ghép vừa xây xong nằm ken đặc chi chít, dưới ánh Mặt trời ban trưa, những căn nhà ghép bằng gỗ ván ép và những tấm kim loại mỏng này có vẻ mới tinh và yếu ớt, trông như một đống đồ chơi gấp giấy bị vứt ra giữa sa mạc.

Năm thế kỷ trước, khi phát hiện ra Úc, thuyền trưởng James Cook có nằm mơ cũng không thể ngờ được sẽ có ngày toàn bộ loài người tụ tập về đại lục đã từng trống trải vô cùng này.

Trình Tâm và Ngải AA đến Úc theo đợt di dân sớm nhất. Vốn dĩ Trình Tâm có thể đến các thành phố lớn như Sydney hay Canberra, sống tương đối thoải mái, nhưng cô kiên quyết làm một người di dân bình thường, đến khu di dân nằm ở sa mạc gần Warburton sâu trong lục địa, nơi có điều kiện kém nhất. Điều khiến cô hết sức cảm động là, AA vốn có điều kiện đến thành phố lớn cũng khăng khăng đòi đi theo cô.

Cuộc sống ở khu di dân rất gian khổ, nhưng trong những ngày đầu tiên, số lượng di dân không nhiều, vẫn gắng chịu đựng được. So với gian khổ vật chất, sự quấy rối đến từ con người còn kinh khủng hơn. Ban đầu, Trình Tâm và AA sống chung trong một căn nhà lắp ghép, nhưng khi lượng di dân tăng lên, số người sống chung trong căn nhà đã dần lên đến tám người. Sáu người phụ nữ kia đều sinh ra trong kỷ nguyên Đe dọa, cuộc sống như ở chốn thiên đường, ở đây, khắp nơi đều là những sự vật họ thấy lần đầu tiên trong đời: thực phẩm và nước được phân phối theo tiêu chuẩn, không có tường thông tin, thậm chí còn không có phòng điều hòa, nhà vệ sinh và nhà tắm công cộng, giường tầng... Đây là một xã hội công bằng tuyệt đối, có tiền cũng vô dụng, phần chia cho tất cả mọi người đều hoàn toàn như nhau. Trước đây, họ chỉ thấy những điều này qua các bộ phim lịch sử, đối với họ, cuộc sống ở khu di dân giày vò ngang với địa ngục, lẽ đương nhiên, Trình Tâm liền trở thành đối tượng để những người này trút giận. Động một tí là họ rủa sả chửi bới cô, mắng cô là đồ bỏ đi, không thể đe dọa được thế giới Tam Thể, đáng chết nhất là sau khi nhận được cảnh báo tấn công lại từ bỏ hành động đe dọa, bằng không thì nếu khởi động phát sóng hấp dẫn, người Tam Thể liền bị dọa cho chạy mất rồi, ít nhất thì cũng còn mấy chục năm sống tử tế, kể cả sau khi phát sóng Trái đất bị tiêu diệt ngay tức khắc cũng còn đỡ hơn đến chỗ chết tiệt này chịu hành hạ. Mới đầu họ chỉ mắng chửi, sau rồi đến mức động tay động chân với Trình Tâm, thậm chí còn cướp đoạt cả phần phân phối của cô.

Nhưng AA vẫn liều mạng bảo vệ bạn mình, cô biến thành một con đàn bà đanh đá, hằng ngày đều đánh nhau với sáu người kia mấy bận, có lần còn túm tóc người hung hăng nhất đập mạnh vào chân giường tầng, khiến cô ta máu me đâm đìa mặt, từ đó trở đi, họ mới không dám đụng đến cô và Trình Tâm nữa.

Nhưng không chỉ có mấy người phụ nữ này căm giận Trình Tâm, dân di cư ở xung quanh cũng thường xuyên đến quấy nhiễu, có lúc họ còn ném đá vào nhà, có lúc cả đám người đứng quây quanh căn nhà, đồng thanh mắng chửi.

Đối với những chuyện này, Trình Tâm đều thản nhiên chấp nhận - thậm chí, cô còn thấy đó là một sự an ủi, là Người Giữ Gươm thất bại, cô cảm thấy mình cần phải trả một cái giá đắt hơn nhiều.

Lúc này, một ông già tên là Fraisse đến tìm cô, mời cô và AA đến ở nhà mình. Già Fraisse là người Úc bản địa, đã hơn tám mươi tuổi nhưng vẫn còn rất khỏe mạnh, trên gương mặt ngăm đen là bộ râu trắng như tuyết. Là người bản địa, ông tạm thời vẫn giữ được nhà của mình. Ông là người thời Công nguyên, tỉnh lại sau giấc ngủ đông, từng phụ trách một tổ chức bảo tồn văn hóa bản địa hồi trước kỷ nguyên Khủng hoảng, sau đó ngủ đông vào đầu kỷ nguyên Khủng hoảng, mục đích là để tiếp tục sự nghiệp của mình trong tương lai. Sau khi tỉnh lại, ông thấy đúng như mình dự đoán, thổ dân Úc và văn hóa của họ đã gần bị diệt vong rồi.

Nhà của Già Fraisse được xây dựng hồi thế kỷ 21, rất cũ kỹ nhưng vẫn còn rất kiên cố, nằm ở bìa một khu rừng. Sau khi chuyển tới đây, cuộc sống của Trình Tâm yên ổn hơn nhiều, nhưng điều quý nhất Già Fraisse mang lại cho họ là sự yên ổn về mặt tâm hồn. Khác với sự thù hận ăn vào xương tủy và nỗi phẫn nộ hừng hực cào gan xé ruột của đại đa số mọi người trước thế giới Tam Thể, Già Fraisse đối mặt với mọi thứ bằng thái độ thản nhiên, những lúc hiếm hoi nhắc đến thời cục nguy nan, ông chỉ nói một câu duy nhất:

“Con ạ, những gì con người làm, chúa Trời đều nhớ hết.”

Đúng thế, chuyện con người đã làm, đừng nói là Chúa Trời, ngay cả bản thân con người cũng đều nhớ rõ. Năm trăm năm trước, những người Trái đất văn minh đã đặt chân lên lục địa này (mặc dù hầu hết là phạm nhân ở châu Âu), họ đã cho thổ dân Úc là dã thú mà tàn sát, sau này phát hiện họ không phải thú mà là con người, nhưng cuộc tàn sát vẫn cứ tiếp diễn. Thổ dân Úc đã sống trên mảnh đất mênh mông này mấy chục nghìn năm, khi người da trắng mới đến đây, Úc vẫn còn năm trăm nghìn thổ dân, nhưng chỉ một thời gian ngắn sau họ đã bị giết hại chỉ còn ba mươi nghìn người, phải chạy trốn đến vùng sa mạc hoang vắng phía Tây châu lục mới may mắn sống sót... Kỳ thực, khi Tomoko đọc “Tuyên bố về khu bảo tồn văn minh”, mọi người đều chú ý cô ta sử dụng từ “Reservation”, đây là cách gọi đối với khu bảo tồn người da đỏ thuở trước. Cũng là ở một đại lục xa xôi khác, sau khi những người văn minh đặt chân lên đó, số phận của người da đỏ còn bi thảm hơn thổ dân Úc gấp bội phần.

Lúc mới dọn đến nhà Già Fraisse, AA hết sức tò mò với tất cả mọi thứ trong gian nhà cũ kỹ ấy. Nơi đó dường như là một bảo tàng văn hóa thổ dân Úc, khắp nơi đều được trang trí bằng các bức tranh trên vỏ cây và phiến đá, các nhạc cụ làm bằng gỗ và thân cây khoét rỗng, váy tết bằng cỏ, boomerang, giáo dài... Thứ khiến AA thích thú nhất là mấy hộp thuốc nhuộm làm bằng đất sét trắng, đất son màu vàng và màu đỏ, cô biết ngay thứ đó dùng để làm gì, bèn lấy ngón tay chấm vào bôi lên mặt, sau đó nhảy nhót một điệu múa thổ dân mà cô xem được ở đâu đó, miệng kêu oa oa, bảo rằng làm thế này có khi dọa cho mấy mụ đàn bà sống chung trước đó sợ chết khiếp.

Già Fraisse cười cười lắc đầu, nói điệu nhảy ấy không phải của thổ dân Úc, mà là người Maori, người ngoài thường lầm lẫn hai dân tộc này với nhau, nhưng họ thực ra rất khác, một bên rất hiền lành, một bên lại là những chiến sĩ hung hãn; mà kể cả điệu múa của người Maori cô cũng không nhảy đúng, không nắm bắt được tinh thần của họ. Nói đoạn, ông lão dùng thuốc nhuộm bôi lên mặt mình, nhanh chóng vẽ thành một mặt nạ sinh động, rồi cởi áo, lộ ra bộ ngực ngăm đen cùng với cơ bắp rắn chắc chẳng giống gì với độ tuổi. Ông lấy trong góc tường ra một cây giáo dài thứ thiệt, nhảy cho họ xem điệu múa của những chiến binh Maori. Màn biểu diễn của ông ngay tức khắc hút hồn hai cô gái, vẻ hiền hòa, đôn hậu thường ngày của Già Fraisse đã biến mất không còn dấu vết, trong nháy mắt ông đã biến thành một ác thần hung hãn, toàn thân hừng hực toát lên sức tấn công dũng mãnh, mỗi tiếng gầm giận dữ, mỗi lần ông giậm chân, đều khiến cửa kính rung lên bần bật, khiến người ta bất giác run rẩy. Họ kinh hãi nhất là vì đôi mắt trợn tròn của ông, từ đó trào ra lửa giận hừng hực lẫn sát khí lạnh lẽo như băng, ngưng tụ sức mạnh của sấm sét và lốc xoáy châu Đại Dương, ánh mắt ấy dường như đang gầm lên kinh thiên động địa: Cấm chạy! Ta muốn giết các ngươi! Ta muốn ăn thịt các ngươi!!!

Nhảy xong, Già Fraisse lại trở về dáng vẻ hiền hòa đôn hậu bình thường, ông nói: “Với một dũng sĩ Maori, quan trọng nhất là có đôi mắt khóa chặt kẻ địch, dùng ánh mắt đánh bại hắn ta, sau đó mới dùng giáo giết chết hắn ta.” Ông đi tới trước mặt Trình Tâm, nhìn cô với ánh mắt nhiều ẩn ý: “Con à, con không có đôi mắt khóa chặt được kẻ địch.” Ông nhẹ nhàng vỗ lên vai cô: “Nhưng, không thể trách được con, thật sự không thể trách con được.”

Ngày hôm sau, Trình Tâm làm một việc mà chính cô cũng khó lý giải nổi: Cô đi gặp Wade.

Sau lần mưu sát bất thành đó, Thomas Wade bị phạt tù 30 năm, hiện nay, nhà giam ông ta vừa chuyển đến Charleville.

Khi Trình Tâm gặp Wade, ông ta đang lao động, dùng ván gỗ bịt cửa sổ một căn nhà lắp ghép dùng làm nhà kho. Một bên ông tay áo để không, vào thời đại này, lắp một cánh tay giả có chức năng y như cánh tay bình thường rất dễ, không hiểu tại sao ông ta lại không làm vậy.

Hai phạm nhân nam hiển nhiên cũng là người thời đại Công nguyên ngả ngớn huýt sáo ghẹo Trình Tâm, nhưng khi nhận ra cô đến tìm ai, họ lập tức trở nên ngoan ngoãn, vội vàng cúi đầu làm việc, hình như hơi sợ hãi vì hành động của mình lúc nãy.

Đến gần Wade, Trình Tâm ngạc nhiên nhận thấy, mặc dù đang chịu án, lại còn ở nơi gian khổ thế này, nhưng ngược lại ông ta gọn gàng hơn khi cô gặp lần trước rất nhiều, bộ râu đã cạo nhẵn nhụi, mái tóc cũng chải gọn ghẽ. Phạm nhân thời đại này không còn phải mặc áo tù nữa, nhưng chiếc áo trắng của ông ta là thứ sạch sẽ nhất ở đây, thậm chí còn sạch sẽ hơn cả ba viên quản ngục. Trong miệng ông ta ngậm mấy cây đinh, mỗi lần đều dùng tay trái ấn đinh vào ván gỗ, sau đó cầm búa lên nhanh nhẹn đập mạnh, đóng đinh lút vào. Ông ta liếc nhìn Trình Tâm, vẫn nguyên vẻ lạnh lùng trên gương mặt, tiếp tục lặng lẽ làm việc.

Vừa nhìn thấy người này Trình Tâm đã biết ngay, ông ta không hề buông bỏ, dã tâm và lý tưởng của ông ta, sự âm hiểm của ông ta, và còn rất nhiều thứ mà Trình Tâm chưa biết, tất cả ông ta vẫn chưa hề buông bỏ.

Trình Tâm chìa một tay về phía Wade, ông ta liếc cô, rồi hạ búa xuống, đặt mấy cây đinh trong miệng vào tay cô, sau đó cô kê đinh, ông ta gõ búa, cho đến khi đóng hết số đinh trong tay Trình Tâm, ông ta mới phá vỡ bầu không khí im lặng.

“Đi đi, đi đi.” Wade nói, lại lấy ra một vốc đinh trong hộp dụng cụ, lần này ông ta không đưa cho Trình Tâm, cũng không ngậm trong miệng, mà thả xuống mặt đất dưới chân.

“Tôi, tôi chỉ...” Nhất thời, Trình Tâm không biết nên nói gì.

“Tôi bảo cô hãy rời khỏi Úc, mau đi đi trước khi di dân hoàn tất.” Wade hạ giọng nói, lúc nói những lời này, hai môi ông ta gần như bất động, mắt nhìn chằm chằm vào tấm ván ép đang đóng đinh dở, những người đứng xa đều sẽ nghĩ rằng ông ta đang chăm chú làm việc.

Giống như rất nhiều lần hồi ba thế kỷ trước, Wade lại làm Trình Tâm đờ người ra chỉ bằng một câu ngắn ngủi. Mỗi lần, ông ta đều như thể quẳng cho cô một búi tơ rối mù, cô phải gỡ từng đoạn từng đoạn mới lĩnh ngộ được hàm nghĩa phức tạp trong đó. Nhưng lần này, câu nói của Wade khiến cô tức khắc không rét mà run, thậm chí còn không có can đảm đi gỡ búi tơ ấy ra.

“Đi đi.” Wade nói liền sau đó, không cho Trình Tâm kịp đặt câu hỏi, rồi quay sang nhìn cô, thoáng nở nụ cười mỉm lạnh lùng đặc trưng: “Lần này, là bảo cô rời khỏi nơi này.”

Trên đường về Warburton, Trình Tâm thấy khắp nơi đều là những gian nhà lắp ghép dày đặc đến nỗi không thấy đâu là tận cùng, thấy đám người chi chít đang bận rộn trên những khoảng đất trống giữa các nhà. Đột nhiên, cô cảm thấy điểm nhìn của mình thay đổi, tựa hồ đang nhìn mọi thứ từ bên ngoài thế giới này vậy, tất cả mọi thứ cũng đột nhiên biến thành một cái tổ kiến nhung nhúc. Góc nhìn kỳ dị này khiến cô rơi vào một nỗi sợ không thể gọi tên, nhất thời, ánh Mặt trời rực rỡ của châu Úc cũng nhuốm vẻ u ám như trong cơn mưa lạnh lẽo.

Công cuộc di dân tiến hành sang tháng thứ ba, số người đến Úc đã vượt quá con số một tỷ. Đồng thời, chính phủ các nước cũng lần lượt chuyển đến các thành phố lớn ở Úc, Liên Hiệp Quốc chuyển đến Sydney. Việc di dân do lãnh đạo chính phủ các nước chỉ đạo, nhưng ủy ban di dân Liên Hiệp Quốc điều phối toàn thế giới. Ở Úc, di dân đều tụ tập theo quốc gia thành từng phân khu, khiến Úc biến thành phiên bản thu nhỏ của thế giới trên Trái đất, ngoài các thành phố lớn, các địa danh cũ đều bị bỏ đi, thay vào đó là tên các quốc gia và thành phố nước ngoài. Hiện nay, New York, Tokyo và Thượng Hải đều là tên những trại tị nạn toàn những căn nhà lắp ghép.

Cả Liên Hiệp Quốc lẫn chính phủ các nước đều không có kinh nghiệm di chuyển và tập trung nhân khẩu với quy mô siêu lớn như vậy, đủ thứ khó khăn nguy hiểm mau chóng xuất hiện.

Đầu tiên là vấn đề nhà ở, các vị lãnh đạo di dân nhận ra cho dù chuyển toàn bộ vật liệu xây dựng hiện có trên thế giới đến Úc cũng chỉ thỏa mãn được một phần năm nhu cầu nhà ở của toàn bộ di dân, mà cũng chỉ đủ cho mỗi người một chiếc giường mà thôi. Khi di dân đạt đến con số năm trăm triệu thì đã không đủ vật liệu xây dựng các căn nhà lắp ghép riêng lẻ nữa, chỉ có thể xây các lều bạt siêu lớn, tương đương với sân vận động, mỗi lều chứa được hơn mười nghìn người. Thế nhưng, trong môi trường sống và điều kiện vệ sinh tồi tệ như vậy, bệnh truyền nhiễm trên diện rộng có thể bùng phát bất cứ lúc nào.

Lương thực bắt đầu thiếu thốn, vì nông nghiệp và công nghiệp vốn có ở Úc còn xa mới thỏa mãn được nhu cầu của di dân, lương thực cần phải vận chuyển đến từ các nơi khác trên thế giới. Khi số lượng di dân tăng lên, quá trình điều vận và phân phát lương thực đến tay di dân càng lúc càng trở nên phức tạp và tốn thời gian.

Nhưng nguy hiểm nhất vẫn là sự mất kiểm soát trong xã hội di dân. Ở khu di dân, xã hội siêu thông tin đã hoàn toàn biến mất, những người mới đến còn chọc loạn lên tường, lên bàn nhỏ đầu giường, thậm chí là lên quần áo của mình, nhưng lập tức phát hiện ra những thứ này đều là vật chết, hoàn toàn không có IT, thậm chí cả việc liên lạc cơ bản nhất cũng không thể đảm bảo. Mọi người chỉ có thể biết được tin tức trên thế giới qua những kênh thông tin cực kỳ hạn chế, đối với những người đến từ xã hội siêu thông tin, điều này chẳng khác nào đột nhiên bị mù. Trong tình hình đó, các cách thức lãnh đạo trước đây của chính phủ hiện đại đều không còn hiệu lực, họ không biết làm thế nào tiếp tục vận hành một xã hội chen chúc dày đặc như thế này.

Cùng thời điểm đó, loài người trên vũ trụ cũng bắt đầu di dân.

Lúc đe dọa chấm dứt, trên vũ trụ có khoảng một triệu năm trăm nghìn người. Những người sinh sống lâu dài trên không gian vũ trụ này chia làm hai phần, có khoảng năm trăm nghìn người thuộc về cộng đồng quốc tế ở Trái đất, sống ở các thành phố không gian, trạm không gian trên quỹ đạo Trái đất, và căn cứ trên Mặt trăng; phần còn lại thuộc về Hạm đội Hệ Mặt trời, phân bố trên căn cứ Sao Hỏa, căn cứ Sao Mộc và các chiến hạm không gian tuần hành trong Hệ Mặt trời.

Đa số những cư dân không gian thuộc cộng đồng quốc tế ở Trái đất đều ở trong quỹ đạo Mặt trăng, chỉ có thể trở về mặt đất, cùng tất cả mọi người trên Trái đất di dân đến Úc.

Khoảng một triệu người thuộc Hạm đội Hệ Mặt trời di dân toàn bộ đến căn cứ Sao Hỏa của hạm đội, đó là khu bảo tồn thứ hai mà thế giới Tam Thể chỉ định cho loài người.

Sau cuộc chiến tận thế, Hạm đội Hệ Mặt trời không thể hồi phục lại quy mô hùng hậu như trước đó, khi đe dọa chấm dứt, hạm đội chỉ còn hơn một trăm chiến hạm liên sao. Tuy công nghệ đang phát triển, nhưng tốc độ của chiến hạm mãi vẫn không tăng lên, gần như động cơ đẩy bằng phản ứng nhiệt hạch đã là cực hạn. Hiện nay, ưu thế áp đảo của hạm đội Tam Thể không chỉ ở chỗ bọn họ có thể đạt đến tốc độ ánh sáng, mà đáng sợ nhất là bọn họ không cần gia tốc đã có thể chuyển thẳng sang tốc độ ánh sáng; còn chiến hạm của nhân loại, nếu như tính cả lượng nhiên liệu tiêu hao để đảm bảo quay về, muốn gia tốc đến 15% tốc độ ánh sáng phải mất một năm, so với hạm đội Tam Thể thì chậm chẳng khác nào ốc sên.

Khi đe dọa chấm dứt, hơn một trăm phi thuyền liên sao của Hạm đội Hệ Mặt trời vẫn có cơ hội thoát ra vũ trụ bên ngoài, nếu khi đó tất cả chiến hạm đều dốc hết tốc lực bỏ chạy theo các hướng khác nhau, tám Giọt Nước trong Hệ Mặt trời cũng khó mà đuổi kịp bọn họ được. Nhưng không chiến hạm nào làm thế, tất cả đều trở về quỹ đạo Sao Hỏa theo mệnh lệnh của Tomoko, lý do rất đơn giản: di dân đến Sao Hỏa, khác với di dân đến Úc trên Trái đất, một triệu người vẫn có thể tiếp tục hưởng thụ cuộc sống văn minh dễ chịu trong thành phố khép kín trên căn cứ Sao Hỏa, vì thiết kế ban đầu của căn cứ đã có thể chứa được chừng đó người sinh sống trong thời gian dài. So với việc phải lưu lạc ngoài không gian vĩnh viễn, đây rõ ràng là một lựa chọn tốt hơn.

Thế giới Tam Thể hết sức cảnh giác đối với bộ phận loài người trên Sao Hỏa, hai Giọt Nước từ vành đai Kuiper trở về trường kỳ bay lượn giám sát phía trên thành phố Sao Hỏa, vì khác với di dân trên Trái đất, tuy Hạm đội Hệ Mặt trời đã giải trừ vũ trang về cơ bản, nhưng dân cư ở căn cứ Sao Hỏa vẫn nắm giữ công nghệ hiện đại, bằng không thì thành phố không thể tồn tại được. Có điều, người trên Sao Hỏa tuyệt đối không dám mạo hiểm chế tạo thiết bị phát sóng hấp dẫn, làm những thứ khổng lồ như vậy nhất định sẽ bị Hạt trí tuệ phát giác. Thảm cảnh cuộc chiến tận thế nửa thế kỷ trước vẫn còn rõ mồn một trước mắt, mà thành phố trên Sao Hỏa thì mong manh như vỏ trứng, chỉ cần Giọt Nước va đập làm giảm áp thôi cũng đủ gặp họa ngập đầu rồi.

Việc di dân trong không gian hoàn thành trong vòng ba tháng, năm trăm nghìn người trong phạm vi quỹ đạo Mặt trăng trở về Trái đất, chuyển đến Úc, một triệu người thuộc Hạm đội Hệ Mặt trời di cư đến Sao Hỏa. Lúc này, trong không gian vũ trụ thuộc Hệ Mặt trời đã không còn con người nữa, chỉ có các thành phố không gian và chiến hạm rỗng không lơ lửng trên quỹ đạo Trái đất, Sao Hỏa và Sao Mộc, hoặc giữa vành đai tiểu hành tinh hoang vắng, tựa như một khu mộ kim loại tĩnh lặng, chôn vùi vinh quang và mộng tưởng của loài người.

Trong nhà Già Fraisse, Trình Tâm cũng chỉ biết được tình hình bên ngoài qua ti vi. Hôm nay, cô được xem truyền hình trực tiếp từ một nơi cấp phát thực phẩm. Lần này, truyền hình phát hình ảnh toàn ký, có cảm giác như mình đang ở trong cảnh tượng đó vậy. Hiện nay, cách thức truyền hình cần băng thông rộng tốc độ cao này càng lúc càng ít, chỉ khi phát những tin tức quan trọng mới có, bình thường chỉ có thể thu được hình ảnh 2D mà thôi.

Địa điểm phân phát nằm ở Carnegie bên rìa sa mạc, trong hình ảnh toàn ký xuất hiện một cái lều khổng lồ, trông như một nửa quả trứng lớn đặt nằm ngang trên sa mạc, đoàn người từ trong đó tràn ra như lòng trắng trứng khi vỏ trứng bị vỡ toác. Họ chen chúc nhau chạy ra khi máy bay thực phẩm đến, loại máy bay vận tải thể tích nhỏ nhưng lực nâng rất lớn này thông thường sử dụng phương thức treo hàng, tức là đóng gói thành một khối lập phương lớn đeo bên dưới máy bay. Lần này, có hai máy bay vận tải, chiếc đầu tiên vừa đặt kiện thực phẩm xuống mặt đất, đám người đã tràn lên như nước vỡ bờ, thoáng cái liền nhấn chìm cả khối thực phẩm, hàng rào trật tự của mấy chục binh lính lập tức sụp đổ, mấy người phụ trách phân phát thực phẩm thì sợ hãi, vội nhảy lên chiếc thang dài leo lên máy bay. Kiện thực phẩm như thể một quả bóng tuyết bị ném vào nồi nước sôi sùng sục, chớp mắt đã biến mất. Ống kính quay vào sát mặt đất, có thể thấy những người cướp được thực phẩm lại phải chống trả lại những người xung quanh, từng bao từng bao thực phẩm như hạt gạo giữa bầy kiến, chỉ loáng cái đã bị xé nát, sau đó người ta bắt đầu giằng giật những thứ rơi dưới đất. Chiếc máy bay còn lại liền thả kiện thực phẩm thứ hai ở khoảng đất trống cách đó tương đối xa, lần này thì không có binh lính cảnh giới, người phụ trách cũng không dám xuống máy bay, đám người lập tức lao ập tới như đống mạt sắt bị hút tới nam châm, chớp mắt đã vây kín kiện hàng ở giữa.

Lúc này, một cái bóng màu xanh bay ra khỏi máy bay vận tải, yểu điệu nhưng mạnh mẽ, từ độ cao mười mấy mét nhẹ nhàng đáp xuống kiện thực phẩm. Đám người nhung nhúc lập tức như hóa đá, họ nhận ra đứng trên đỉnh kiện hàng là Tomoko, cô ta vẫn mặc bộ đồ rằn ri, tấm khăn đen quấn trên cổ bay bay trong làn gió hừng hực, càng tôn thêm gương mặt trắng nõn nà.

“Xếp hàng!” Tomoko quát lên với đám người.

Ông kính zoom lại gần, có thể nhìn rõ đôi mắt xinh đẹp của cô ta đang trừng trừng giận dữ nhìn đám người bên dưới, giọng cô ta rất lớn, giữa tiếng ầm ầm của cánh quạt máy bay vẫn nghe rõ mồn một. Nhưng đám người bên dưới chỉ bị sự xuất hiện của cô ta làm chững lại một thoáng, rồi lại nhanh chóng nhao nhao lên, những người ở gần kiện thực phẩm bắt đầu cắt đứt tấm lưới bọc ngoài để lấy đồ. Kế đó, sự hỗn loạn lại tăng lên, đám người sôi sùng sục, có mấy người to gan còn bất chấp Tomoko đứng đó, bắt đầu leo lên trên.

“Lũ bỏ đi này! Tại sao không duy trì trật tự?!” Tomoko ngẩng đầu lên chiếc máy bay lơ lửng phía trên hét lớn, ở cửa khoang máy bay mở rộng có mấy quan chức ửy ban di dân Liên Hiệp Quốc mặt mũi tái mét. “Quân đội của các người đâu? Cảnh sát đâu? Vũ khí cho phép các người mang đến đây đâu? Chức trách của các người ở đâu?!”

Trong mấy người đứng ở cửa khoang máy bay có cả chủ tịch ủy ban di dân, ông ta một tay nắm chặt cửa máy bay, tay còn lại khua khoắng loạn xạ với Tomoko, hoảng loạn lắc đầu, tỏ ý mình không làm được gì khác.

Tomoko rút thanh kiếm sau lưng, vung liền ba nhát nhanh đến độ không nhìn rõ, ba người vừa bò lên đến đỉnh kiện hàng đều bị chém thành hai mảnh. Cả ba đều bị lưỡi kiếm chém vào vai trái, ra ở sườn bên phải tách ra làm đôi, ba đường kiếm giống nhau chằn chặn đến rùng mình rởn gáy, sáu mảnh thi thể bay xuống dưới, thân còn lơ lửng trên không trung, nội tạng bên trong đã bắn ra ngoài, máu me tung tóe, rồi rơi lộp bộp xuống giữa đám người chen chúc. Trong tiếng thét kinh hãi cùng tiếng khóc gào, Tomoko tung người nhảy từ trên đỉnh kiện hàng xuống, tiếp tục vung kiếm như điện, trong chớp mắt đã chém ngã mười mấy người. Đám người kinh hoảng lùi lại, loáng cái đã tạo thành một khoảng trống xung quanh cô ta, giống như một giọt nước rửa rơi vào cái đĩa đầy dầu mỡ vậy. Mười mấy cái xác trong khoảng trống kia cũng giống hệt như ba người đầu tiên, bị chém theo một đường chéo từ vai trái đến sườn bên phải, như thế máu và nội tạng chảy ra nhanh nhất. Trước đám máu thịt bầy nhầy đó, một số người sợ đến bất tỉnh tại trận. Tomoko bước lên trước, cả đám người kinh sợ tránh ra xa, cơ thể cô ta dường như tỏa ra một trường lực vô hình đẩy lùi người khác, từ đầu chí cuối khoảng trống xung quanh vẫn không thay đổi. Cô ta bước được vài bước liền dừng lại, đám người một lần nữa sững sờ như thể đóng băng.

“Xếp hàng.” Tomoko nói, lần này không cần cao giọng.

Đám người mau chóng xếp thành hàng dài, tựa hồ một chương trình máy tính sắp xếp các chuỗi số lại với nhau vậy. Hàng người kéo dài đến tận chỗ cái lều khổng lồ ở tít đằng xa, lại còn vòng xung quanh nó một vòng.

Tomoko tung người nhảy lên, trở lại đỉnh kiện hàng thực phẩm, giơ thanh kiếm còn đang nhỏ máu chỉ vào hàng người bên dưới: “Thời đại loài người tự do trụy lạc đã kết thúc rồi, muốn sống ở đây thì phải học lại chủ nghĩa tập thể, nhặt lại sự tôn nghiêm của con người!”

Đêm hôm đó, Trình Tâm mất ngủ, cô nhẹ nhàng ra khỏi phòng. Lúc này, đêm đã về khuya, cô thấy ở bậc thềm trước cửa có đốm lửa lập lòe, đó là Già Fraisse đang hút thuốc. Trên đùi ông gác một chiếc didgeridoo, một loại nhạc cụ đặc biệt của thổ dân Úc, làm từ một cành cây to khoét rỗng, dài hơn một mét. Tối nào ông cũng ngồi ở đây thổi một lúc, didgeridoo phát ra tiếng ù ù thấp trầm, đùng đục, không giống âm nhạc mà như tiếng ngáy của mặt đất, tối nào, Trình Tâm và AA cũng đều ngủ thiếp đi trong âm thanh này.

Trình Tâm đi tới ngồi xuống bên cạnh Già Fraisse, cô thích ở bên ông, sự xa cách của ông đối với hiện thực đầy khổ đau tựa như một liều thuốc giảm đau an ủi trái tim vỡ nát của cô. Ông không bao giờ xem ti vi, cũng không quan tâm trên Trái đất đang xảy ra bất cứ chuyện gì. Hằng đêm, ông gần như không về phòng mình, mà ngồi đây dựa vào cây cột gỗ ở lan can cửa ngủ thiếp đi, đến khi Mặt trời ban sáng chiếu lên người mới tỉnh lại, thậm chí cả đêm mưa to ông cũng ngủ như vậy, bảo rằng ngủ ở đây dễ chịu hơn trên giường. Già Fraisse từng nói, nếu có một ngày đám chính phủ khốn kiếp đến đây cướp căn nhà, ông sẽ không chuyển đến khu di dân, chỉ cần dựng một căn lều nhỏ che mưa trong rừng là ông sống được. AA nói, tuổi tác ông lớn thế, làm vậy không được, ông nói, tổ tiên ông làm được thì ông cũng làm được. Từ kỷ Băng Hà thứ tư, tổ tiên ông đã từ châu Á đi thuyền độc mộc phiêu bạt qua Thái Bình Dương đến nơi này, đó là thời điểm bốn mươi nghìn năm trước, Hy Lạp và Ai Cập thậm chí còn chưa xuất hiện. Ông kể, hồi thế kỷ 21, mình từng là một bác sĩ giàu có, sở hữu phòng khám riêng ở Melbourne, sau khi tỉnh lại ở kỷ nguyên Đe dọa, ông cũng luôn sống cuộc sống hiện đại rất thoải mái sung túc, nhưng từ khi cuộc di dân bắt đầu, trong cơ thể ông có thứ gì đó đã thức tỉnh, ông đột nhiên cảm thấy mình thực ra là một động vật thuộc về mặt đất và rừng rậm, đồng thời hiểu ra những thứ mình cần cho sự sống thực ra rất ít ỏi, cảm giác ngủ ngoài trời rất dễ chịu, rất thoải mái.

Già Fraisse nói, ông không biết đây là điềm gì nữa.

Trình Tâm nhìn khu dân cư phía xa xa, đêm đã khuya, ánh đèn cũng thưa thớt đi phần nào, những gian nhà lắp ghép trải dài vô tận toát lên một vẻ tĩnh lặng hiếm thấy dưới ánh sao. Trình Tâm đột nhiên nảy ra một cảm giác kỳ lạ, tựa hồ đang ở một thời đại di dân khác, của những di dân đến Úc năm thế kỷ trước. Trong những gian nhà lắp ghép ấy, các cao bồi và người chăn nuôi thô lỗ mà phóng khoáng đang say ngủ, cô thậm chí còn ngửi thấy cả mùi phân ngựa và cỏ nuôi súc vật. Trình Tâm nói ra cảm giác của mình với Già Fraisse.

“Thời ấy không chật chội như bây giờ, nghe nói một người da trắng muốn mua khu chăn nuôi của một người da trắng khác chỉ cần trả số tiền bằng một thùng rượu whiskey, sau đó người mua sẽ cưỡi ngựa chạy từ lúc Mặt trời mọc đến khi Mặt trời lặn thì quay về, vùng đất trong một vòng chạy ấy sẽ thuộc về anh ta.”

Trước đây, ấn tượng của Trình Tâm với nước Úc đa phần đến từ bộ phim Nước Úc , trong bộ phim ấy, hai nhân vật nam nữ chính lùa đàn bò băng ngang lục địa Bắc Úc tráng lệ, nhưng đó không phải là thời đại di dân mà là thời Chiến tranh thế giới thứ hai, một quá khứ không xa so với thời thanh xuân của cô. Nhưng đặt ở hiện tại, đó đã là lịch sử xa xôi lắm rồi - Hugh Jackman và Nicole Kidman trong phim hẳn đều đã qua đời được hơn hai thế kỷ. Trình Tâm đột nhiên nghĩ, bộ dạng Wade làm việc trước căn nhà kho lắp ghép lúc cô mới gặp gần đây rất giống với nam chính trong bộ phim đó.

Nghĩ tới Wade, Trình Tâm bèn kể lại lời ông ta nói với cô một tháng trước cho Già Fraisse nghe, từ lâu cô đã muốn nói chuyện này với ông, nhưng lại sợ sẽ quấy nhiễu tâm cảnh đứng ngoài thế cuộc của ông.

“Ta biết người này.” Già Fraisse nói, “Con gái à, chắc chắn ta sẽ nói con nên nghe theo ông ta, nhưng con lại không thể rời khỏi nước Úc, vì vậy đừng nghĩ chuyện này nữa. Nghĩ chuyện không thể làm được thì có tác dụng gì đâu?”

Những gì Già Fraisse nói là sự thực, hiện nay muốn rời khỏi Úc là điều cực khó. Phong tỏa Úc không chỉ có Giọt Nước, mà còn có lực lượng trên biển của quân Trị an Địa Cầu do Tomoko chiêu mộ. Bất cứ thiết bị bay hoặc tàu bè nào từ Úc trở về các đại lục khác, nếu bị tra ra có chở di dân sẽ lập tức bị tấn công. Đồng thời, cùng với hạn chót di dân càng lúc càng đến gần, những người muốn trở về cũng rất ít, Úc tuy rằng gian khổ, nhưng dẫu sao cũng còn hơn trở về đâm đầu vào chỗ chết. Những cuộc vượt biên quy mô nhỏ lác đác vẫn tồn tại, nhưng nhân vật của công chúng được chú ý như Trình Tâm thì không thể nào đi như thế.

Nhưng đây không phải là điều khiến Trình Tâm suy nghĩ, dù thế nào đi nữa, cô cũng sẽ không rời khỏi nơi đây.

Già Fraisse hình như không muốn nói chuyện này nữa, nhưng trông thấy Trình Tâm đang im lặng trong bóng tối, dường như đang chờ đợi ông nói thêm, ông bèn tiếp lời: “Ta là một bác sĩ khoa xương khớp, chắc con cũng biết, sau khi xương gãy lành lại, chỗ xương gãy hồi phục ấy sẽ còn lớn hơn lúc ban đầu, trong y học gọi đây là hiện tượng siêu bù, ý là nếu cơ thể có cơ hội bù đắp lại thứ gì đó bị thiếu sót trước đây, những thứ này có thể hồi phục lại nhiều hơn cả những người chưa từng bị thiếu. So với nhân loại, bọn họ...” Già Fraisse chỉ lên bầu trời sao: “Con đã biết họ từng thiếu sót điều gì, họ đã trải qua siêu bù chưa? Hồi phục đến mức độ nào rồi? Không ai biết rõ cả.”

Trình Tâm bị những lời này làm cho rúng động, nhưng Già Fraisse dường như không có hứng thú tiếp tục cuộc trò chuyện này nữa, ông ngước lên nhìn bầu trời đêm, chầm chậm ngâm nga:

“Bộ lạc đã đi rồi Giáo dài đã gãy rời, Xưa ta có bánh mì để sống Các người cho toàn đá sỏi thôi.”

Giống như khi nghe Già Fraisse thổi didgeridoo, trái tim Trình Tâm bị bài thơ này làm cho xúc động.

“Đây là thơ của một thi sĩ người Úc bản địa hồi thế kỷ 20, ông ấy tên là Jack Davis.”

Ông già nói xong, bèn dựa vào cây cột gỗ, thoáng sau đã phát ra tiếng ngáy. Trình Tâm ngồi lặng lẽ trong màn đêm, dưới những vì sao không hề xúc động mảy may trước thế giới đang thay đổi lớn lao, đến khi phương Đông hừng sáng.

Nửa năm từ khi cuộc di dân bắt đầu, một nửa dân số thế giới, khoảng 2,1 tỷ người đã chuyển đến Úc.

Nguy cơ tiềm tàng bắt đầu bùng nổ, vụ thảm án Canberra xảy ra vào tháng thứ bảy của cuộc di dân trở thành cột mốc khởi đầu cho một chuỗi những cơn ác mộng.

Tomoko yêu cầu nhân loại thực hiện “di dân trần trụi”, đây cũng là phương án mà phe Diều Hâu trên Trái đất vào kỷ nguyên Đe dọa từng đề xuất áp dụng chừng nào thế giới Tam Thể di dân đến Hệ Mặt trời. Ngoài vật liệu xây dựng và các module lớn để dựng nên các nhà máy nông nghiệp mới, cùng các nhu yếu phẩm và thiết bị y tế, di dân không được phép mang theo bất cứ trang thiết bị quân dụng và dân dụng hạng nặng nào, quân đội của các nước đóng ở khu di dân cũng chỉ được trang bị vũ khí hạng nhẹ giới hạn để duy trì trật tự mà thôi. Loài người đã bị giải trừ vũ trang một cách triệt để.

Nhưng chính phủ Úc là ngoại lệ, họ giữ lại mọi thứ, bao gồm toàn bộ trang thiết bị của hải lục không quân. Vì vậy, đất nước từ khi sinh ra vẫn luôn nằm bên lề các sự vụ quốc tế bỗng nhảy vọt lên trở thành bá chủ của thế giới loài người.

Vào giai đoạn đầu của cuộc di dân, chính phủ Úc không làm bất cứ điều gì có thể chỉ trích, họ và toàn thể nhân dân Úc đã cố gắng rất nhiều để sắp xếp cuộc sống cho các di dân. Nhưng cùng với việc di dân từ các châu lục lớn tràn vào Úc như một cơn đại hồng thủy, tâm lý của quốc gia duy nhất từng độc chiếm cả một lục địa này bắt đầu trở nên mất cân bằng, dân chúng Úc kêu than phản đối, chính phủ mới bước lên vũ đài chính trị thế giới bắt đầu áp dụng các chính sách cứng rắn với di dân. Họ mau chóng nhận ra, ưu thế của Liên bang Úc với các quốc gia khác hiện nay cũng gần giống như ưu thế của Tam Thể đối với Trái đất. Các đợt di dân đến sau hầu hết đều bị bố trí đến vùng nội địa hoang vắng, các vùng trù phú ven biển như New South Wales đều đã được quy hoạch là “lãnh thổ bảo tồn” của Úc, cấm chỉ di dân, Canberra và Sydney cũng được quy hoạch thành “thành phố bảo tồn”, cũng cấm di dân định cư. Vì thế, chỉ còn lại Melbourne là thành phố lớn duy nhất mà di dân có thể ở lại lâu dài. Chính phủ Úc cũng bắt đầu hách dịch, tự coi mình là đứng đầu thế giới loài người, dần dần lấn áp, chèn ép cả Liên Hiệp Quốc và chính phủ các nước khác.

Mặc dù New South Wales cấm di dân, nhưng rất khó ngăn cản di dân trong nội địa đến đó du lịch. Khát khao cuộc sống đô thị mà họ vừa phải từ biệt, một lượng lớn di dân đổ vào Sydney, tuy không được định cư, nhưng dù lang thang nơi đầu đường góc phố cũng còn tốt hơn ở trong các thôn làng di dân, ít nhất cũng có cảm giác mình vẫn ở trong thế giới văn minh, làn sóng này khiến cho Sydney nhanh chóng chật cứng người, chính phủ Úc quyết định đuổi hết di dân ra khỏi khu vực nội đô Sydney, sau này cũng cấm tiệt di dân từ bên ngoài đi vào thành phố. Việc này đã dẫn đến xung đột giữa các di dân ở lại trong thành phố và lực lượng cảnh sát, gây ra một số thương vong.

Sự kiện Sydney đốt lên ngọn lửa tức giận tích tụ đã lâu của nhiều người đối với chính phủ Úc, hơn trăm triệu di dân tràn vào bang New South Wales, đổ về Sydney. Đối diện với biển người cuồn cuộn rợp cả đất trời ấy, quân đồn trú của bang và thành phố vội vàng bỏ chạy. Mấy chục triệu người tràn vào Sydney, cướp sạch cả thành phố, tựa như một đàn kiến khổng lồ bò qua một cái xác thú còn tươi, chỉ trong nháy mắt đã biến nó thành bộ xương trắng hếu. Trong thành phố Sydney, ánh lửa bốc cao ngùn ngụt, tội phạm hoành hành, cả thành phố toàn những kiến trúc hình cây khổng lồ đã trở thành một khu rừng khủng khiếp, còn xơ xác hoang tàn hơn cả khu di dân nữa.

Sau đấy, đại quân di dân lại chuyển mục tiêu sang Canberra cách đó hơn hai trăm kilômét. Vì Canberra là thủ đô Úc, sau khi cuộc di dân bắt đầu, một nửa chính phủ các nước trên thế giới cũng chuyển về nơi này, Liên Hiệp Quốc cũng vừa từ Sydney chuyển tới, bởi thế, quân đội buộc phải xuống tay phòng thủ. Cuộc xung đột lần này đã gây ra thương vong khủng khiếp, hơn năm trăm nghìn người chết, đa phần không chết bởi súng đạn của quân đội mà chết do giẫm đạp và đói khát giữa hơn trăm triệu con người hỗn loạn; trong cuộc đại loạn kéo dài hơn mười ngày đó, có đến mấy chục triệu người đã bị cắt đứt hoàn toàn nguồn nước và thực phẩm.

Xã hội di dân bắt đầu có những thay đổi sâu sắc. Mọi người nhận ra, trên mảnh lục địa đói khát chật chội này, dân chủ còn đáng sợ hơn cả chuyên chế độc tài, tất cả mọi người đều khát khao trật tự và một chính phủ hùng mạnh, thể chế xã hội đang có nhanh chóng tan vỡ, nhân dân chỉ mong mỏi chính phủ có thể mang đến cho họ thực phẩm, nước và không gian sống đủ để kê một chiếc giường, những thứ khác họ đều không để ý đến nữa. Xã hội loài người tụ tập lại trên lục địa này giống như mặt hồ trong mùa đông giá rét, từng mảng từng mảng đông cứng lại thành lớp băng rắn chắc của chuyên chế cực quyền. Câu nói của Tomoko sau khi chém người dạo trước “Thời đại loài người tự do trụy lạc đã kết thúc rồi” trở thành khẩu hiệu chính, đủ các loại rác rưởi kể cả chủ nghĩa phát xít lần lượt trồi lên khỏi phần mộ dưới sâu nơi chúng từng bị chôn vùi để trở thành tư tưởng chủ lưu. Thế lực của tôn giáo cũng nhanh chóng khôi phục, một bộ phận lớn dân chúng tụ tập về dưới các tín ngưỡng và giáo hội khác nhau, vì vậy, một cỗ xác sống còn lâu đời hơn cả toàn trị - nhà nước thần quyền - bắt đầu tái xuất hiện.

Sản phẩm tất yếu của toàn trị là chiến tranh, xung đột giữa các quốc gia ngày một nhiều hơn, ban đầu chỉ vì tranh cướp thực phẩm và nước, sau đó phát triển thành tranh đoạt không gian sinh tồn một cách có tính toán. Sau vụ thảm sát Canberra, quân đội Úc có sức uy hiếp rất lớn, được Liên Hiệp Quốc yêu cầu, họ bắt đầu sử dụng các biện pháp cứng rắn để duy trì trật tự quốc tế, nếu không một cuộc đại chiến thế giới phiên bản Úc chắc hẳn đã bùng nổ. Chẳng những thế, đó sẽ là cuộc chiến chủ yếu dùng gạch đá giống như hồi thế kỷ 20 từng có người tiên đoán. Hiện nay, ngoài Úc, quân đội các nước khác đến vũ khí lạnh cũng không đảm bảo phát cho mỗi người một món được. Vũ khí thường gặp nhất là gậy gộc lấy từ giàn cốp pha kim loại trong xây dựng, thậm chí cả đao kiếm cổ đại trong bảo tàng cũng bị lấy ra sử dụng.

Trong những ngày tháng u ám này, vô số người buổi sáng tỉnh giấc vẫn không thể tin rằng mình đang ở trong hiện thực. Họ nhận thấy, chỉ trong nửa năm ngắn ngủi, xã hội loài người đã thụt lùi một quãng dài đến như thế, thậm chí một chân đã giẫm lên thời Trung Cổ.

Lúc này, thứ duy nhất chống đỡ cho mỗi cá nhân và toàn thể xã hội không sụp đổ toàn diện, chính là hạm đội thứ hai của thế giới Tam Thể. Hiện nay, hạm đội đã vượt qua vành đai Kuiper, vào những đêm trời trong, có lúc mắt thường cũng nhìn thấy được ánh sáng từ các phi thuyền đang giảm tốc. Bốn trăm mười lăm điểm sáng yếu ớt đó là hy vọng của loài người ở Úc. Mọi người vẫn khắc ghi lời hứa của Tomoko, mong đợi hạm đội Tam Thể đến đây sẽ mang cho tất cả mọi người trên mảnh lục địa này cuộc sống dễ chịu bình yên, đám ác quỷ ngày trước giờ đã biến thành thiên sứ cứu vớt chúng sinh và là cột trụ tinh thần duy nhất, loài người đang cầu nguyện bọn họ mau mau xuất hiện.

Cùng với việc di dân, khi đêm về trên các đại lục khác của Trái đất, từng thành phố chìm vào bóng tối, biến thành những khu hoang vu tĩnh lặng như tờ, tựa như những ngọn đèn tắt dần tắt dần trong một nhà hàng sang trọng khi bữa tối cuối cùng kết thúc.

Tháng thứ chín của cuộc di dân, số người ở Úc đã lên đến 3,4 tỷ, do môi trường sống tiếp tục xấu hơn, cuộc di dân bị buộc phải dừng lại. Lúc này, Giọt Nước lại bắt đầu tấn công các thành thị có người cư trú bên ngoài Úc, Tomoko cũng một lần nữa lên tiếng đe dọa, nói khi kỳ hạn một năm chấm dứt, cuộc thanh trừ những cá thể loài người ở bên ngoài khu vực bảo tồn sẽ lập tức bắt đầu. Lúc này, Úc giống như một cỗ xe tù sắp sửa lăn bánh trên con đường không có nẻo về, các phạm nhân trong xe đã chen chúc nhau đến độ thùng xe sắp vỡ tung ra rồi, vậy mà vẫn phải cố nhét thêm bảy trăm triệu con người nữa vào trong đó.

Tomoko cũng xét đến những khó khăn cực lớn khi tiếp tục di dân, cách giải quyết mà cô ta đưa ra là biến New Zealand và một số đảo quốc thuộc châu Đại Dương thành vùng đệm. Biện pháp này đã có tác dụng, trong hai tháng rưỡi còn lại, đã có thêm sáu trăm ba mươi triệu người đi qua vùng đệm, di chuyển sang Úc.

Cuối cùng, cách hạn cuối ba ngày, đội tàu và máy bay chở nhóm ba triệu di dân sau rốt cũng nối đuôi nhau từ New Zealand khởi hành đến Úc, cuộc Đại Di Dân đã hoàn thành.

Lúc này, ở Úc đã tụ tập bốn tỷ một trăm sáu mươi triệu người, chiếm tuyệt đại đa số nhân loại, bên ngoài Úc chỉ còn lại khoảng tám triệu người, bọn họ chia thành ba nhóm: một triệu người trên căn cứ Sao Hỏa, năm triệu người thuộc quân Trị an Địa Cầu, và khoảng hai triệu thành viên phong trào Kháng chiến Trái đất, ngoài ra còn một số ít những người sống tản mác ở nhiều nơi vì nhiều nguyên nhân khác nhau mà không di dân, không thể thống kê số lượng.

Quân Trị an Địa Cầu là một đội quân loài người do Tomoko chiêu mộ để bảo đảm trị an trong quá trình di dân, cô ta hứa những người tham gia đội quân này sẽ không phải di dân đến Úc, sau này có thể tự do sống ở thế giới bị người Tam Thể chiếm cứ. Sau khi lời kêu gọi được phát ra, vô số người đã sôi nổi đăng ký, theo thống kê sau đó, trên mạng tổng cộng có hơn một tỷ đơn nhập ngũ, trong đó có hai mươi triệu người tham gia phỏng vấn trực tiếp, cuối cùng chiêu mộ được năm triệu người. Những kẻ may mắn cuối cùng này hoàn toàn không để ý đến nước bọt và ánh mắt khinh bỉ của người đời, vì bọn họ biết, một phần không nhỏ những người nhổ nước bọt ấy cũng từng gửi đơn xin gia nhập.

Có người so sánh quân Trị an Địa Cầu với tổ chức Tam Thể Địa Cầu ba thế kỷ trước, thực ra, tính chất của hai bên hoàn toàn khác nhau: thành viên tổ chức Tam Thể Địa Cầu đều là những chiến sĩ với niềm tin kiên định, còn những người tham gia quân Trị an Địa Cầu chẳng qua chỉ muốn trốn di dân, được sống thoải mái hơn mà thôi.

Quân Trị an Địa Cầu chia làm ba quân đoàn lớn ở châu Á, châu Âu và Bắc Mỹ, sở hữu các trang thiết bị tiên tiến mà các nước lớn để lại khi di dân. Thời kỳ đầu, hành vi của quân Trị an Địa Cầu còn tương đối kiềm chế, chỉ theo lệnh Tomoko đốc thúc các nước tiến hành di dân, đồng thời bảo vệ cơ sở hạ tầng của thành phố và các khu vực không bị phá hoại. Nhưng cùng với những khó khăn ngày càng chồng chất ở Úc, tiến độ di dân càng lúc càng khó thỏa mãn yêu cầu của Tomoko, trước mệnh lệnh và sự đe dọa của cô ta, quân Trị an Địa Cầu mỗi lúc một thêm điên cuồng, không từ sử dụng cả vũ lực trên quy mô lớn cưỡng ép di dân, gây ra cái chết của hơn một triệu người trên toàn thế giới. Cuối cùng, sau khi kỳ hạn di dân đã qua đi, Tomoko ra lệnh tiêu diệt tất cả những người còn lại bên ngoài khu bảo tồn, quân Trị an Địa Cầu hoàn toàn biến thành một đám ác quỷ. Bọn họ lái xe bay, cầm súng bắn tỉa có ống ngắm laser, đảo lượn trên bầu không các thành phố lớn và các vùng hoang vu như lũ chim săn mồi, thấy người nào liền giết luôn người đó.

Trái ngược với quân Trị an Địa Cầu, phong trào Kháng chiến Trái đất là vàng thật được luyện ra trong lò lửa nóng của nhân loại. Họ có rất nhiều chi nhánh, số lượng khó mà thống kê hết, áng chừng khoảng một triệu rưỡi đến hai triệu người. Họ phân tán sâu trong núi và bên dưới các thành phố, tiến hành chiến tranh du kích với quân Trị an Địa Cầu, đồng thời chờ đợi trận chiến cuối cùng khi những kẻ xâm lược Tam Thể đặt chân lên Trái đất. Trong tất cả các tổ chức kháng chiến ở vùng chiếm đóng trong lịch sử loài người, phong trào Kháng chiến Trái đất chịu hy sinh lớn lao nhất, vì quân Trị an Địa cầu có sự hỗ trợ từ Giọt Nước và Hạt trí tuệ, mỗi lần tác chiến của phong trào Kháng chiến đều gần như tự sát, đồng thời họ cũng không có khả năng tiến hành bất cứ cuộc tập hợp quy mô lớn nào, khiến quân Trị an Địa Cầu có điều kiện lần lượt triệt hạ từng nhóm một.

Thành phần của phong trào Kháng chiến Trái đất rất phức tạp, bao gồm người từ mọi tầng lớp, trong đó người từ thời Công nguyên chiếm một tỷ lệ rất lớn. Sáu ứng cử viên Người Giữ Gươm đều là sĩ quan chỉ huy phong trào Kháng chiến, vào thời điểm cuộc Đại Di Dân kết thúc, đã có ba người trong số họ hy sinh trong chiến đấu, chỉ còn lại kỹ sư máy gia tốc hạt Tất Vân Phong, nhà vật lý Tào Bân và trung tướng hải quân Ivan Antonov.

Tất cả thành viên phong trào Kháng chiến Trái đất đều biết họ đang tham gia một cuộc chiến hoàn toàn vô vọng, ngày mà hạm đội Tam Thể đến Trái đất trong tương lai, cũng chính là ngày bọn họ bị tiêu diệt toàn bộ. Những chiến sĩ quần áo rách rưới, nhịn đói nhịn khát trong núi sâu và trong hệ thống cống ngầm của thành phố này chiến đấu vì chút tôn nghiêm cuối cùng của nhân loại, sự tồn tại của họ là điểm sáng duy nhất trong đoạn lịch sử không ai muốn ngoảnh đầu nhìn lại này của loài người.

Sáng sớm, Trình Tâm giật mình tỉnh giấc vì âm thanh ầm ầm. Đêm đó cô vốn đã ngủ không yên giấc, bên ngoài tiếng người ầm ĩ không dứt, đều là di dân mới đến. Trình Tâm sực nhớ ra, giờ không phải là mùa có sấm sét nữa, vả lại sau những tiếng ầm ầm đó, bên ngoài đột nhiên trở nên yên tĩnh. Cô bất giác rùng mình, ngồi bật dậy, khoác áo đi ra ngoài. Già Fraisse ngủ ngoài cửa suýt chút nữa làm cô vấp ngã, ông già ngẩng đầu lên nhìn cô với đôi mắt nhập nhèm ngái ngủ, rồi lại dựa vào cột ngủ tiếp.

Lúc này, trời vừa tờ mờ sáng, bên ngoài có rất nhiều người, tất cả đều căng thẳng nhìn về phía Đông, rì rầm bàn luận. Trình Tâm nhìn theo ánh mắt họ, chỉ thấy phía trên đường chân trời có một cột khói bốc lên, vừa đen vừa dày đặc, dường như góc trời vừa hiện ra ánh ban mai màu trắng ấy đã bị ai đó xé toác ra một vệt.

Qua câu chuyện của mọi người, Trình Tâm biết được, một tiếng trước quân Trị an Địa Cầu bắt đầu không kích Úc trên quy mô lớn, mục tiêu chủ yếu là hệ thống điện lực, cảng biển và các thiết bị vận tải lớn. Cột khói đen ấy bốc lên từ nhà máy điện nhiệt hạch cách đây năm kilômét vừa mới bị phá hủy. Mọi người lại kinh hoảng ngẩng đầu lên nhìn trời, trên bầu trời xanh sẫm của buổi sáng sớm có năm vệt trắng như tuyết, chính là máy bay ném bom của quân Trị an Địa Cầu vừa mới lướt vù qua.

Trình Tâm quay về phòng, AA cũng đã thức giấc, đang bật ti vi lên, muốn tìm hiểu trên bản tin thời sự xem đã xảy ra chuyện gì. Trình Tâm không xem ti vi, cô không cần thêm thông tin nữa. Gần một năm nay, cô đã không ngừng cầu khẩn cho thời khắc này đừng xuất hiện, hệ thần kinh đã trở nên mẫn cảm cực độ, chỉ cần một dấu hiệu nhỏ thôi cô cũng có thể đưa ra phán đoán chuẩn xác; mà thực ra, từ lúc đang mơ màng ngủ nghe thấy tiếng ầm ầm từ đằng xa vẳng lại đó, về cơ bản cô đã xác định được chuyện gì.

Wade lại đúng.

Trình Tâm nhận ra mình đã chuẩn bị sẵn sàng cho giây phút này, không nghĩ ngợi, cô đã biết ngay mình cần làm gì. Cô bảo AA mình cần đến tòa thị chính một chuyến, sau đó ra cửa, đẩy trong sân ra một chiếc xe đạp. Hiện nay, đây là phương tiện giao thông nhanh và tiện nhất trong khu di dân. Đồng thời, cô còn mang theo một ít thực phẩm và nước uống, cô biết rằng sự việc quá nửa là không thành, mình còn phải đi một quãng đường rất dài nữa.

Trình Tâm đạp xe đến tòa thị chính theo con đường tắc nghẽn khắp nơi. Các quốc gia đều giữ nguyên hệ thống hành chính theo cấp bậc cũ ở khu di dân, di dân ở khu Trình Tâm chủ yếu đến từ một thành phố hạng trung ở Tây Bắc Trung Quốc, hiện nay, khu này được đặt tên theo thành phố đã ở lại một đại lục khác, cũng do chính quyền thành phố ấy lãnh đạo. Tòa thị chính nằm trong một cái lều lớn cách chừng hai kilômét, từ chỗ Trình Tâm có thể trông thấy phần chóp nhọn màu trắng của cái lều.

Sau hai tuần di dân tràn vào liên tiếp, người mới đến không ngừng ùa vào, di dân đã không còn được phân theo khu vực hành chính trước đây nữa, mà cứ chỗ nào còn trống là nhét vào chỗ đó, càng lúc càng có nhiều người từ những thành phố và khu vực khác dồn về, về sau còn toàn là người tỉnh khác, thậm chí còn có cả người nước ngoài. Trong hai tháng gần đây, đã lại có thêm bảy trăm triệu người nữa đổ về Úc, khu di dân đã chật cứng như nêm.

Hai bên đường toàn những người là người, các loại đồ đạc vứt bừa bãi lung tung. Những di dân mới đến không có chỗ ở, buộc phải màn trời chiếu đất, lúc này đa phần đều đã bị tiếng nổ vừa nãy làm cho giật mình tỉnh giấc, bất an ngơ ngác nhìn về phía cột khói bốc lên. Ánh dương buổi sớm trùm một quầng lam sẫm u uất lên hết thảy mọi thứ, trong sắc lam sẫm ấy, gương mặt mọi người càng rõ vẻ nhợt nhạt. Trình Tâm lại có cảm giác quái dị ấy như thể đang nhìn xuống tổ kiến từ trên cao, đi qua những gương mặt nhợt nhạt đó, trong tiềm thức, cô có cảm giác Mặt trời sẽ không mọc lên nữa. Cơn buồn nôn cùng cảm giác mệt lả ập đến, cô vội phanh xe lại, tạt vào ven đường nôn khan, nôn đến nỗi nước mắt chảy giàn giụa, dạ dày mới bình ổn trở lại. Cô nghe thấy gần đó có tiếng đứa trẻ đang khóc, bèn ngẩng lên nhìn, một người mẹ đang ngồi trong đống chăn ven đường ôm con, mái tóc rối bù, gương mặt tiều tụy, im lìm bất động mặc cho đứa trẻ cào cấu, đờ đẫn nhìn về phương Đông, ánh ban mai khiến đôi mắt cô ta sáng lên, nhưng chỉ toát ra sự hoang mang và tê dại.

Trình Tâm nhớ đến một người mẹ khác, xinh đẹp, khỏe mạnh, tràn đầy sức sống, trước tòa nhà Liên Hiệp Quốc, người mẹ đó đã đặt đứa con đáng yêu vào lòng cô, gọi cô là Đức Mẹ... Người mẹ và đứa bé ấy giờ đang ở đầu?

Lúc đến phía trước cái lều lớn có tòa thị chính, Trình Tâm buộc lòng phải xuống xe, chen qua đám người đông đúc. Bình thường, người ở đây cũng rất đông, đến đòi chỗ ở và thực phẩm, nhưng lúc này, những người tụ tập ở đây có lẽ là để tìm hiểu xem rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì. Lúc đi qua hàng rào quân đội và cảnh sát trước cửa, Trình Tâm phải nói rõ mình là ai mới được cho vào, viên sĩ quan không nhận ra cô, phải quét thẻ căn cước rồi mới cho qua. Khi xác nhận được cô là ai, ánh mắt của anh ta khiến Trình Tâm khắc ghi mãi trong lòng, ánh mắt ấy như đang nói:

Ban đầu tại sao chúng tôi lại chọn cô chứ?

Đi vào trong tòa thị chính, Trình Tâm tìm lại được một vài cảm giác của thời đại siêu thông tin, cô thấy trong không gian rộng rãi của cái lều lớn có rất nhiều cửa sổ thông tin đang trôi nổi, lơ lửng phía trên đông đảo các quan chức và nhân viên. Những người này rõ ràng là đã làm việc thâu đêm, trông ai cũng mệt mỏi rã rời, nhưng cũng đều rất bận rộn. Rất nhiều phòng ban đều tụ tập hết ở đây, có vẻ rất chật chội, làm Trình Tâm nghĩ đến một sàn giao dịch cổ phiếu ở phố Wall thời Công nguyên. Người ta bấm bấm, viết viết trên cửa sổ thông tin lơ lửng trước mặt mình, sau đó cửa sổ sẽ tự động trôi đến trước mặt người cần xử lý tiếp theo, những ô cửa sổ thông tin phát sáng này tựa như những bóng ma đến từ thời đại vừa mới biến mất, nơi này chính là chốn tụ tập cuối cùng của chúng.

Trong một phòng làm việc nhỏ được ngăn ra bằng gỗ ván, Trình Tâm gặp được thị trưởng. Anh ta còn rất trẻ, gương mặt thanh tú nữ tính hóa cũng đầy vẻ mệt mỏi như những người khác, lại còn thêm đôi phần hốt hoảng và ngẩn ngơ. Trọng trách trước mắt hiển nhiên không phải là thứ mà thế hệ yếu ớt như bọn họ có thể gánh vác nổi. Trên tường có một cửa sổ thông tin rất lớn, bên trên hiển thị hình ảnh một thành phố. Nhà cửa trong thành phố đó đa phần xây dựng trên mặt đất theo truyền thống, chỉ có vài kiến trúc dạng cây, cho thấy quy mô thành phố ở mức trung bình. Trình Tâm để ý thấy đó là hình ảnh động, trên không trung chốc chốc lại có xe bay lướt qua, thời gian có lẽ là buổi sáng sớm, khung cảnh giống như đang nhìn ra từ cửa sổ phòng làm việc vậy. Đó có lẽ là thành phố mà anh ta từng sống và làm việc trước khi di dân. Trông thấy Trình Tâm, anh ta cũng lộ ra ánh mắt “tại sao chúng tôi lại chọn cô chứ?” nhưng thái độ vẫn rất lịch thiệp, hỏi