← Quay lại trang sách

Q1 Chương 01.

Hoang dâm vô độ, Lê Long Đĩnh kiệt sức mà chết. Tả Điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn cùng Hữu điện tiền chỉ huy sứ Nguyễn Đê, mỗi người coi 500 quân Tuỳ long[1] canh giữ thi hài nhà vua, phòng nội loạn. Dân trong nước hẳn còn nhớ, cách đây đúng bốn năm, khi hoàng đế Lê Hoàn vừa băng; hoàng thái tử đã lập là Lê Long Việt (tức Trung tông) lên kế vị. Lập tức các hoàng đệ là Đông Thành vương và Trung quốc vương nổi binh chống lại, nhằm tranh giành ngôi báu, kéo dài tới tám tháng mới dẹp yên.

Ba ngày sau khi tức vị[2], Lê Long Đĩnh đang đêm đột nhập vào nội tẩm, giết chết anh mình là Lê Trung tông, tự lập làm vua. Quan Tả điện tiền chỉ huy sứ nhìn gương mặt xám ngắt như miếng thịt trâu ôi của Lê Long Đĩnh, và cả thân hình ông ta teo tóp như xác một con mèo hen chết cóng, nằm bất động trên long sàng, được phủ tấm vóc điều. Ngay cả tấm vóc điều hầu như cũng tối đen lại. Lý Công Uẩn kinh hoàng thấy những hành vi bạo ngược của nhà vua khi còn sống đang diễn ra trong óc não ông. Ông đem lòng hoài nghi: chẳng nhẽ trong cái túi da[3] thối tha kia, chỉ chứa thuần một thứ tội ác đã được chọn lựa một cách kĩ càng của tạo hoá sao? Quan điện tiền đẩy cái nhìn vào sát gương mặt hốc hác bất động của Lê Long Đĩnh, cái gương mặt được tôn vinh là hoàng đế ấy mới có hai mươi tư tuổi đời, với bốn năm chấp chính; bằng những hành vi hung hiểm hơn cả loài dã thú, ông ta tự làm mình già đi tới cả trăm tuổi; và làm cho cả đất nước cũng già theo, xác xơ, héo úa, hoang rỗng đến kiệt cùng. Nhớ khi con người kia lén giết Lê Long Việt, ta ôm xác vua mà khóc ròng ròng. Long Đĩnh trợn đôi mắt trắng dã nhìn ta với con dao nhọn ngoen máu trong tay, vẫn tưởng y sẽ xông vào đâm ta như y vừa đâm chết người anh ruột – hoàng đế Lê Trung tông. Nhưng chẳng biết tại sao y lại “hừm” lên một tiếng, liền đó vứt phịch con dao máu xuống thềm điện rồi bỏ đi. Và cũng không hiểu tại sao khi lên ngôi, Long Đĩnh không giết mà lại còn khen ta có lòng trung, rồi vẫn cho ta ở chức này. Trong khi quan Điện tiền còn đang suy nghĩ mông lung về tội ác của nhà vua, thì tại triều đình, các quan đã tề tựu nhóm họp. Lê Ngọa triều[4] mất không kịp viết di chiếu, không có cô mệnh. Nhẽ đương nhiên, các quan cứ đặt ấu chúa lên ngai vàng, rồi sụp lạy mà tôn lên ngôi thiên tử. Còn chính sự, đã có các quan tả hữu phụ bật coi sóc. Trái với điển lệ, quan Thái bảo Đào Thạc Phụ dõng dạc tuyên cáo trước triều hội: - Bớ các quan! Hôn quân đã thác! Con nối còn thơ ấu, lại chẳng biết nhân cách sau này thế nào, mà lòng dân đã từ lâu chất chứa oán hờn. Lòng dân trái lìa, các động, sách lại luôn luôn làm phản; bên ngoài thì nhà Tống nhòm ngó. Để yên thế nước, các bậc trong hàng tam công[5] chúng tôi đã xét suy cạn nhẽ, lại tham bác thêm với các bậc khanh, sĩ và cũng đã có nhời với các bậc tăng thống, ai ai cũng thấy chỉ có tôn quan Thân vệ tả điện tiền đô chỉ huy phó sứ Lý Công Uẩn, là người có đức độ, có tài năng, lại có uy nghi cốt cách thánh thần lên ngôi thiên tử, thì đất nước mới hưng vượng lên được. Chẳng hay ý trăm quan thế nào? Quan Thái bảo vừa dứt lời, cả triều đình đều tung hô: Vạn tuế! Vạn vạn tuế! Mọi người nhìn trước nhìn sau, không thấy Lý Công Uẩn đâu cả. Chợt có người nhớ ra, quan Điện tiền còn đang coi sóc thi hài nhà vua trong nội tẩm. Lập tức kiệu rồng được phái đi rước ông. Kiệu chưa ra khỏi sân rồng, thì đám quân Tuỳ long đã lấy thân làm kiệu, rước Lý Công Uẩn tới trước thềm điện. Trăm quan lạy mừng. Tả, hữu dìu Lý Công Uẩn lên ngự ngai vàng. Ông hai ba lần từ chối rồi mới gượng ngồi. Các quan dâng mũ miện, áo long cổn, đai ngọc, kiếm báu cùng ngọc tỉ truyền quốc. Lý Công Uẩn cảm động rơm rớm nước mắt; ông đứng lên chắp tay vái hai vái để tỏ lòng biết ơn bá quan. Trăm quan cúi đầu sụp lạy nhà vua bốn lạy, rồi dâng tôn hiệu: “Phụng thiên chí lý ứng vận tự tại thánh minh long hiệu duệ văn anh vũ sùng nhân quảng hiếu thiên hạ thái bình…” Vua mới lên ngôi liền cho phá bỏ hết các vạc dầu cùng chuồng hổ, báo, rắn, rết, voi, ngựa là các giống vật để hành hình người có tội. Trước đây, từ thời nhà Đinh đã lập ra hình phạt này. Trong nước, hễ ai có tội, tùy theo nặng nhẹ mà bỏ nấu trong vạc dầu sôi sình sịch suốt đêm ngày. Hoặc ném vào chuồng cho hổ, báo ăn thịt, rắn rết hành hạ, hoặc voi giày, hoặc tứ mã phanh thây… Lại ban chiếu, từ nay ai có việc tranh kiện nhau, nha lại đã xử nhưng nỗi oan chưa tỏ cho đến triều tâu bày, vua thân xét xử. Khắp nước, dân chúng hồ hởi mở hội ăn mừng. Cờ phướn với hàng chữ lớn: “Thiên hạ thái bình” giăng mắc khắp nơi. Trong dân gian đồn đại rộn lên về lời sấm loan từ mấy năm nay. Như trước đây trong thành Đại La có người khách thương thường đem hàng hóa về bán buôn tại châu Cổ Pháp, tò mò hỏi người bạn hàng về lời sấm ấy như thế nào. Ông chủ cũng là người nhanh nhẹn, cởi mở, nghe hỏi đến chuyện vùng quê mình thì lấy làm hãnh diện lắm, bèn mời khách đi xem. Ông dẫn khách tới chỗ cây gạo bị sét đánh ở đầu hương Duyên Uẩn, chỉ vào chỗ chạc ba, nơi hiện lên lờ mờ những nét chữ, mà thiền sư Vạn Hạnh đã chắp nối lại thành bài sấm ký như sau: Thụ căn diểu diểu, Mộc biểu thanh thanh. Hòa đao mộc lạc, Thập bát tử thành. Vừa giải nghĩa, vừa chiết tự đại ý: Vua thì non yếu, Tôi thì cường thịnh. Họ Lê mất, Họ Lý nổi lên. Lời ấy đồn khắp hang cùng ngõ hẻm, từ làng nọ sang làng kia. Lời thơ ấy trở thành lời sấm được trẻ chăn trâu hát đồng dao tại các chợ búa làng quê. Chẳng bao lâu khắp cả nước đều biết. Việc ấy cũng đã đến tai Lê Ngọa triều. Nhà vua còn bán tín bán nghi. Bỗng một hôm có người dâng quả khế ngọt, vua ăn thấy chiếc hạt mận[6] mới thật sự tin vào lời đồng dao. Ngài bèn cho truy tìm khắp cõi để giết người họ Lý, giết cả những kẻ hát đồng dao. Nhưng đồng dao thì cả nước hát, giết sao thấu, khiến cả bọn quan quân đi săn bắt cũng phải khiếp sợ; không biết trời sẽ giáng hoạ ra sao, mà lời sấm vĩ cứ đồn thổi như một vết dầu loang, không thể nào ngăn chặn được. Còn nghe nói ở chùa Ứng Thiên có con chó mẹ đẻ ra con chó trắng, xoáy lông trên lưng có vằn vàng đọc ra chữ Thiên tử. Có người giảng, chó là Tuất; điềm này ứng vào năm Tuất ắt có vua mới. Các chuyện đều đến tai, nhà vua đứng ngồi không yên, ăn ngủ không được, càng lao vào việc bắt bớ, tàn sát. Khắp các làng quê kẻ chợ, trẻ con bị bắt về triều kể có hàng trăm. Ngọa vương đã sai phanh thây, mổ bụng hàng chục trẻ nhỏ trước mặt ông, vì tội hát đồng dao. Ông cũng cho treo cổ hàng chục người họ Lý. Bữa nọ, thiền sư Vạn Hạnh vào triều kiến, nhà vua mừng lắm nhưng không đứng dậy được, vẫn cứ ngọa trên long sàng, tiếp sư. - Ta mong hoà thượng như con mong mẹ về chợ – Vua nói. - Để bệ hạ phải trông chờ, tăng này thật có lỗi. Chẳng hay bệ hạ mong bần tăng tới có việc gì sai bảo? Được lời như cởi tấm lòng, nhà vua nói hết các điều chất chứa ám ảnh bấy lâu nay, như lời trẻ hát đồng dao, ăn khế có hạt mận, trên mình chó xuất hiện hai chữ “Thiên tử”… Thiền sư vén vạt áo cà sa ngồi tĩnh tâm rồi thong dong hỏi: - Chẳng hay bệ hạ có còn cái hạt mận ấy không? Có bắt được kẻ làm đồng dao không? Có bắt được con chó có xoáy lông, có hai chữ đó không? Vua thở dài: - Trẻ hát đồng dao, sứ đi rình nấp nơi chợ búa đồng quê đã giết được mấy chục đứa, lại bắt về đầy triều. Cái hạt mận thì quả thực ta sai vứt đi rồi. Ta cũng sai người về chùa Ứng Thiên bắt con chó con kia, nhưng tới nơi nó đã chết, nhà chùa chôn đi rồi. - Thế bệ hạ đã giết bao nhiêu người họ Lý? - Ta mới giết có vài chục đứa. Trông chúng như những thằng khờ. - Chính bệ hạ biết đấy, việc đời như nước chảy như mây bay, có cái gì ngưng kết lại đâu mà lo. Con chó đã chết, cái hạt mận không còn, lời đồng dao cũng bay theo gió. Chỉ tiếc là bệ hạ đa sát quá. Nỗi oán vọng của các hồn oan ngày một chất chứa, thì bệnh tật bệ hạ ngày càng nặng thêm. Thiền sư vừa nói vừa chỉ ngón tay vào nhà vua. Ngọa vương co rúm người lại, rồi phát cơn đau quằn quại. Nhà vua giãy giụa, mặt tái xám như không còn một hạt máu, xin thiền sư cứu mạng. Vua vốn biết sư là bậc cao tăng, đến tiên đế xưa còn phải kính phục. Mỗi khi xuất quân hay quyết việc gì lớn, đều hỏi ý sư. Nay thấy sư có ý không vui vì các việc mình làm, nên nhà vua lo lắm. Hai ba lần cầu khẩn xin sư cứu mạng. Thiền sư khẽ chụm năm đầu ngón tay đặt nhẹ lên huyệt bách hội của nhà vua. Chừng nhai dập miếng trầu, bệnh chỉ ngay, vua ngồi bật dậy, vái sư lia lịa. Thiền sư bèn nói: - Bệ hạ đừng tin vào những lời đồn đại hoang đường mà giết người dân vô tội. Nếu bắt tội thì phải bắt kẻ làm đồng dao, chớ sao lại đi giết kẻ hát đồng dao? Chúng trong trắng như thiên thần. Giết chúng ắt trời bắt phải đền tội. - Nhưng ta không bắt được kẻ làm ra đồng dao. - Bệ hạ bắt làm sao được người làm ra đồng dao. Bởi đó là lời của thần xui trẻ hát. Vì thế không ai dạy mà chúng đều thuộc nằm lòng. Nếu không, tại sao bệ hạ ăn quả khế lại có hạt mận. Đó chẳng phải là cơ trời sao. Thế mà lại đi bắt người dân vô tội về giết. Nhìn chòng chọc vào mắt nhà vua giây lát, thiền sư lại hỏi: - Bệ hạ có biết quan Tả điện tiền đô chỉ huy phó sứ của ngài họ gì không? Nhà vua oằn người chịu cơn đau vừa ập đến, đáp lời qua hơi thở gấp: - Công Uẩn họ Lý. Sư còn lạ gì mà phải hỏi ta. Nhưng y là người tận trung. Điều này ta biết từ sau vụ Trung tông bị hại. Chính mắt ta thấy y ẵm xác Trung tông vừa chết, máu me đầy người. Y khóc Trung tông trước mặt ta. - Vậy chớ bao giờ thì bệ hạ trừ khử quan Điện tiền? – Vạn Hạnh hỏi rồi đưa mắt nhìn xoáy sâu vào gương mặt hốc hác của nhà vua. - Không đâu! Không đâu! Ta không ngu dại đến mức đi giết người bề tôi trung dũng như quan điện tiền của ta. - Vì sao lại thế? - Ta nói rồi, y là bề tôi trung của ta. Vả lại, vợ Công Uẩn là nghĩa nữ của tiên đế. Ta với y ngoài nghĩa vua tôi còn có tình huynh đệ. Hơn nữa, y là đệ tử của đại sư, hóa nên các người đều là thân tín, là ân nhân của ta. Cớ sao ta còn hoài nghi nữa. Nhà vua lại ôm bụng kêu rống lên: - Ối đau quá! Đau quá! Xin đại sư mở lượng cứu mạng! Cứu mạng! Vạn Hạnh nhìn vào đáy mắt nhà vua, ôn tồn khuyên bảo: - Bệ hạ muốn sinh mệnh được dài lâu, cơ đồ được trường cửu, phải lo làm việc thiện, trồng cây đức thì mới mong chuyển nghiệp được. Chỉ khi nào dân của bệ hạ không bị chết thảm, không còn cảnh đói rét cơ hàn, lòng bệ hạ tự nhiên thanh thản, bệnh tật trong người ắt tiêu tan. Lạ thay, thiền sư vừa dứt lời, nhà vua lập tức hết cơn đau. Thiền sư từ giã nhà vua về sơn tự. Vua vừa mừng rỡ, vừa khiếp sợ oai lực của thiền sư. Thật ra, thiền sư còn nghe được nhiều chuyện lạ kỳ nữa, nhưng sư không muốn kể cho hôn quân nghe. Chẳng hạn đêm nọ sư đang tham thiền lại nghe như rót vào tai từ bốn phía ngôi mộ của thân phụ Lý Công Uẩn đều có tiếng người thần ngâm thơ. Nguyên do ngôi mộ cha Công Uẩn có nhiều sự lạ, là bởi câu chuyện về hai người đàn ông, đàn bà, làm công quả bị đuổi ra khỏi chùa. Vì rằng cái người làm vãi tự nhiên có chửa, không giấu được ai nữa, thị khai là một bữa đang làm việc sau chùa, thấy mệt và buồn ngủ, bèn ngả lưng lên phiến đá nằm nghỉ. Rồi thiếp ngủ lúc nào không biết, và trong giấc ngủ mơ thấy có người thần đến giao cấu. Từ ấy trong người cứ rạo rực, rạo rực hoài, và bụng thì cứ mỗi ngày mỗi phình to ra, chẳng biết thế nào. Thế nhưng tăng chúng lại nói y thị ăn nằm với cái người đàn ông kia. Hai người bị đuổi, kéo nhau ra dựng một túp lều bên bìa rừng làm nơi trú ngụ, và sống với nhau như vợ chồng. Ban ngày họ tỏa vào trong làng xóm làm thuê làm mướn. Một bữa nọ trời đã sẩm chiều, người đàn ông đi làm về tới giếng nước gần nhà, bỗng dừng lại định uống vì khát quá. Từ đâu đó xuất hiện mấy người đàn ông đến gây sự. Lời qua tiếng lại, xô đi đẩy tới, người đàn ông nọ hững chân tụt xuống giếng. Mấy kẻ lạ mặt sợ quá bỏ đi. Người đàn ông quờ quạng dưới đáy giếng sâu thăm thẳm, được một lúc rồi chìm xuống mà chết. Người đàn bà bụng mang dạ chửa đi làm về, lại vào bếp hí húi thổi cơm. Nấu xong, chờ mãi không thấy chồng về, sốt ruột, nàng bèn đốt đuốc đi tìm chồng và réo gọi lạc cả giọng. Trong đêm tối chỉ có tiếng vọng của núi rừng đáp lời nàng, nghe ghê rợn như tiếng của loài ma quái giỡn nạt. Mãi quá nửa đêm, không biết thần linh xui khiến thế nào nàng lại soi đuốc vào lòng giếng. Thấy xác người nổi, nhận đúng là chồng, nàng hét lên một tiếng rồi ngất đi. Sớm hôm sau vừa tỉnh dậy, nàng toan ngó xuống giếng nhìn mặt người quá cố một lần nữa, rồi vào trong xóm, trong làng nhờ người mai táng. Lạ thay! Nàng không thấy cái giếng đâu nữa và chợt nhận ra mình đang nằm trên một gò đất cao. Nàng bước đi vài bước, thấy đất dưới chân mát lạnh và sụt lún. Định thần nàng mới nhận ra là mối vừa đùn đắp đêm qua. Người đàn bà bất hạnh vừa thương chồng, vừa thương đứa con trong bụng, lại tủi cho thân phận của chính mình, cứ ngồi khóc tức tưởi tới quá chiều. Bỗng có một người đi qua thấy tiếng khóc than thảm thiết, biết rằng thiếu phụ này chồng vừa chết, và cái gò mối đùn kia chính là ngôi mộ Trời táng cho chồng chị ta. Thương tình, khách bèn khuyên: - Nhà chị kia, phúc trời ban cho lớn vậy mà không biết tạ đi, sao lại còn khóc. Mộ ấy là kết phát đế vương đấy. Liệu mà tu nhân tích đức. Chưa kịp nhìn xem ai dạy bảo, chưa kịp hỏi han vài lời thì khách đã biến đi đằng nào mất tăm. Rồi người đàn bà ấy cũng kiếm được miếng ăn, sống cho qua ngày đoạn tháng. Sinh nở mẹ tròn con vuông, gắng nuôi được đến khi con lên ba tuổi khỏe mạnh. Lại nghĩ đến tương lai của thằng bé lớn lên phải có người dạy bảo, phải được học hành. Người mẹ đành liều đem con đến chùa Kiến Sơ hương Phù Đổng, nhờ nhà sư Khánh Văn nuôi giùm và nhờ Phật Đà che chở. Nhìn đứa bé tướng mạo khác thường, sư bèn nhận lời và đặt cho cái tên là “Công Uẩn”, lại cho mang họ Lý của sư để đăng vào sổ bộ của thiền môn. Tới năm Công Uẩn sáu tuổi, nhân một bữa sư Vạn Hạnh ghé thăm sư Khánh Văn bên chùa Kiến Sơ, hương Phù Đổng; vừa chợt nhìn thấy trên đầu Công Uẩn như có vầng hào quang, Vạn Hạnh bèn vẫy lại xem kỹ từ đầu mày khoé mắt. Sư vui lắm. Một lát sau, nhân vừa uống trà vừa đàm đạo về Phật sự và cả thế sự nữa với sư Khánh Văn, hai người trò chuyện rất là tâm đầu ý hợp. Vạn Hạnh ra về. Khánh Văn theo tiễn mãi tới cổng chùa mà vẫn còn lưu luyến. Chợt sư Vạn Hạnh nhìn thẳng vào mặt Khánh Văn nói, giọng hết sức nghiêm trang: - Thằng bé mà sư đệ nuôi đó có tướng lạ lắm. Thật là kỳ tướng. Vậy chớ sư đệ kiếm đâu ra đứa bé này? Khánh Văn bèn thuật lại chuyện ba năm về trước. Lại kể từ khi trở thành người nhà Phật, thằng bé ngoan ngoãn và sáng dạ như thế nào. - Mới có sáu tuổi chữ nghĩa đã làu thông. Chép kinh văn, tự hiểu được nghĩa, không cần đệ phải giảng giải. Vạn Hạnh bèn nắm lấy tay Khánh Văn nói nhỏ: - Ta nói điều này sư đệ phải giữ kín, lộ ra có kẻ biết, nó sẽ sát hại thằng bé mất. Ban nãy ta nói thằng bé có kỳ tướng là ta còn giảm đi mấy bậc đấy. Thực ra nó có tướng đế vương. Đây đích thị là bậc minh vương thánh đế trời ban cho nước ta, ban cho Đạo ta, để gỡ cho thế nước đang lâm vào trì bế, nát rối. Sư đệ phải bảo trọng tài sản cho nước. Nói xong thiền sư toan quay bước. Nghe Vạn Hạnh nói, Khánh Văn vừa mừng rỡ, vừa lo sợ, sư bèn kéo vạt áo cà sa của sư Vạn Hạnh lại và nói một cách chân tình: - Việc quốc gia đại sự lớn lắm, mà Phật sự cũng lớn lắm, đệ không kham nổi cả hai việc được đâu. Sư huynh đạo cao vọng trọng, oai lực như thần, đến quốc vương còn phải kính nể, đệ giao thằng bé này cho sư huynh nuôi dạy thành tài, đệ hứa sẽ giữ kín mồm miệng, xin sư huynh yên lòng. - Thiện tai! Thiện tai! Và từ bữa ấy, Công Uẩn theo hầu thầy Vạn Hạnh. Thiền sư Vạn Hạnh từ khi thâu nhận Công Uẩn làm đệ tử, ngài để hết cả tâm lực và trí lực của mình vào việc giáo dưỡng một chân tài, mà ngài hy vọng là để dùng vào việc chấn hưng đất nước, chấn hưng Phật Đạo. Lại nói đến chuyện đêm đêm thiền sư Vạn Hạnh nghe như rót vào tai mình từ bốn phía ngôi mộ cha của Công Uẩn, có tiếng người thần ngâm thơ. Sư ghi lại được tất cả, rồi viết vào ván gỗ, sai người đem đóng vào bốn hướng mộ. Sư lại đến tận mộ kiểm xét cẩn thận, thắp hương trò chuyện với sơn thần, thổ địa. Trước khi về, sư còn đọc một bài kệ, như là một sự trấn yểm, cũng là nhời nhắn bảo con cháu sau này, nếu có sự di đáo thất lạc, thì cứ theo lời kệ mà tìm, ắt sẽ thấy phần mộ tổ tông. Lời kệ như sau: Đông hữu Vũ Long hạng Nam hữu Vũ Long pha. Tây hữu Hạc Lâm quán, Bắc hữu Trấn Hải trì.[7] Đại loại những chuyện như thế nhiều vô kể. Và cũng từ bữa ấy, Ngọa vương lâm trọng bệnh, việc giết người vì thế không xảy ra nữa. Kíp khi Ngọa triều mất, Lý Công Uẩn được tôn lên ngôi hoàng đế. Cả nước, ai cũng bảo lòng trời tựa họ Lý. Vì vậy dân chúng đều đem lòng ngưỡng mộ sùng kính vua mới. Những nơi xa kinh thành, dân còn lập hương án bái vọng về triều. Lý Công Uẩn còn tuyên dụ trước bá quan rằng: Nhờ có các khanh, ta mới được vẻ vang như thế này. Vậy ai giữ chức nào ở triều trước vẫn cho ở nguyên chức ấy lại ban nhất loạt mỗi người tước năm tư. Và khuyến dụ mọi người phải gắng sức hoàn thành trách phận để đem phúc hạnh đến cho muôn nhà. Vua còn đặc cách thăng thưởng cho những người có công lớn, và cất nhắc người trong thân tộc, như đem con gái trưởng là công chúa An Quốc gả cho Đào Cam Mộc, lại phong Mộc làm Tín nghĩa hầu. Đào Cam Mộc vốn là Chi hậu hầu cận Ngọa triều Lê Long Đĩnh, được nhỡn tiền thấy không biết bao nhiêu tội ác của nhà vua khiến lòng ông đau đớn khôn nguôi. Ông cũng được chứng kiến cả hành vi trung nghĩa của Lý Công Uẩn, khi Lê Long Đĩnh giết anh mình là Lê Trung tông. Công Uẩn đã ôm xác vua cũ mà khóc lóc tỏ lòng trung. Rồi khi về với vua mới, Công Uẩn không a dua xu phụ vào các tội ác cùng các việc làm thất đức của Ngọa triều hoàng đế. Cảm mến tấm lòng trung nghĩa ấy của Công Uẩn, kịp khi Ngọa vương vừa mất, Đào Cam Mộc nhân lúc vắng người liền ngỏ ý: - Mới rồi chúa thượng ngu tối, bạo ngược, làm nhiều điều bất nhân bất nghĩa, nên trời trách phạt, không cho hưởng hết tuổi thọ. Con nối lại thơ ấu, sao cáng đáng được việc nước trong tình thế khó khăn này. Đình thần chán ghét. Bách tính ngong ngóng mong tìm chân chúa. Sao ông không nhân lúc vận dụng mưu cao, trên thuận mệnh trời, dưới theo lòng dân lấy nước mà cứ khư khư giữ mãi tiểu tiết làm gì. Lý Công Uẩn nghe Đào Cam Mộc nói đã tin tới tám chín phần, nhưng vẫn còn một chút hơi ngờ vực, bèn giả vờ nạt: - Sao ông lại nói những lời diệt tộc như thế, tôi phải bắt ông nộp quan trên. Không chút nao núng, Đào Cam Mộc thẳng thắn đáp: - Tôi thấy cơ trời, vận nước, lòng dân bày xếp ra như vậy thì nói vậy. Nay ông lại muốn đi cáo giác tôi, vậy thì xin nói để ông biết, Mộc này không phải là đứa ươn hèn, sợ chết. Biết Đào Cam Mộc thật lòng, Lý Công Uẩn lựa lời an ủi: - Ông đã có lòng như thế, tôi là hạng người nào lại nỡ đi cáo giác. Chỉ sợ rằng mình đức mỏng chẳng xứng ở ngôi cao, lại nữa chuyện chưa đi tới đâu mà đã tiết lậu ra thì chết cả lũ, nên muốn răn ông đó thôi. Trong khi ấy các quan vừa bàn tán vừa nghe ngóng. Xem ra không có ai nghĩ đến việc đưa con của Ngọa vương lên nối dòng đại thống nữa. Lựa lúc thuận tiện, Đào Cam Mộc lại nói với Lý Công Uẩn: - Từ lâu trẻ con hát đồng dao lời sấm khắp trong nước. Ai cũng bảo họ Lý sẽ phát. Việc ấy tưởng ông còn lạ gì. Sự thể đã lộ ra như thế rồi. Hoạ đây, phúc đấy; quyền biến thì chuyển họa thành phúc chỉ là chuyện trong gang tấc. Đào Cam Mộc ngừng lời, đoạn nhìn thẳng vào mắt Lý Công Uẩn và với vẻ quả quyết ông giục: - Việc gấp lắm rồi, ông sớm liệu quyết đi, bỏ lỡ vận hội lại suốt đời ôm hận. Lý Công Uẩn rưng rưng cảm động nói: - Giã ơn ông đã đặt kỳ vọng vào ta. Quả thật lòng ta đang rối, lại chẳng biết ý tứ các quan trong triều ra làm sao, ý tứ bách tính ra làm sao. Xin ông hãy vì ta mà dò xét, có như thế nào thì ta mới dám quyết. Đào Cam Mộc cũng thấy sự băn khoăn của Lý Công Uẩn là xác đáng nên ông tìm cách gặp quan Hữu điện tiền đô chỉ huy sứ Nguyễn Đê. Nhân lúc sẩm chiều, trời như tối lại, ông kéo Nguyễn Đê vào một góc khuất nói: - Tôi có điều tâm huyết muốn bày tỏ cùng ông. - Có chuyện gì đấy quan Chi hậu. Phải chăng ông gần gũi hoàng thượng, có di chiếu hay cố mệnh hoàng thượng ký thác nơi ông chăng? - Không, không phải thế đâu. Xưa nay tôi với ông là chỗ tâm phúc, có điều gì mà phải giấu nhau. Tình thế này không thể đặt thằng nhãi ranh ba tuổi lên ngôi tôn được đâu. Họ Lê mạt rồi, nòi giống ấy phản phúc không gây dựng lại làm gì. Dứt lời, Đào Cam Mộc nhìn thẳng vào mắt Nguyễn Đê và tiếp: - Chắc tướng quân còn nhớ các việc diễn ra năm Canh thìn (980) do Lê Hoàn tư thông với Dương thị đã lập mưu giết cha con Đinh Tiên Hoàng rồi vu cho Đỗ Thích, lại tự phong cho mình làm nhiếp chính. Thấy cơ đồ nhà Đinh có nguy cơ mất về tay kẻ khác, nên Đinh quốc công cùng phụ thân của tướng quân phối cùng các tướng nổi lên định trừ Lê Hoàn. Chẳng may sự việc không thành, các vị đều rơi vào tay y và thất lộc. Nhờ có hai vị cao tăng là Pháp Thuận và Vạn Hạnh nên tướng quân không những không bị trả thù mà còn được đặt vào chỗ then máy, hiện nắm trong tay toàn bộ quân cấm vệ cùng với vị phó của ông là Tả điện tiền đô chỉ huy phó sứ Lý Công Uẩn. Bây giờ mới là lúc ông phải ra tay, phải dùng quân cấm vệ chặn ngay các đường hiểm yếu nội bất xuất ngoại bất nhập, phòng có biến. Rồi bàn bạc trong triều chọn lấy người đức độ tài cán biết đường chăn dắt muôn dân, làm vững thế nước mà lập. Chớ có hấp tấp đặt lũ cáo cầy hùm sói lên ngôi tôn, ắt chúng sẽ hút hết máu mủ của dân lành, chẳng chóng thì chày sẽ dẫn đến cái hoạ tiêu vong cả đất nước chỉ vì sự ngu hèn và tham ác của chúng. Nắm chặt lấy bàn tay Nguyễn Đê, Chi hậu Đào Cam Mộc thì thầm: - Ông có nhớ mấy ngày trước đây nhà vua đau đớn dữ dội, bèn triệu đại lão hoà thượng Vạn Hạnh vào triều chữa trị không? Đấy, chính cái bữa ấy, sau khi ở điện Trường Xuân ra thì Hoà thượng gặp tôi, người dặn lại: “Trong bảy ngày nữa, tức là ngày Ất Tỵ, bệnh nhà vua ắt tái phát. Đau trong bảy ngày rồi cứ thế mà đi. Nhà vua đi vào giờ Dậu ngày Tân Hợi”. Ông đã thấy nhà vua phát bệnh đúng vào ngày Ất Tỵ chưa, còn hôm nay là ngày gì? Nhìn trừng trừng vào mắt Đào Cam Mộc, Hữu điện tiền đô chỉ huy sứ Nguyễn Đê nói: - Hôm nay chẳng là ngày Tân Hợi sao mà ông Chi hậu còn phải hỏi. - Vậy thì quả như nhời đại lão hòa thượng Vạn Hạnh đã nói. Lúc này là giờ gì rồi, nếu đúng như hòa thượng nói thì giờ Dậu nhà vua tắt thở. Thì giờ chẳng còn mấy nữa, quân cấm vệ đang ở trong tay ông, xoay chuyển thế cuộc thế nào cũng ở một tay ông, nhược bằng bỏ lỡ dịp này, tay chân của Long Đĩnh độc chiếm ngôi tôn, liệu ông và những người chính trực có còn đất sống? - Ta rất cảm kích những điều ông nói. Bấy lâu ta rất băn khoăn, đôi lúc cũng muốn ra tay trừ khử hôn quân, ngặt vì chưa tìm được người tâm phúc. Thật ra, hôn quân không chỉ là kẻ thù của dòng họ Nguyễn nhà ta, mà y còn là kẻ thù của cả nước. Mấy bữa nay thấy bệnh tình của hôn quân ngày một trầm trọng, các quan trong ngoài đã xôn xao. Ta với vài người đã có tính tới chuyện tôn ai lên ngôi báu. Trước kia khi hôn quân còn hung hãn tàn ác, mọi người đều nghĩ, cứ trừ được hôn quân thì ai đứng đầu trăm họ cũng được, miễn không phải đứa hôn quân này. Nay thì khác, mọi người đã bình tâm xét định, việc đưa người lên nắm giữ ngôi tôn là trao mệnh nước vào tay họ, nên không thể để cho đứa ngu hèn, hung hiểm, tư kỷ, bè đảng nắm giữ được; mà phải tìm cho được người đức độ khoan dung, người có đầu óc thông tuệ nhìn xa thấy rộng, kiến thức hơn đời, lại phải là người có lòng vị nhân chứ không vị kỷ. Được, được, ông khỏi lo, quyền chỉ huy quân cấm vệ vẫn nằm trong tay ta, kẻ nào ho he ta bóp chết. Ta sẽ phái Tả điện tiền chỉ huy phó sứ nắm một nửa số quân Tùy long, còn ta giữ một nửa. Ta sẽ đóng chặt bốn cửa thành, các điện Trường Xuân, Cực Lạc, Bách Bảo Thiên Tuế… cùng cả khu cấm thành đến một cánh chim cũng không lọt vào được. Nhưng điều ta cùng mọi người quan hoài nhất trong lúc này là đặt ai lên ngôi báu, ông đã có dự liệu gì chưa, thử nói ta nghe. Đào Cam Mộc ra vẻ suy tư, trầm ngâm một lát rồi đáp: - Tôi nói chỉ sợ ông cho là thiên vị, là thiển cận. - Trời ơi, lúc này mà ông còn so đo, còn không tin nhau nữa thì việc lớn hỏng mất. - Thì xem các quan lớn trong triều đây, ai có đức thì tôn lên. Ông thử cân nhắc xem quan Tri khu mật viện Trần Cảo, quan Thái bảo Đào Thạc Phụ, hai người ấy liệu có ai xứng đáng không? - Các ông ấy là người tốt, chứ chưa phải là người tài đức mà cả nước tìm kiếm. - Thế thì còn một người nữa, người này thì đức độ có, trí tuệ có, cương dũng có, xứng đáng để dân nước tôn thờ nhưng có hai nhược điểm. - Nhược điểm thế nào, ông nói mau ta nghe. - Thứ nhất là tuổi còn trẻ. Thứ nhì là quan cấp chưa cao. Nguyễn Đê vồ ngay lấy cái người mà Đào Cam Mộc vừa nói: - Sao ông thiển cận thế, người như vậy đất nước đang cần. Tuổi trẻ là cần thiết cho đất nước. Tuổi trẻ có sức nghĩ sức làm, dám nghĩ dám làm các việc lớn việc lạ mà lớp người già e ngại. Còn quan chức chưa cao thì có gì lạ. Từ lâu ta đã nghiệm thấy một điều tưởng như vô tình mà hóa ra chủ ý rằng triều đình đã hoàn tất được các cơ quan then máy để loại bỏ người tài. Bởi thế, sao nó còn dám sắp đặt người tài vào các cơ quan then máy để có chức trọng quyền cao. Vậy người đó là ai, ông nói mau ta nghe. Đào Cam Mộc mỉm cười nhìn thẳng vào đôi mắt hau háu chờ đợi của Nguyễn Đê, buông một câu hỏi lửng: - Ông thử nghĩ, cái người như tôi vừa nói có lẩn khuất trong triều đình không? - Tôi sao có óc bao quát và có mối quan hệ rộng được như ông mà biết. - Người đó ở cạnh ông đấy. Ông thử bình tâm nhìn lại xem có đúng như nhời tôi nói không? Nguyễn Đê reo lên: - Đúng rồi! Tả điện tiền đô chỉ huy phó sứ Lý Công Uẩn. Quả con người này hội được cái đức mà ông vừa nói. Thôi được, ta phải đi đây. Nói xong Nguyễn Đê đi liền. Thật ra thì từ bữa thiền sư Vạn Hạnh ghé thăm Lê Ngọa triều tại cung Bách Bảo Thiên Tuế vừa bước ra khỏi cửa khuyết gặp ngay Chi hậu nội nhân Đào Cam Mộc cũng vừa tới. Đào Cam Mộc từ lâu nghe danh đại lão thiền sư trong lòng rất cảm phục, bèn cúi rạp xuống xá thiền sư một xá, miệng nói: - Nam mô A-di-đà Phật! Con kính chào đại lão hòa thượng. Thiền sư Vạn Hạnh không đáp lời mà nhìn thẳng vào gương mặt Đào Cam Mộc, bỗng ngài vẫy Cam Mộc đi theo về chùa Thiên Phúc. Phân ngôi chủ khách xong, sư nói: - Thấy ông là người hiền lành phúc hậu, nên ta không nỡ không cứu. Đoạn sư chỉ vào ấn đường Đào Cam Mộc nói: – Hung khí tụ ở đây. Điềm này ứng vào sinh mệnh nhà vua, vì ông là người trông nom việc hầu hạ trong cung. Không cẩn thận trước cái chết sắp tới của nhà vua, ông phải lãnh án tru di. Đào Cam Mộc mặt mày tái xám, sụp lạy: - Con cắn cỏ con lạy đại lão hòa thượng, ngài là Bồ tát tại thế, xin ngài cứu mạng cho con. Sư lim dim đôi mắt như người xuất hồn, giây lâu ngài mở bừng đôi mắt sáng chói như có hào quang chiếu rọi vào gương mặt Đào Cam Mộc, khiến người Mộc nóng bừng lên, mặt đỏ gay. Sư thong thả nói: - Được! Ta sẽ cứu ông, nhưng phải làm đúng các điều ta dặn. Đào Cam Mộc nói líu cả lưỡi: - Con xin nhất nhất nghe theo lời đại lão Bồ tát dạy bảo. - Ta chưa đạt tới cõi của chư vị Bồ tát. Nhưng nghe ta nói đây. - Dạ! Dạ con đang nghe. - Nhà vua sẽ tắt thở vào giờ Dậu ngày Tân Hợi tháng Hợi này. Đào Cam Mộc nhẩm tính: – Vậy là chỉ còn mười bốn ngày nữa, nhưng nhà vua đã có triệu chứng gì nguy kịch đâu mà có thể chết? Đọc được ý nghĩ của viên Chi hậu cục nội nhân, thiền sư nói: - Trong bảy ngày nữa, tức ngày Ất Tỵ, nhà vua ắt phát bệnh. Đau dữ dội trong bảy ngày rồi cứ thế mà đi. Lúc nhà vua không kêu ca gì nữa, ấy là lúc tắt thở. Ông nhớ kỹ điều ta dặn đây. Thiền sư nhìn một lần nữa gương mặt Đào Cam Mộc, xem có thể nói ra được điều tối mật thuộc về thiên cơ không. Dường như yên tâm, sư nói: – Khi nhà vua phát bệnh, thế nào cũng cho đòi quan thái y. Nhưng trước khi mời thái y, ông phải cấp báo cho hai quan Tả Hữu điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn và Nguyễn Đê biết, để họ giám sát. Nếu không, ông sẽ can tội giết vua đấy! Đào Cam Mộc cụng đầu xuống đất vái tạ thiền sư lia lịa. Quả nhiên, đúng đầu giờ Mão, ngày Ất Tỵ, Đào Cam Mộc cho bê nước ngũ vị hương vào nội tẩm dâng nhà vua rửa mặt, Ngọa triều vung tay hất tung chậu nước đổ lênh láng ra thềm ngọc, ướt cả long sàng, liền lúc kêu thét lên vì đau đớn. Hỏi đau ở đâu, nhà vua chỉ lung tung. Thấy ứng lời của đại lão thiền sư, trong lòng Cam Mộc hết đỗi run sợ bèn cho triệu gấp hai viên Tả Hữu điện tiền, nắm giữ toàn bộ cấm binh canh phòng nội tẩm và cấm thành. Một lát sau Lý Công Uẩn, Nguyễn Đê có mặt. Hai quan tả hữu điện tiền chỉ huy sứ nhìn gương mặt nhà vua, đều cảm thấy có điều gì nghiêm trọng sắp xảy ra. Hai vị liền chia quân canh gác bốn cửa hoàng thành, canh gác các cung thất, nghiêm cấm sự ra vào của tất cả mọi người. Còn trong nội tẩm, thì đến cả hoàng hậu cũng không được lui tới. Cắt đặt canh phòng các ngả, rồi hai quan điện tiền mới cho triệu thái y ty và thái y chức đến chẩn bệnh cho vua. Các thái y xoay trở đến toát mồ hôi, vẫn không tìm ra được căn bệnh đang hành hạ nhà vua. Bệnh gì mà bạo liệt thế này, sờ vào bất cứ chỗ nào trong ngọc thể, nhà vua cũng rú gào lên thật là đau đớn. Tâm thần nhà vua mỗi ngày một hoảng loạn, suy sụp. Các thái y đã xoay đủ tứ chứng, nhưng cứ mỗi lần đổ thuốc, nhà vua lại nôn oẹ ra cả mật xanh mật vàng. Nhà vua phát bệnh đến ngày thứ ba thì khắp các chợ trong thành Hoa Lư, trẻ con cứ thập thò từng tốp, từng tốp rồng rồng rắn rắn, lúc chúng xuất hiện chỗ này, lúc thì chỗ khác, chúng hát đồng dao. Những câu hát rất lạ, nghe kỹ rồi chắp nối được bài hát như sau: Tật Lê trầm bắc thuỷ, Lý tử thọ nam thiên. Tứ phương can qua tịnh, Bát biểu hạ bình an.[8] Nghe thì nghe, nhưng ít người hiểu. Bỗng có cụ già râu tóc bạc phơ đi tới, mọi người xúm lại hỏi. Cụ bảo họ đọc lại từng câu rồi giảng giải: “Đây là điềm họ Lê mất, họ Lý lên. Can qua hết, thiên hạ thái bình”. Nói xong cụ biến mất. Ai nấy đều lấy làm sung sướng vì sắp thoát khỏi cảnh đầu rơi máu chảy hàng ngày do hôn quân tác ác. Vì vậy họ nô nức hát theo lũ trẻ, dường như cả chợ, dường như cả phố phường đều hát theo lũ trẻ. Chẳng mấy chốc, lời đồng dao bay khắp kinh thành cùng với tin Ngọa triều đã chết. Quan Tri khu mật viện Trần Cảo hấp tấp vào triều, bị cấm quân gạt lại, ông bèn rẽ vào nhà quan Thái bảo Đào Thạc Phụ bàn chuyện cơ mật. Hai ông trù liệu việc phò ấu chúa lên ngôi hay đi tìm chân chúa. Băn khoăn mãi Trần Cảo mở lời: - Sinh thời nhà vua tàn ác quá. Dân chúng cả nước còn oán giận sâu sắc lắm. Nay lại đưa ấu chúa lên ngôi, ắt loạn to. Đào Thạc Phụ hỏi lại: - Vậy theo ông thì tìm người ấy ở đâu bây giờ? - Ông có nghe trẻ hát đồng dao rồi chứ. Điềm trời đã chỉ ra như thế, tưởng không theo không được. - Ý ông muốn nói đến việc tôn Tả điện tiền đô chỉ huy phó sứ Lý Công Uẩn lên ngôi quân trưởng. - Phải! – Trần Cảo đáp gọn lỏn. Thế là hai ông liền nhóm họp các quan đầu triều để bố cáo lập vua mới. Đầu đuôi câu chuyện là như vậy. Cho nên khi thấy Lý Công Uẩn còn phân vân, Đào Cam Mộc đã đem ý mình đi tỏ bày, bàn thảo với những người tâm phúc. Ai cũng bảo việc nên làm. Hóa nên việc thành, công bày xếp của Đào Cam Mộc lớn lắm. Vì thế Lý Công Uẩn vừa gả con gái vừa phong tặng tước cho Đào Cam Mộc, phần là để đáp cái ơn tri ngộ, phần là để cố kết vây cánh. Nhưng trước hết nhà vua truy phong cho cha mình là Hiển Khánh vương, mẹ sinh là Minh Đức thái hậu. Lại phong cho anh của mình là Vũ Uy vương. Con của Vũ Uy vương là Lý Trưng Hiền được phong làm Thái uý. Hoàng thúc (chú vua) được phong là Vũ Đạo vương. Trần Cảo làm tướng công. Ngô Đinh làm Khu mật sứ. Đào Thạc Phụ có công xướng xuất việc phù lập nên vẫn được giữ chức Thái bảo. Đặng Văn Hiếu làm Thái phó. Phí Xa Lỗi làm Tả kim ngô. Vệ Trúc làm Hữu vũ vệ. Đặc biệt đưa Nguyễn Đê vào giữ chức Khu mật viện chánh chưởng. Hết thảy các quan triều trước đều được lưu dụng, phần đông được giữ nguyên chức cũ, bổng lộc phân chia theo thứ bậc khác nhau. Nhưng vì nước còn nghèo, kho tàng trống rỗng nên đặt ra bổng lộc cũng chỉ là sự hư đãi thôi. Và cùng một lúc nhà vua lập năm bà hoàng hậu. Hoàng hậu đích tức Lê hoàng hậu thì gọi là hoàng hậu lập giáo. Ngoài ra nhà vua còn cử viên ngoại lang Lương Nhậm Văn và Lê Khánh Tài, là những người có sức học rộng, lại biện bác giỏi sang sứ nước Tống để kết mối bang giao. Vua đích thân căn dặn hai vị sứ giả, và cho thêm vàng bạc để tiện việc dò tìm tin tức sâu nông, về mưu đồ của nhà Tống đối với nước ta, cùng các việc họ bài bố binh lực trên vùng biên ải hai nước. Tạm yên công việc triều chính, nhà vua bèn xa giá trở lại gia hương tại làng Dịch Bảng, châu Cổ Pháp. Dân chúng hoan hỉ đón chào vị vua mới là người làng mình. Từ các cụ già đầu tóc bạc phơ, vận quần áo đỏ, chống gậy trúc đến các trẻ nhỏ mới lẫm chẫm biết đi, đều ra khỏi làng tới hơn một dặm để cung nghinh. Họ đem theo tất cả các thứ cờ quạt, tàn lọng hiện có trong các đền chùa, và cả trống đồng cùng chiêng, mõ khiêng vác hàng dàn. Thỉnh thoảng các nhạc công lại dừng lại đánh bài nhã tụng thật là tưng bừng, khiến không khí làng quê sôi động hẳn lên chẳng khác gì ngày hội. Vua chẳng phải ai xa lạ, chính là chú tiểu tăng ba chục năm trước, theo hầu thiền sư Vạn Hạnh tại chùa Lục Tổ của hương ấp này. Sự thân tình gần gũi ấy khiến các bậc từ trung niên tới lão niên, không ai là không có đôi chút gọi là kỷ niệm hoặc hoài niệm về tuổi ấu thơ của nhà vua. Và rồi những lời đồng dao, những huyền thoại, những bí ẩn về thân thế đức vua vẫn ngấm ngầm truyền tụng từ mấy chục năm nay, bỗng oà vỡ như là một sự báo ứng, sự linh ứng của Trời Phật. Kiệu vua vừa tới, các bô lão, theo phong tục của hương ấp, đội ra dâng vua bảy mâm bánh giầy làm bằng gạo nếp thơm trắng phau. Nhà vua xuống kiệu, nâng các cụ đứng dậy. Và vua tự dìu cụ Mốc xóm Đông, là người cao tuổi nhất làng trở về ngôi miếu thờ thần. Sau khi tạ thần linh tại ngôi miếu cổ, vua thân vào chùa Lục Tổ tạ ơn Phật. Ai nấy đều ngơ ngác vì không thấy thiền sư Vạn Hạnh ra tiếp vua. Nhà chùa cho hay thiền sư mới vân du cách đây hai ngày, và ngài có dặn thế nào cũng diện kiến đức vua trong dịp nhà vua trở lại gia hương. Trước khi về thăm lại ngôi nhà nhỏ bé của mình, vua ban lộc cho các bô lão trong hương ấp. Trời vừa sẩm tối, cả hương Dịch Bảng bừng sáng như một đêm hội hoa đăng. Tiếng kèn, tiếng trống, tiếng đàn, tiếng phách sênh điểm nhịp cho các giọng hát cất cao, vang âm khắp các hang cùng ngõ hẻm. Các cụ già bảo nhau: Từ tiền cổ tới giờ làng Dịch Bảng chưa bao giờ vui như thế. Cũng từ tiền cổ tới giờ, dân Dịch Bảng chưa bao giờ được ân tứ vua ban rộng khắp như thế.