Q1 Chương 02.
Vừa xong khoá lễ đêm, thiền sư Vạn Hạnh thong dong bước ra sân chùa. Ông ngửa mặt nhìn bầu trời đầy sao, hít một hơi thật sâu vào trong lồng ngực rồi đi bách bộ. Đêm mùa xuân tĩnh mịch. Đâu đó tiếng nước suối tuôn róc rách. Xa xa tiếng nai gộ, tiếng mang tác, tiếng tắc kè từ vách núi sau chùa thả từng nhịp chắc nịch vào rừng đêm. Dưới ánh sao xanh mờ, thiền sư dừng bước trước cội thông già bên phiến đá to ước nửa chiếc chiếu trải giường, nằm khuất phía sau vườn chùa. Thiền sư cúi xuống rờ đôi bàn tay dăn deo với cả mười ngón khum khum trên phiến đá, như rờ một vật báu. Khí đá lạnh như một con hàn xà len lỏi khắp huyết quản ông. Nhà sư rùng mình ớn lạnh.
Vừa lúc chú tiểu Bảo khoác lên lưng thiền sư tấm áo kép, rồi chắp tay lễ phép thưa: - Bạch thầy, đêm lạnh, khí núi cây rừng lam chướng, con mời thầy vào nhà nghỉ. - Ờ, ờ, nhà sư già lơ đãng đáp. Dường như trong tâm não ông đang đeo đuổi nghĩ suy về một điều gì đó. Với phận sự kẻ bề dưới, tiểu Bảo lại nài nỉ: - Bạch thầy, con mời thầy vào tăng đường. - Thôi được, con để ta ở ngoài này một lát. Các việc ta khiến, con đã làm xong chưa? - Bạch, con đã làm đúng như thầy dạy. - Ta cho con về đi ngủ. Đêm nay ta có việc bận. Không dám trái ý thầy, tiểu Bảo ghé qua trai đường, xem lại các vật đã bày biện: Bộ đồ trà men ngọc, lau chùi sạch sẽ, đặt ngay ngắn giữa sập gụ trải chiếu trơn, mép viền vải nâu. Chiếc ấm giỏ sơn then. Hộp trà cúc làm bằng trúc đằng ngà lên màu sáng bóng. Chiếc siêu đất đổ đầy nước giếng mạch, đặt trên bếp lò chất than hoa có chêm củi nòm, chỉ việc châm lửa, một loáng là sôi. Chừng như chưa yên tâm, tiểu Bảo lại mở nắp đỉnh trầm xem đã bỏ đủ trầm chưa. Tiểu cũng không quên đảo mắt vào đĩa đèn, dầu đã rót đầy ắp. Bảy ngọn bấc mới tinh nằm quanh miệng đĩa, đều ngóc đầu lên như lũ tằm đói dâu. Tiểu Bảo tự nhủ: lát nữa thầy ta vào, chỉ ném một mẩu đóm là đỉnh trầm kia sẽ nghi ngút toả hương thơm. Lại huơ chiếc đóm lửa một vòng, bảy ngọn bấc kia sẽ biến thành bảy ngôi sao lung linh toả sáng. Đặt hộp đèn nhỏ xuống chiếc ghế đẩu, tiểu Bảo khép cửa lui về phòng tăng, lòng băn khoăn tự hỏi: “Mười năm hầu hạ thầy, ta chưa bao giờ thấy thầy tiếp khách đêm đượm vẻ trang nghiêm, huyền bí như thế này”. Chàng tự hẹn: “Nhất định ta phải thức để rình xem khách là bậc cao tăng nào mới hạ sơn”. Thiền sư Vạn Hạnh vén vạt áo cà sa tĩnh tọa trên phiến đá. Toàn thân nhà sư lạnh cóng như ngồi trên tảng băng. Sư toan vận khí cho cơ thể ấm nóng lên, nhưng ông đã không làm thế. Và từ đâu đó hiện về trong óc não thiền sư cảnh huống đã diễn ra cách đây đúng ba mươi sáu năm. Ờ, có nhẽ vào tháng hai năm Giáp Tuất (974), nay là tháng hai năm Canh Tuất (1010). Năm ấy Lý Công Uẩn chào đời. Ta đang ở chùa Lục Tổ hương Dịch Bảng, theo học Đạo với Thiền Ông đạo giả. Nghe nói ở hương Thái Bình có người đàn bà họ Phạm, đi cắt cỏ trâu phía sau chùa Tiêu này, gặp người thần giao cấu trên một phiến đá, sinh ra Công Uẩn. Công Uẩn được ba tuổi, Phạm thị đem đến nhờ sư Lý Khánh Văn chùa Kiến Sơ hương Phù Đổng nuôi giùm. Lại cũng nghe nói cha mẹ Công Uẩn là hai kẻ cùng làm công quả trong chùa, đầu mày cuối mắt lén vụng rồi có chửa nên phải ra khỏi chùa… Lại còn… Lại còn… Ôi thế gian thật là nhiễu sự. Sinh hoá là chuyện thường hằng. Cũng may mà ta mang họ Nguyễn, nếu không việc ta nuôi dạy Công Uẩn đời lại chẳng ngờ ta cũng là cha nó không chừng. Sự thực, ta với Công Uẩn chỉ là một sự túc duyên. Lại như chuyện nhà chùa đón nhận một đứa trẻ do thế gian trao gửi, là việc làm hết đỗi bình thường nơi cửa Phật. Huống hồ Khánh Văn vốn là một người đạo hạnh, thì chẳng thể nào chối bỏ một sinh linh. Việc như thế, chẳng cần phải so đo tính toán đối với một bậc chân tu. Thế nhưng miệng tiếng thế gian lại chẳng thế nào mà che bịt được. Vì vậy khắp vùng này, người ta đồn ầm lên rằng, đứa bé ấy chính là con đẻ của Khánh Văn. Và người ta đặt vè giễu nhạo: Con ai đem bỏ chùa này? A-di-đà Phật, con thầy thầy nuôi! Ta biết, sớm muộn rồi đứa bé cũng tìm được cha nó. Nhưng dù có tìm được hay không, người đời vẫn thiên về những điều rắc rối. Và vì thế lịch sử sẽ lao theo những dấu vết mù mờ, rồi để lại cho hậu thế một mối tơ vò rối, nối đời không thể dò tìm. Từ ngày Khánh Văn ký thác Công Uẩn cho ta, trong mấy chục năm liền, ta đã bỏ không biết bao nhiêu tâm lực và sức lực trong việc giáo hoá cũng như khai mở tâm tuệ cho Công Uẩn, để Công Uẩn trở thành đấng bậc chăn dân. Nói cho đúng thì Khánh Văn đã trao cho ta trách phận bảo trọng một vật báu quốc gia. Nếu quả như nhời đồn thì nhà vua đã được hoài thai trên phiến đá này. Hoá nên phải coi phiến đá này như vật báu truyền gia của dòng họ Lý. Thì Công Uẩn đã chẳng mang họ Lý là gì. Thiền sư lấy ngón tay trỏ miết nhẹ lên trên mặt phiến đá bốn chữ mà ông thầm đọc ở trong đầu: “LÝ GIA LINH THẠCH”[9]. Hàng chữ ấy lõm xuống như người ta dùng đục tạc vào đá. Đây cũng là một sự kỳ lạ nữa! Thiền sư đứng dậy đi vòng về phía nhà tăng, thấy vẳng ra tiếng ngáy từ trong phòng tiểu Bảo. Sư nói nhỏ: “Này con, tâm con còn vọng động nhiều lắm”. Thiền sư nói nhỏ, nhưng nội lực của ngài thâm hậu, nên tiếng nói của ngài như tiếng chuông rót từng lời vào tai tiểu Bảo. Chàng giật mình kinh sợ, bàng hoàng thụp lạy theo tiếng vọng của bước chân thiền sư: “Lạy thầy, đệ tử trót dại, xin thầy đại xá”. Tiểu Bảo vẫn nghe người đời đồn đại, cách đây chừng ba chục năm, thiền sư đã giúp hoàng đế Lê Hoàn được nhiều việc quốc gia trọng đại. Như việc phá Tống, bình Chiêm. Năm ấy khi quân Tống sắp tràn sang, hoàng đế Lê Hoàn vời thiền sư đến hỏi sự thể cuộc chiến sẽ ra sao. Thầy ta đáp: “Chỉ trong bảy tám ngày là nhà vua phá xong giặc”. Quả nhiên khi quân Tống vào cõi, vua tự mình ra trận, giết chết Hầu Nhân Bảo trên ải lũy Chi Lăng. Bắt tướng giặc là Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân, đem về Hoa Lư cầm tù; đuổi lũ Tôn Toàn Hưng chạy như vịt trên sông Bạch Đằng, khiến vua tôi nhà Tống run sợ phải chấp nhận nền tự chủ của nước Nam. Lại như khi vua toan khởi binh chinh phạt Chiêm Thành liền vấn kế thiền sư. Thầy ta lại nói: “Thời cơ đang thuận, tiến binh gấp thì thắng, để lâu ắt bất lợi”. Quả nhiên các việc diễn ra đều đúng như sư nói. Vì vậy nhà vua sùng kính sư như bậc thầy. Khắp dân gian đều tôn sư như một bậc tiên tri đại giác. Chính vì vậy mà trong giới đạo sĩ[10] có người tên gọi Đỗ Ngân đem lòng ghen ghét, toan ám hại sư. Dù âm mưu chưa hiển lộ, nhưng thiền sư tiên tri biết được, bèn gửi đến tặng người đó một bài thơ tứ tuyệt: Thổ mộc sinh ra cấn cạnh câm (kim) Thù ta toan định sẵn mưu ngầm Tăng này biết chuyện lòng buồn dứt Cả đến mai sau chẳng oán thầm.[11] Nhận được bài thơ, Đỗ Ngân giật mình run sợ, cho thiền sư là bậc chân nhân; tự hổ thẹn mà bỏ lòng ác. Đến đây, tiểu Bảo thừa nhận lời đồn đó là có thực. Xét như bản thân chàng, ý nghĩ tò mò vừa chợt nảy ở trong đầu, mới cách đây chừng một khắc; và tiếng ngáy vờ kia tưởng có thể lừa được sư phụ. Ai ngờ thầy biết hết cả những việc thầm kín trong não tâm ta.
Lại nói, vua Thuận Thiên[12] về thăm gia hương, làm lễ bái tạ tổ tiên và yên ủi dân hương ấp xong, xa giá định quay về động Hoa Lư thì trời nổi sấm chớp, mây đen che kín bầu trời. Mới tháng hai mà đã có sấm, nhà vua lấy làm lạ, bèn khấn: “Tôi là người kém đức, bất tài gặp lúc giang sơn chao đảo, quần thần tôn phò lên đứng đầu trăm họ, chưa kịp canh cải xã tắc. Không biết đã phạm lỗi lầm gì mà Trời ra oai trách giận. Nếu như chỉ là việc tuần hoàn âm dương thì xin Hoàng thiên xua tan mây mù, tôi xin ở lại qua đêm nơi thôn ổ. Nhược bằng có tội, không xứng đức ở ngôi, xin trời trừng phạt, tôi không dám hối trách”. Lạ thay, khi nhà vua vừa dứt lời khấn thì có cơn gió mạnh ập đến cuốn hết mây mù, bầu trời lại lộ ra trong xanh như không hề có chuyện cơn cớ, sấm chớp. Nhà vua tự hỏi: “Trời thương ta chăng?”, “Trời răn ta chăng?”. Tối đến, nhà vua đi ngủ. Quân cận vệ canh phòng nghiêm cẩn, tưởng một cánh chim bay cũng khó lọt. Bỗng cuối giờ hợi, nhà vua giật mình choàng tỉnh, đeo gươm xốc áo ra đi như một kẻ mộng du. Quân canh bốn mặt mà không một ai hay biết. Vua đi một mạch đến chùa Ứng Thiên Tâm, tức Tiêu Sơn tự. Đức vua xộc thẳng vào nhà khách tăng đẩy cánh cửa khép hờ, thấy thiền sư Vạn Hạnh đang tĩnh tọa giữa thiền sàng. Đĩa đèn rực sáng. Hương trầm ngào ngạt. Tiếng siêu nước đang réo sôi o o. Thiền sư vừa ngoái đầu lại, đúng lúc nhà vua sụp lạy: - Bạch thầy, con về vấn an thầy. Thiền sư Vạn Hạnh vội đỡ nhà vua và mời ngồi, rồi ông đứng chắp tay vái: - Sự thể đã đổi thay, nhà vua là bậc thiên tử, đứng đầu trăm họ, bần tăng có lời mừng. Lý Công Uẩn liền đứng bật dậy, dìu thiền sư ngồi vào thiền sàng. Nhà vua cởi bỏ thanh bảo kiếm dựng nơi góc cột rồi nói: - Sư phụ cứ coi con như một đứa tiểu tăng hồi tấm bé, theo hầu thầy nơi chùa Lục Tổ. Nay con về vấn an sư phụ, để bày tỏ lòng con biết ơn thầy đã dạy dỗ, và tạo nghiệp quả cho con ra gánh vác việc đời. Thiền sư mỉm cười. Người giơ ngón tay trỏ lên khua khua, như ra hiệu cho nhà vua không nói nữa, phòng có kẻ rình mò nghe ngóng. Thiền sư định nhãn phát ra một luồng ánh sáng soi tỏ gương mặt nhà vua. Rồi hai thầy trò im lặng đi vào cuộc nhãn tâm đàm. Nhà vua như nghe được từ ánh mắt thiền sư: - Ta đã biết hết các việc vừa xảy ra tại Hoa Lư và đã báo cho các vị huynh đệ, thúc bá của nhà vua đầy đủ cả rồi. Nhà vua tỏ lòng khâm phục tài tiên tri của sư, bèn đưa mắt hỏi: - Bạch sư phụ, các việc cần kíp phải làm lúc này là gì? Thầy Vạn Hạnh phát nhãn quang đáp: - Làm ngược lại tất cả những gì ác vương Lê Long Đĩnh đã làm. Trước hết phải cứu lấy đám lê dân đang ngắc ngoải vì đói. Nhà vua toan hỏi thiền sư về việc có nên dời đô vào lúc này, việc mở mang xây cất chùa chiền, hoằng dương Phật pháp cùng các việc canh cải xã hội, nhưng chưa kịp phóng nhãn tâm thì sư vụt đứng dậy xách siêu nước sôi vào pha trà. Đưa mời nhà vua ly trà cúc, thiền sư nói như một sự tình cờ: - Các việc nhà vua đã có chủ tâm, chủ kiến phải được khai triển sớm chừng nào hay chừng đó. Nhà vua nên nhớ, làm việc thiện, việc đem lại lợi ích cho dân bao nhiêu vẫn cứ là ít, huống hồ bệ hạ mới chân ướt chân ráo vào triều. Ta già rồi không giúp gì được nữa đâu. Vả lại nhà vua đủ sức lực và trí tuệ gánh vác việc nước. Ta chỉ lưu ý nhà vua vài việc nhỏ: - Lo cho dân được đủ ăn, đủ mặc. - Lo cho việc binh đủ mạnh để giữ gìn quốc thổ, bảo đảm sự yên bình cho dân, cho nước. - Lo mở mang sự học, khai trí cho dân. - Lo khuyến thiện nhưng chớ quên trừ ác. - Lo cho Phật sự phát khởi để nuôi dưỡng nguồn tâm và chăm sóc tâm linh cho bách tính. - Thiên đô cũng là việc cấp bách đó. Muốn cho dân chúng được hưởng ân huệ này thì mỗi hương ấp phải có một ngôi chùa. Dân nước còn nghèo, chớ ham xây cất chùa lớn, chuông to khiến dân phải oằn lưng đóng góp mà oán Phật. Chỉ cần một mái tranh úp trên bốn bức tường đất với pho tượng Phật vừa phải để có nơi chốn cho người dân gửi gắm niềm tin. Điều đáng nói là phải được vị chân tu dẫn dắt. Mỗi vị tăng trụ trì ngoài chức năng tu hành và dẫn dắt tâm linh, còn phải là một thầy giáo dạy chữ cho con em trong hương ấp và giáo hoá cho dân về nội điển, khai phóng cho dân về đường trí tuệ. Nếu để dân chỉ biết cúi đầu lễ bái mà không hiểu gì về giáo lý Phật, về giác ngộ, giải thoát khiến mọi người sa vào u minh thì đó là con đường trị nước của những kẻ bạo chúa, cốt ở sự ngu dân. Sư Vạn Hạnh ngừng lời, dường như ngài còn muốn nói thêm một điều gì. Nhà vua vẫn im lặng lắng nghe, ghi tâm khắc cốt từng lời sư nói. Một lát, thiền sư lại tiếp: - Đa Bảo thiền sư là một bậc cao tăng, đạo cao, đức trọng, nhà vua nên thỉnh ngài làm quốc sư mà vấn kế. Nên nhớ, nhà vua xuất thân từ cửa Phật, gắng đưa quốc gia trở thành quốc độ Phật. Thiền sư im lặng, ló nhìn vào trời đêm, lát sau sư lại chậm rãi: - Mọi việc đều thuận cả. Nhà vua về đi kẻo trời sắp sáng rồi. Sư vừa dứt lời, con trống mã mật ngoài chuồng đã cất tiếng gáy vang. Rồi cả lũ gà nhà, gà rừng cùng cất cao tiếng gáy, làm vang âm cả một vùng núi rừng khe động. Tiếng gà gáy như thôi thúc nhà vua mau nhịp bước chân trở về hương Dịch Bảng. Qua các việc xảy ra từ mấy chục năm nay, Lý Công Uẩn băn khoăn tự hỏi: “Chẳng nhẽ thầy ta đã quán thông thiên địa đến bực này ư?”. Nhà vua nghiệm thấy trăm việc, việc gì thiền sư cũng tiên liệu được cả. Mấy năm nay thiên hạ đồn ầm lên về lời sấm vĩ mà trẻ nhỏ hát đồng dao. Sấm ấy, chẳng phải từ nơi thầy ta sao? Sự việc sớm tỏ lộ, có kẻ tố giác, chính ta đã khuyên thầy về lánh trụ tại chùa Tiêu Sơn là một ngôi chùa tĩnh mịch, nằm khuất lấp tận rừng sâu. Lại gần đây, khi Lê Ngọa triều vừa mất, triều đình đang phân tâm, ta đã thấy có lời sấm vĩ chiêu an bá tính qua lời trẻ hát đồng dao khắp các phố, chợ kinh thành[13]. Lời chiêu an này không phải của thầy ta còn của ai nữa. Lời chiêu như lời hịch, cuốn hút các bậc khanh, sĩ đến thứ dân quy về họ Lý. Vì vậy mới có việc tôn ta lên ngôi hoàng đế. Vậy là dạy dỗ ta nên người, không ai ngoài thiền sư Vạn Hạnh. Lại tạo lập ra triều đại mới này cũng vẫn là Vạn Hạnh thiền sư. Phải chăng Trời Phật đã sai ông bày xếp. Nam mô A-di-đà… Nhà vua kêu hồng danh đức Phật. Rồi ngài bước thẳng vào nhà hậu đường mà đám quân canh phòng vẫn không hay biết.