Q1 Chương 21.
Cầm chén trà trong lòng tay phảng phất mùi thơm, vua Thuận Thiên khẽ nhấp. Nước trà nóng, mùi hương mộc cùng lúc ùa vào khiến nhà vua có cảm giác nhẹ nhàng thanh khiết. Uống thêm một ngụm nữa, vị trà đọng nơi cổ họng và cứ tan dần mùi hương vào tận sâu các huyết mạch, khiến nhà vua thấy đầu óc thông sáng hẳn ra. Đâu đó tiếng gà gáy dồn, tiếng vít chè đánh thức trẻ dậy học bài, lại vẳng đâu đó tiếng chim cu gáy sớm. Nhà vua nhớ lại cảnh hồi nhỏ, có nhẽ còn sớm hơn giờ này, ta đã phải dậy thay nước, thắp đèn nhang rồi vào khoá lễ. Ngoài trời sương giăng mờ, chỉ loáng thoáng thấy nóc các ngôi điện Càn Nguyên, điện Tập Hiền… Còn cây cối chỉ là những lùm sâm sẫm đùng đục màu sương.
Đâu đó tiếng chuông, tiếng mõ và cả tiếng cầu kinh đều đều của khoá lễ sớm. Để ý nghe kỹ, nhà vua biết Tá quốc hoàng hậu đang niệm kinh trong điện thờ Phật phía tây cung Quỳnh Hoa. Nghe tiếng mõ và tiếng chuông điểm, vua biết hậu đang niệm chú “Thủ Lăng Nghiêm”. Chuông mõ đã thành thạo, niệm kinh ắt trôi chảy. Nhưng liệu hậu có hiểu được lời kinh dạy. Và quan trọng là có làm được những điều mà Phật đã giáo hoá trong kinh văn. Tiếng chuông mõ ngừng bặt. Một lát sau hậu đã kịp trang điểm và ra hầu trà nhà vua. Hậu sai đám nô tì đi súc lại ấm chén, rồi mang hẳn bếp lò than lại gần kỷ để hậu tự tay chế trà hầu nhà vua. Nom hậu tráng ấm chén bằng nước sôi, và nâng lên đặt xuống những chiếc chén quý cứ thoăn thoắt như người múa, và chính xác như người thợ mộc lấy mực thước khi đóng đồ vậy. Vua khen: - Nàng quả là khéo tay. - Đội ơn bệ hạ khen. Hai tay hậu dâng khay trà mời vua. - Nàng cứ đặt khay xuống. Ta ban cho nàng một chung, uống đi. Vua bê lấy chung trà và trỏ vào chung kia mời hậu. Thấy nhà vua vui vẻ, hậu bèn nâng lấy chung trà, khép nép ngồi bên mép ghế, và nói: - Tạ ơn bệ hạ. Thần thiếp kính mời bệ hạ thưởng trà. Vua Thuận Thiên vừa mở nắp chung trà, mùi hương mộc, lại vẫn là mùi hương mộc, toả theo làn khói nước mảnh mai. Một mùi thơm quen thuộc dường như đã ngấm sâu vào cả tâm, can, tì, phế của nhà vua từ thuở niên thiếu, theo học thầy Vạn Hạnh nơi chùa Lục Tổ. Nhà vua nhớ, quanh chùa, nơi các cửa vào ra lên xuống, thường trồng ngâu, trồng mộc. Ngoài vườn thầy còn cho trồng cả hoa sói nữa. Đây là những loài hoa có hương thơm tĩnh lặng. Nhưng mỗi thứ mỗi vẻ. Hoa ngâu hương trầm sâu. Hoa sói, hương lại hơi gắt. Hoa mộc, mùi thơm dịu ngọt, thi thoảng như chợt có chợt không. Cả ba loài hoa này, thầy ta đều dùng được. Song người ưa nhất vẫn là hương hoa mộc. Vì vậy, thầy cho trồng tới cả chục cây mộc quanh chùa. Khi hoa mộc nở, đi khắp vườn chùa, chỗ nào cũng sực nức hương thơm. Nhất những ngày oi nồng, đi làm đồng về nóng bức, vừa bước chân vào cổng chùa, đã có ngay cảm giác mát lạnh bởi mùi thơm hương mộc. Cũng lạ, các loài hoa khác như sen, như lài ướp trà, khi uống chỉ thấy mùi thơm nồng nàn của lài, của sen mà mất hẳn mùi trà. Trái lại ngâu, sói, mộc mà ướp trà, khi uống vẫn phân biệt được hương của hoa và vị của trà. Chúng tựa như những bậc phong lưu tao nhã, giao du kết bạn với ai, vẫn giữ một khoảng cách phân biệt chủ khách rạch ròi chứ không bao giờ chơi trò khách lấn chủ. Bởi vậy thầy ta gọi các loài sói, mộc, ngâu là thiền tự chi hoa. Nhà vua đã uống xong chung trà, chiếc chén vẫn nằm gọn trong lòng tay, nhưng tâm trí ngài để mãi đâu đâu. - Xin bệ hạ cho thần thiếp rót hầu bệ hạ một chung trà nữa. Vua Thuận Thiên chợt ngửng lên đưa chiếc chén cho hậu rót nước. Nhận lại chén nước, vua nói: - Sớm nay có nhẽ sau buổi thiết triều ta phải sang cung Vũ Đức vương. Mắt hậu vụt sáng, nàng quỳ trước nhà vua. - Tạ ơn hoàng thượng đã lưu tâm đến mẹ con thần thiếp. - Đứng dậy đi. Đã là vợ chồng mà nàng cứ thủ lễ một cách thái quá. Ta thấy nó cứ thế nào ấy. - Đội ơn bệ hạ, thần thiếp được các ông trung quan răn dạy kỹ lắm về lễ nghi, phép tắc. “Ngay cả khi được hoàng thượng sủng ái, kể cả trong chốn buồng the, vẫn phải giữ lễ vua tôi chứ không được sàm sỡ mà phạm vào trọng tội”. Các quan thường răn dạy thiếp như vậy, sao thiếp dám lơ là. - Ai dạy nàng? Lão móm hay thằng Phùng. - Dạ, cả hai người ấy, một già một trẻ đều nói giống nhau. - Phải. Phép tắc là thế. Nhưng khi chỉ có ta với nàng, ta châm chước, không bắt bẻ. Nàng phải nhớ, sự chung chạ là ở nơi mức độ chứ không phải nơi lễ độ. - Dạ, thiếp xin lĩnh ý bệ hạ. Nhà vua đã toan đứng dậy, lại ngồi xuống âu yếm vỗ vai hậu, và hỏi: - Từ ngày nàng vào cung tới nay thoắt đã gần hai chục năm, ta chưa thấy nàng xin ta một điều gì. Vậy chớ trong chỗ họ hàng, bà con, không có ai cậy nhờ gì nàng sao? - Đội ơn bệ hạ đoái đến thần thiếp. Ngay cả điều ấy, thiếp cũng được các quan răn dạy: “Triều đình đã có chính sách với người thân như cha mẹ, anh em của các hậu, các phi, tần. Lộc vua đã ban khắp, từ ruộng đất đến tước trật cũng như việc tha tô, thuế, tha phu phen, tạp dịch. Ngoài ra ai có tài tâu lên, làm được việc gì, xứng chức nào, cho giữ chức đó”. Dạ, mọi chính lệnh của bệ hạ đã rõ ràng, thiếp không có điều gì khúc mắc cả. - Riêng phần nàng và Vũ Đức vương, nàng có điều gì muốn nói? - Tâu bệ hạ, thần thiếp được như thế này cũng là nhờ trọng ân của bệ hạ, thần thiếp không dám cầu mong điều gì hơn nữa. Chỉ xin bệ hạ rủ lòng thương đến Vũ Đức vương. Hoàng tử tính tình bồng bột, xốc nổi lại ham việc cung kiếm hơn là việc thi thư. Thiếp chỉ lo khi con lớn lên đầu óc sẽ thiên lệch. - Muốn con không thiên lệch thì mẹ phải trung chính. Muốn con thiện thì mẹ phải nhân. Nàng có biết vì sao ta cho treo ở đây hai chữ “ĐOAN CHÍNH” không? Vừa nói vua vừa chỉ vào bức đại tự. Đoan là đoan trang, ấy là cái nết mà người đàn bà phải theo. Chính là trung chính, là ngay thẳng, thật thà. Mẹ con nàng theo được hai chữ này ắt là có phận. Còn trong điện Phật, ngay trước chỗ ngồi niệm kinh, ta đã cho treo một chữ TÂM. Bởi tu Phật cốt ở tu tâm. Tâm là cái thần minh cao cả của con người, nhờ nó ta mới cảm ứng được với vạn vật, nó cũng là cái gốc của cõi thiện, cái gốc của lòng từ ái. Người thường nếu tu được tới chỗ định tâm, lo gì không có phúc. Ấy thế mà nàng lại cứ hay lơ là, vọng động. Ta không cần biết nàng vọng động cái gì, chỉ nghe tiếng chuông, tiếng mõ của nàng cũng biết trong lòng nàng đang có điều gì bấn rối. Lại nữa hôm qua, ta tới bất chợt, nàng vội vã ra đón, đội nhầm mũ của con, rồi nàng lại biến báo, làm cứ như Vũ Đức vương là đứa con chí hiếu. Vua dừng lại ngắm nhìn hậu, rồi nói tiếp: – Vậy những điều ta nói có đúng, hay là ta lấy quyền uy mà áp đặt cho nàng. Nghe vua nói, gương mặt hậu cứ tái xanh tái mét. Đoạn nàng quỳ lạy: - Xin đại vương tha tội! Xin đại vương tha tội, thần thiếp vì ngu muội mà trót dại. - Đứng dậy đi, nàng không có tội, chỉ một chút lỗi nhỏ thôi. Chịu khó đổi lỗi, chịu khó dưỡng tâm, nàng vẫn là người tốt. Nàng nên biết, con người ta ở đời đâu phải là các bậc thánh. Cho nên sai điều này, phạm điều kia, thật khó tránh. Vậy cái quan yếu nhất là phải thành tâm đổi lỗi, để rồi không mắc vào các lỗi lầm đã mắc, để lại phải ân hận. Ta không trách người có lỗi. Ta chỉ trách người không chịu sửa lỗi. Và nếu như kẻ nào hai ba lần phạm cùng một lỗi thì đó chính là kẻ xảo trá, kẻ đê tiện, đáng ghê tởm, phải trị tội nặng gấp hai ba lần. Ngừng một lát, vua lại nói: - Thôi ta phải vào triều, nàng nhớ các điều ta dặn chưa? - Tâu bệ hạ, thần thiếp nguyện ghi nhớ nằm lòng. Đội ơn bệ hạ đã gia ân. Ra khỏi cung Quỳnh Hoa, vua Thuận Thiên không vào thiết triều nữa mà sai kiệu đi thẳng ra ngoài thành để vào phủ của Vũ Đức vương. Thấy kiệu nhà vua tới, mấy đứa quân hầu phủ phục lạy. Có đứa nhanh chân, chạy vào trong phủ bẩm với quan sư phó: - Trình quan, bệ hạ giá lâm. Quan sư phó cùng mấy viên thư lại đang ngồi uống trà, bình văn, vội bỏ tất cả chạy ra sân đón vua. Vua Thuận Thiên xuống kiệu chào đáp lễ quan sư phó, rồi cùng vào trong nhà học của hoàng tử. Quan sư phó vòng tay vái vua rồi thưa: - Tâu bệ hạ, bữa nay hoàng tử ra bãi tập. - Tập gì vậy? – Vua hỏi. - Tâu bệ hạ, hoàng tử tập phi ngựa bắn cung. Tập đánh phục kích và đánh phản phục kích. Hoàng tử rất siêng năng rèn tập. Nếu nhìn thấy hoàng tử nơi bãi tập, hẳn bệ hạ phải đẹp lòng lắm. - Vậy thì đi xem con ta tập tành. – Vua Thuận Thiên làm một cái khoát tay. Mọi người theo vua ra bãi tập. Một chàng thiếu niên mảnh dẻ, gọn gàng trong bộ võ phục màu tía, đầu đội mũ đâu mâu bằng da dê, đuôi mũ phủ trùm gáy, chân đi đôi hia màu đen cao tới nửa bắp chân, ống quần tém gọn trong hia. Chàng cỡi con ngựa tía, lưng đeo một cây cung và một giỏ tên, đang phóng như bay quanh trường bắn. Vó ngựa cứ soải dài, hai chân trước vừa chạm đất, hai vó sau đã hất bổng lên không. Thiếu niên cúi rạp mình trên lưng ngựa, nhưng luôn đánh mặt về phía tấm bia. Biển bia màu trắng, vẽ mười vòng tròn đen. Vòng nhỏ nhất ở trong cùng, điểm màu son đỏ rực như màu máu. Thiếu niên cứ vừa phi ngựa vừa ước lượng khoảng cách và hồng tâm, bỗng tới cái vạch thứ nhất của vòng quy ước, chàng buông cương, một tay với qua vai, rút được một mũi tên từ trong giỏ cùng lúc chàng hẩy nhẹ vai phải, chiếc cung đã nằm gọn trong bàn tay trái. Và bằng một cử chỉ rất nhẹ, chàng lắp tên, ta chỉ nghe tách một cái, đã thấy mũi tên cắm phập vào mặt bia. Vừa lúc con ngựa đã dừng phắt lại trước vạch trắng thứ hai. Đó là khoảng cách đúng một trăm năm mươi bước chân. Một tấm biển nhỏ từ dưới hố gần xế cột bia giương cao chữ “thất”. Điều đó có nghĩa là cung thủ vừa bắn trúng vòng thứ bảy. Cũng tức là được bảy điểm. Chàng lại tiếp tục nắm lấy cương ngựa và làm y hệt lần trước. Kết quả là mũi tên lần thứ hai cũng xuyên trúng vòng số bảy nhưng ở phía đối xứng với mũi tên bắn lần trước. Thiếu niên lại nắm lấy dây cương, chàng cúi rạp mình trên lưng ngựa, lấy tay vỗ nhẹ vào cổ nó và nói điều gì, chắc chỉ có con ngựa tía kia mới hiểu được. Bỗng con ngựa dựng đứng hai chân sau rồi nó lao vào con đường vòng, khiến mọi người loá mắt, không còn ai nhìn rõ người và ngựa nữa, chỉ thấy một vật vút dài như cái đuôi sao chổi. Kết thúc vòng thứ ba, con ngựa dừng tắp lự trước vạch cự ly, cùng lúc mũi tên đã cắm phập vào hồng tâm. Mấy đô quân cùng các tướng đang ngồi xem như bị thôi miên, bỗng oà lên một tiếng reo vang: “Thần tiễn!”, “Thần tiễn!”. Và rồi họ reo hò chúc mừng chàng hoàng tử, nghe ầm ầm như muốn sập cả quân trường. Tới lúc này, Vũ Đức vương vẫn chưa biết có vua cha ghé thăm. Chàng thả lỏng tay cương đi về phía các võ sư đã dạy chàng. Vũ Đức vương xuống ngựa, cúi đầu sát đất, chào các bậc sư phụ. Chợt có người rẽ đám đông cúi chào chàng và nói hối hả: - Trình vương, có hoàng thượng tới thăm, ngài đang đứng phía cửa đông. Vũ Đức vương cùng các vị sư phó và cả đám quan quân chạy nháo nhác về phía nhà vua, quỳ lạy. Vua Thuận Thiên tươi cười nói: - Ta miễn lễ! Đứng dậy cả đi. Nhà vua đích thân nắm tay Vũ Đức vương kéo chàng đứng dậy. – Khá khen, con đã trở thành một cung thủ thiện xạ. Chẳng hay thầy của con là ai vậy? Vũ Đức vương chỉ vào hai vị võ sư: - Trình phụ hoàng, thầy võ này là Nguyễn Nguyên Thủ, vốn là đô trưởng đô Tuỳ long. Nhà vua gật đầu, vỗ nhẹ vào vai vị võ sư nói: – Ta biết khanh từ cuộc thi tài cung thủ từ hồi còn ở đất Trường Yên. Có phải tên cũ của khanh là Nguyễn Đạt Tài? - Tâu bệ hạ đúng ạ. Trong lòng vị võ sư vừa mừng vừa lo. Mừng vì vua còn nhớ rành rõ mình từ thuở còn là một tên tiểu tốt vô danh. Chỉ vì trong cuộc thi tuyển ba kỳ lấy cung thủ thiện xạ sung vào đội quân Tuỳ long để hộ giá, ta đều đỗ đầu. Vua liền hỏi tên họ quê quán. Nghe xong, vua phán: “Vậy là ngươi đã “đạt tài” rồi. Nay ta cho ngươi cái tên khác để chứng tỏ tài thần tiễn của ngươi; thay vì Nguyễn Đạt Tài, từ nay tên ngươi là: Nguyễn Nguyên Thủ”. Còn lo là bởi hoàng tử ham mải kiếm cung thái quá, nên có phần xao nhãng học hành chữ nghĩa. Việc này, nếu các ông sư phó hặc tâu, ắt ta mang trọng tội. Hơn nữa, sức hoàng tử quả có hơi mảnh. Nhưng ý chí lại rất cương cường. - Tốt lắm! Gắng hầu hạ hoàng tử cho nghiêm cẩn, ta sẽ có thưởng. – Thế còn vị này, vua Thuận Thiên chỉ tay vào người đứng sau võ sư Nguyễn Nguyên Thủ. Mặt ông ta ngây ra như không hiểu hoàng thượng hỏi gì. Vua sinh nghi, hỏi hoàng tử: - Vũ Đức, người này ở đâu tới dạy con? Vua Thuận Thiên lim dim mắt, tay vỗ vỗ nơi vầng trán rộng như cố nhớ lại một điều gì. Chợt ngài ngửng phắt đầu lên, với vẻ quả quyết, ngài hỏi: - Có phải người này là bộ tướng của Dương Trường Huệ người man Tống, bị ta bắt cầm tù từ năm Giáp Dần (1014). Sao y lại ở đây dạy con? Hoàng tử mặt biến sắc, quỳ tâu: - Lạy phụ hoàng tha tội. Chỉ vì con nghe lời phụ hoàng răn dạy: – Phải thông hiểu kinh sách. Lại phải giỏi việc quân. Mưu lược không chưa đủ, phải giỏi cả đường cung kiếm. Về cung, con đã có vị đô trưởng đây rèn dạy. Còn về kiếm, quả chưa có bậc cao thủ nào chỉ dẫn. Một bữa con ghé thăm trại tù binh, thấy người này cầm thanh củi múa trước các bạn tù. Nom các đường kiếm của ông ta uyển chuyển, mềm mại như hoa rơi tuyết rụng. Con ngỏ ý với viên giám ngục mượn người này một thời gian. Thoạt đầu y bảo nguy hiểm lắm. Nếu họ trở mặt thì sinh mệnh hoàng tử, tôi không thể lấy đầu ra bảo đảm được. Một lát sau, ngẫm nghĩ thế nào, viên giám ngục ghé tai căn dặn người này điều gì rồi y bảo con: thôi được, thần cho hoàng tử mượn y sáu tháng. Thần sẽ cho người giám sát y. Nhà vua có vẻ đăm chiêu suy ngẫm, hết nhìn vẻ sợ hãi của hoàng tử lại nhìn gương mặt người tù binh. “Tam đình, ngũ nhạc nở nang, cân đối, mắt sáng, tai to… Nếu ta thu dụng, người này có thể trở thành tướng tâm phúc”. Nghĩ vậy, vua Thuận Thiên quay lại hỏi con: - Vậy chớ đường kiếm thuật, con hấp thu được đến đâu rồi? – Ông ta có thực tâm truyền dạy cho con ta không? Nhà vua chợt hỏi Nguyễn Nguyên Thủ. - Tâu bệ hạ, hoàng tử… Nguyễn Nguyên Thủ nói ấp úng – quả thật thần không biết nói thế nào cả. Chính bệ hạ đã thấy tài thần tiễn của hoàng tử rồi. Còn về đường kiếm thuật, cũng chỉ mới học được vài bữa; nhưng hoàng tử đã sớm tỏ lộ một tay kiếm bạt quần. Thần chỉ tiếc, sức hoàng tử hơi mảnh. - Thôi được, ta hỏi ngươi nếu ta dùng người này làm tướng dưới trướng của con ta có được không, có sợ y manh tâm phản phúc không? Ngươi có giám sát được y không? - Tâu bệ hạ, để chắc chắn, bệ hạ nên sai bên khu mật viện và ty phản gián tra xét lai lịch y cho rõ ràng, rồi sau đó bệ hạ giao y cho thần quản lãnh, chắc là được. Tâu bệ hạ, có một điều thần rất băn khoăn, nhưng không thể không trình lên bệ hạ xem xét. Dạ, thần băn khoăn chỉ vì y là một tay kiếm siêu việt, nếu bệ hạ không thu phục y, thì nên giết đi, chớ không nên thả y về lại đất Tống. Vua Thuận Thiên cho những lời tâu của Nguyễn Nguyên Thủ là chuẩn xác. Nhà vua cho gọi người tù binh tới, ngài bảo viên thông ngôn: - Ngươi hỏi xem ông ta có phải người Hán không? Được vua hỏi, viên hàng tướng quỳ lạy, và nói: - Tâu bệ hạ, thần là Lưu Hoằng Định, tự Đích Nhân gốc người Hán, quê Sơn Đông, xưa là nước Lỗ. Nhà thần nhiều đời làm tướng. Cha thần từng giữ chức đô thống, coi thiết đột quân tước Dĩnh xuyên hầu. Dạ, muôn tâu, thần được người cha là bậc trí huệ, nên cho con cái học hành khá chu đáo. Thần được đi học từ thuở sáu, bảy tuổi, thi vào tới tam trường thì vua xuống chiếu: “Cấm con cái các nhà xuất thân nghiệp võ không được vào thi hội”. Thần phải trở về học tại giảng võ điện. Và đã đậu tạo sĩ khoa thi năm Kỷ Dậu, liệt ưu hạng. Nghe viên hàng tướng kể trôi chảy một cách đáng ngờ, nhà vua muốn tự mình thẩm định nhân cách và tài năng của y, trước khi y được phép dạy hoàng tử. Nghĩ vậy, vua liền bảo Nguyễn Nguyên Thủ: - Khanh dẫn y về phủ Vũ Đức vương để ta hỏi chuyện. Phân ngôi chủ khách xong, vua cho gọi cả hoàng tử và mấy ông sư phó cùng vào nghe. Nhà vua hỏi: - Sau khi thi đỗ, ngươi có được bổ dụng ngay không? - Tâu bệ hạ, vì thần là con nhà dòng dõi, nên sau khi thi đỗ, thần được gọi vào cấm quân, phiên chế trong vệ Kim ngô, chức tả vũ vệ. - Đang giữ chức tả vũ vệ trong cấm binh, gần cận thiên tử, cơ may thăng tiến hơn người, cớ sao ngươi lại về dưới trướng Dương Trường Huệ? - Muôn tâu bệ hạ, đầu đuôi câu chuyện hơi dài dòng, bệ hạ có cho phép thần mới dám tường trình lại. - Được, ngươi cứ nói những gì mà ngươi biết. - Tâu bệ hạ, nước Tống từ lâu khốn đốn với các rợ Khiết Đan, rợ Liêu và Hạ. Triều đình phải tuế cống cho họ mỗi năm hàng triệu lạng bạc, hàng mấy trăm ngàn súc vải. Nhưng họ vẫn thường xâm lấn biên cương, vào sâu trong cõi bắt gia súc, gái đẹp cùng ngựa chiến. Đang lo mặt bắc chưa yên thì mặt nam, hai viên đầu lĩnh người Thái, người Nùng là Dương Trường Huệ, Đoàn Kính Chí nổi lên. Dân theo về chúng như nước vỡ bờ, thế của chúng như chẻ tre, chỉ trong mấy tháng đánh đuổi hết các châu mục, chiếm lĩnh vùng tả hữu giang, làm chấn động cả triều đình. Thiên tử đang định phái tướng đi đánh dẹp, thì được tin hai nhà Dương – Đoàn liên thủ với nhau, thanh thế lớn lắm. Tể tướng Vương Khâm Nhược bàn rằng: “Nếu đánh hai nhà Dương – Đoàn lỡ không thắng mà nhân cơ hội An Nam lại tiến quân vào cõi, rồi mặt bắc đám Liêu, Hạ lại nhất tề xua quân vào sâu nội địa thì nam bắc lưỡng đầu thọ địch, Trung nguyên nguy mất”. Dạ, tâu bệ hạ, trong lúc tình thế thật là khó xử, tiến thoái lưỡng nan thì hai nhà Dương – Đoàn dâng sớ xin cắt đất phong vương. Tể tướng Vương Khâm Nhược xin nhà vua nhân cơ hội dụ bảo hai nhà Dương – Đoàn tiến đánh An Nam, chiếm thêm mấy châu, lộ nữa, triều đình sẽ gộp đất hai vùng tả hữu giang cắt cho hai tướng và phong vương luôn thể. Vì hám lợi, hai tướng nhận liền, nhưng xin triều đình cấp thêm cho năm vạn ngựa chiến, một vạn binh cùng ba mươi vạn hộc lương. Cực chẳng đã, Tống Chân tông không còn cách nào thoái thác. Thần được phong làm phó đô nguyên suý cùng với đô nguyên suý Lỗ Nguyên, dẫn quân triều đình về vùng tả hữu giang phối hợp với hai tướng man để đánh An Nam. Nếu sau khi hai nhà Dương – Đoàn toàn thắng, chúng thần phải tìm cách trừ khử để tránh hậu hoạ cho đại Tống. Nhưng thưa bệ hạ, bọn người man này tinh ranh như cáo. Lũ chúng thần vừa chân ướt chân ráo hạ trại, thì hai tướng mở đại tiệc tẩy trần, mời tất cả đám tướng soái của triều đình tới dự. Tiệc chưa tàn thì giáp binh của chúng xông ra trói chặt lũ thần lại bắt giải về dinh. Một vạn quân triều đình được chúng chia nhỏ ra để nhập với binh man. Còn lũ chúng thần được đưa về dưới trướng giam lỏng. Viên hàng tướng thở dài như vừa trút được gánh nặng, đoạn y nói tiếp: – Tâu bệ hạ, thật là may mắn cho thần, chính bệ hạ đã cứu sinh mệnh thần. Vua Thuận Thiên mỉm cười hỏi lại: - Sao vậy? - Tâu, nếu như lũ tướng man Dương – Đoàn kia mà thắng, thì chắc chắn là chúng sẽ giết bọn thần trước khi chúng được Tống Chân tông phong vương. Và rồi chúng cũng sẽ giết nhau. - Nhằm vào bằng cớ nào mà ngươi nói vậy? – Vua hỏi. - Tâu bệ hạ, khi thần bị giam lỏng dưới trướng Dương Trường Huệ, vẫn thấy Đoàn Kính Chí lui tới viếng thăm nhau. Đôi lần họ đã bàn đến chuyện chinh phục xong An Nam, Tống Chân tông phong vương thì ai làm vương, ai giữ ấn. Hai tướng đều không có ý nhường nhau. Cứ lần nào bàn đến chuyện này họ cũng đều to tiếng. Thần ngờ rằng họ có âm mưu hạ sát nhau. Và vì vậy, bọn thần tuy là tướng của triều đình, nhưng nếu ở với bên này, ắt là kẻ thù của bên kia. Vì thế, hai bên sẽ cùng ra sức lôi kéo. Lôi kéo không được, ắt sẽ trừ khử. Bởi thế được thua trận, lại được làm tù binh của bệ hạ, thần cho là đại hạnh. Vua Thuận Thiên nghe người tù binh nói có lý, trong lòng đã bớt nghi hoặc tới tám chín phần. Nhưng lại nghe y xu nịnh “được thua trận, được bắt làm tù binh là một đại hạnh”, thì nhà vua thấy nó nghịch cái lỗ tai quá; ngài cảm thấy khinh ghét nhân cách viên hàng tướng nhà đại Tống này tới mức không còn muốn hỏi chuyện y nữa. Phút im lặng nặng nề khiến người tù binh cảm nhận như có điều gì nguy hiểm đang đến với y. Chợt vua Thuận Thiên cao giọng hỏi: - Nếu ta tha mạng sống cho ngươi, lại cho ngươi về đất Tống thì sao? Y vòng tay vái nhà vua rồi quỳ xuống lạy hai lạy. Y nói giọng ấp úng như là một sự bẽ bàng: - Tâu bệ hạ, thần biết bệ hạ không chỉ khinh bỉ thần mà còn khinh bỉ cả Tống Chân tông. Vì rằng vua nào thì tôi ấy. Tống Chân tông hèn yếu tới mức bất cứ một kẻ nào đe doạ xâm lăng là ông ta đã run lên rồi. Triều quan nước Tống của thần phần đông là lũ sâu mọt, chỉ đủ tài đục khoét và ức hiếp dân lành, nhưng lại sẵn lòng hợp tác hoặc đầu hàng kẻ thù. Ngay mấy thủ lĩnh người man như Dương Trường Huệ, Đoàn Kính Chí vốn là những thổ hào quy tụ đám dân đói khát, ô hợp vài chục vạn người mà quan quân bản hạt cũng sợ rúm người lại không dám đánh dẹp. Còn triều đình thì chúng vừa yêu sách đã phải lập tức thoả mãn. Như thế có khác nào khuyến khích bọn chúng làm loạn. Tâu bệ hạ, nước Tống của thần hiện nay quan lại phần nhiều là bọn lưu manh, giặc cướp cả. Chẳng thế mà trong dân gian đang lưu hành câu ngạn ngữ: “Dục đắc quan, sát nhân phóng hoả thọ chiêu an”[78]. Vì rằng những kẻ được chiêu an lại thường được phong quan chức. Viên hàng tướng dường như không nén giấu nổi xúc động đành để rơi mấy giọt lệ. Ông ta đưa cánh tay áo quệt nước mắt rồi nói tiếp: – Tâu, bệ hạ có thể khinh bỉ thần. Song quả thực sống trong một đất nước mà những người đứng đầu nhu nhược, hèn yếu như vậy thì người dân khó có khả năng gìn giữ được nhân cách. Dạ đúng như thế đấy ạ, đạo quân tử là xuất phát từ thời Xuân Thu. Nhưng nước Trung Hoa của thần ngày nay hầu như chỉ có lũ tiểu nhân ngự trị. Tâu hoàng thượng, thần cũng chỉ là một con tốt đen trong đám tiểu nhân ấy thôi. Thần là một đứa nhu nhược đã hai lần bại trận. Đến nỗi mấy tên đầu mục người man chúng cũng lừa bắt gọn bọn thần rồi cướp không cả một vạn quân triều đình. Bệ hạ còn hỏi thần vì sao ư? Muôn tâu, ấy là từ quan đến lính không một ai còn muốn đánh nhau nữa. Mà đánh nhau cho ai, chết vì cái gì chứ. Nước của thần hiện giờ không khác gì một hũ tương thối. Chính vì vậy thần muốn nói được thua trận lại được làm tù binh của bệ hạ là đại hạnh. Và chính bệ hạ đã cứu thần. Thần nói đó là nghĩ suy thành thật tự đáy lòng, nhưng cũng vì thế mà bệ hạ khinh bỉ thần là một kẻ giá áo túi cơm. Thần là kẻ cùng đường mạt vận lại xô vào nghịch cảnh, bệ hạ thương tha cho, ơn ấy mong có ngày báo đáp. Song le, nếu bệ hạ bắt thần phải về đất Tống, thì thần xin bệ hạ cho được chết trên đất của bệ hạ. Nghe những lời trần tình chân thực như được nhỏ ra từ máu và nước mắt của viên hàng tướng nhà đại Tống, vua Thuận Thiên không những thương cho thân phận của y mà nhà vua còn thầm biết ơn vì chính y, đã vô tình cảnh tỉnh cho ta bài học cay đắng của vua tôi nhà Tống. Đó là sự ngu tối của kẻ cầm đầu bộ máy quốc gia, khiến cho cả triều đình lâm vào trì bế, kéo theo cả một triều đại suy yếu. Sự hèn kém của triều đình khiến cả một đất nước vĩ đại dường ấy, mà phải sống chui nhủi như một lũ chuột. Vua lại tự nghĩ, cứ gì nhà Tống, ngay trên đất nước này hơn chục năm về trước, Ngọa triều Lê Long Đĩnh trị vì, y chẳng đã biến cả đất nước thành một nhà tù vĩ đại, biến cả đất nước thành một pháp trường đó sao. Dân chúng thì đói khổ, sợ sệt, ly tán không ai còn muốn sống nữa. Ngay ta là một quan lớn, chức tới điện tiền chỉ huy phó sứ trông coi cấm binh, mà tính mệnh lúc nào cũng như cá nằm sẵn trên thớt. Chỉ cần vua phật ý, là bị bỏ nấu trong vạc dầu như chơi. Nhiều lúc ta tự hỏi: không hiểu mình đang sống trong thời đại nào đây. Ngoài vua ra, sinh mệnh mọi người không có gì bảo đảm. Thật là man rợ, khi con người ta sống trong một xã hội không có luật pháp. Dù có vài quy ước gọi là luật pháp thì cũng không bao giờ được tôn trọng, thử hỏi có khác gì xã hội của loài cầm thú. Ôi chao, cái thời mạt kiếp đó mà còn tồn tại tới ngày nay, dân tộc ta chắc đã bị diệt chủng. Chợt nhớ đang nói chuyện với Lưu Hoằng Định, một viên hàng tướng với biết bao nỗi niềm cay đắng và mang một bầu tâm sự đầy bi phẫn, nhà vua cảm thấy nể trọng y và thực tâm muốn cứu y. Vua bèn khẩu dụ: - Lưu Hoằng Định tướng quân, ngươi có bằng lòng làm quan tại nước Nam không? Ta cho ngươi giữ chức cũ, lại cho ngươi rèn dạy con ta thành tài, ý ngươi thế nào? Lưu Hoằng Định quỳ lạy nhà vua ba lạy: - Bệ hạ chính là người đã sinh ra thần lần thứ hai, thần nguyện đem hết tâm lực ra phụng sự bệ hạ. - Thôi được, vua Thuận Thiên nói. – Tạm thời khanh cứ ở lại cung của Vũ Đức vương, ta sẽ sai Trung thư sảnh sắp xếp sau.