← Quay lại trang sách

Q1 Chương 20.

Từ ngày xảy ra động đất trên các châu Bình Lâm, châu Đô Kim, lại tiếp đến Đào Cam Mộc không ốm mà chết, khiến vua Thuận Thiên cảm thấy hơi chột dạ. Động đất không lớn, không gây chết người, hại của, nhưng đó chẳng phải là trời răn ta sao?

Đào Cam Mộc chẳng phải là ân nhân của ta sao? Đào Cam Mộc chẳng phải là chân tay thân tín của ta sao? Đào Cam Mộc chẳng phải là bạn đồng triều với ta dưới thời Lê Long Đĩnh sao? Đào Cam Mộc chẳng phải là phò mã của ta sao? Trời hại Cam Mộc, hẳn có ý răn ta không được chinh chiến làm tổn hại sinh linh. Quả thật năm trước, các quan tả hữu gián nghị đại phu Lương Tằng, Trịnh Văn Túc có dâng sớ can ta hãy ngưng ngay việc đánh dẹp. Lời lẽ thật là thống thiết, thật là quyết liệt. Ta biết, việc Tằng, Túc can ta là trung, là chính. Nhưng sao ta vẫn cứ u mê không chịu tỉnh giác. Thật tình không phải ta ác ý, mà chủ ở thiện tâm. Ta dẹp nốt một vài nơi là cốt sao trong toàn cõi, mọi người dân đều được sống trong an lạc. Tới nay, mọi việc đã như ta mong muốn. Nhưng Trời đã kịp lấy đi mạng sống của Đào Cam Mộc, tựa như chặt bớt chân tay, vây cánh của ta. Đến nỗi con gái ta đang phơi phới tuổi xuân, bỗng chốc trở thành goá bụa. Nhà vua thật sự ân hận, thật sự hối hận. Vua sai lập đàn tràng, thân làm chủ tế, tế vọng các danh sơn. Truy phong Đào Cam Mộc chức Thái sư á vương, lại cho làm tang lễ trọng hậu. Nhân đó, vua xuống chiếu xá tô thuế cho thiên hạ thêm ba năm nữa. Vua ăn chay trường tới cả tuần trăng, lại tự mình đi xem ngắm núi sông, thấy chỗ nào khuyết hãm, sạt lở thì sai quan chức các châu, quận phải kíp thời bồi trúc. Khi tới bến đò Cổ Sở, nhìn dòng sông rộng, hai bên bờ bãi, ngô lúa xanh rờn; vua ngước nhìn bầu trời cao thẳm, lại thấy phương tây ánh lên một ráng hồng; ngọn Tản Viên sừng sững như dang tay ôm lấy vùng thắng địa Thăng Long. Một vùng núi sông cẩm tú mà vượng khí nghe như ngưng tụ đâu đây, tâm thần nhà vua hốt nhiên cảm động, bèn rót rượu xuống đất mà khấn rằng: “Trẫm xem nơi đây núi lạ, sông đẹp, nếu có nhân kiệt địa linh thì nhận lấy lễ này”. Lạ thay, vừa dứt lời khấn liền có sự cảm ứng tức thì, vua thấy một luồng khí ấm nóng chạy từ đỉnh đầu xuống dọc sống lưng. Đêm ấy, vua ngủ lại hương Cổ Sở, đêm mộng thấy một người tướng mạo, cốt cách khác thường, áo quần trang nghiêm, cúi đầu lạy vua hai lạy và nói: “Thần là người làng này, họ Lý, tên Phục Man, làm tướng giúp vua Lý Nam Đế. Vì thần là người trung dũng nên được vua giao cho coi sóc hai dải sông núi Đỗ Động và Đường Lâm, bọn giặc cướp không dám xâm phạm, dân chúng được an cư lạc nghiệp. Khi chết, Thượng đế khen là có công, nên lại cho giữ chức cũ. Khi thần chết, dân trong vùng sợ không có người che chở nên lập đền thờ. Vì vậy thần thường phảng phất trong cõi trời mây, lúc có giặc dã liền ra tay chống, đánh. Nay gặp bệ hạ tới, lại được mời rượu thật là cảm kích. Thật là cảm kích”. Nói xong liền ngâm mấy câu thơ: Thiên hạ tao mông muội, Trung thần nặc tính danh. Trung thiên minh nhật nguyệt, Tư khả hiện chân hình. (Thiên hạ gặp lúc còn mờ tối, Kẻ trung thần phải giấu họ tên. Nay được mặt trời, mặt trăng sáng tỏ giữa trời, Ấy là lúc có thể hiện chân tình). Vua giật mình tỉnh giấc, nhẩm nhớ các điều thần đã nói trong mơ, cả gương mặt thần, ngài cũng còn hình dung rất rõ, duy có bài thơ vì sợ quên nên vua phải chép ngay vào giấy. Sáng ra vua đem chuyện đó kể lại với quan ngự sử đại phu Lương Nhậm Văn, và trao cả bài thơ cho Văn đọc. Ngẫm nghĩ một lúc, Lương Nhậm Văn nói: - Tâu bệ hạ, cứ ý tứ trong bài thơ, nhất là câu ba, câu bốn thì thần mộng muốn bệ hạ tạc tượng cho thần đấy. - Phải, ta cũng nghĩ như khanh. Nhà vua bèn cho gọi chức dịch sở tại tìm mời thợ giỏi, để ngài mô tả hình dáng người trong mơ cho thợ nhớ lấy mà thể hiện. Lại sai tu bổ đền cho thật khang trang, và dựng bia ghi chép lại sự tích này. Ngày khánh thành pho tượng, chức dịch hương Cổ Sở có sớ về triều xin vua cho rước tượng vào đền. Vua thân về dự lễ. Vừa nhác trông thấy pho tượng, vua Thuận Thiên bèn thốt lên: - Giống quá! Giống quá! Đúng là người này ta đã gặp trong mơ ngày nọ. Vua liền cho dân rước tượng vào đền thờ làm phúc thần. Và phong cho thần mỹ hiệu là: “Trung liệt đại vương”. Dân làng bốn mùa hương khói. Tới nay trải bao phen binh lửa tàn phá, trải bao gió táp mưa sa, đền cũng được trùng tu nhiều lần. Diện mạo ban đầu không còn nữa, duy có pho tượng và tấm bia đá ghi sự tích đền thì vẫn như xưa. Nhân việc động đất, vua cho là Trời trách phạt nên ngài cứ ăn năn mãi. Ngoài việc tha tô, thuế, soát tù ngục, giảm hình án, vua lại thăng cho hữu gián nghị đại phu Trịnh Văn Túc làm thiếu sư. Vì năm trước Túc đã khẩn thiết khuyên vua giảm bớt việc binh. Cùng dâng sớ can với Túc còn có tả gián nghị đại phu Lương Tằng. Tằng hiện đi sứ chưa về. Chờ khi Tằng về, xét công việc đi sứ nữa ta sẽ thăng thưởng sau. Tiếp đó vua cho dựng tại kinh thành thêm hai ngôi chùa Thiên Quang và Thiên Đức, đắp bốn pho tượng Thiên đế, cấp một ngàn độ điệp cho người ở kinh sư làm tăng, đạo. Lại xuất kho 800 lạng bạc để đúc hai quả chuông lớn treo ở chùa Thắng Nghiêm và lầu Ngũ Phượng tinh. Đến đây vua tạm yên tâm mới quay về xem xét việc rèn trí và rèn đức của các hoàng tử. Vua Thuận Thiên có nhiều con. Riêng con gái, ngài đã có tới mười ba nàng công chúa. Con trai cũng có tới cả chục hoàng tử. Nhưng đáng kể chỉ có mấy vị như: Khai Thiên vương, Khai Quốc vương, Đông Chinh vương, Dực Thánh vương, Vũ Đức vương. Các công chúa và hoàng tử này tất không phải cùng một mẹ sinh ra. Bởi khi vừa được tôn vinh ngôi nước cuối năm Kỷ Dậu, ngài đã cùng lúc lập năm hoàng hậu; tới năm Bính Thìn (1016) ngài lại lập thêm ba hoàng hậu nữa. Với năm chàng hoàng tử này mỗi người mỗi vẻ, mỗi tính mỗi nết. Duy có Khai Thiên vương, tư chất thông minh, đạo đức hướng thiện, vua thật sự yên tâm đã sách lập làm hoàng thái tử, sẽ là người kế vị sau này. Ngoài ra Khai Quốc vương cũng làm nhà vua hài lòng. Chàng sớm tỏ lộ một tài năng xuất chúng, văn võ kiêm thông. Vua đã đem lòng yêu và cho về trấn trị tại Trường Yên. Chỉ mỗi một băn khoăn, Khai Quốc vương sắc sảo quá, e khi quyền bính thực sự vào tay, sẽ có sự cạnh tranh khắc bạc. Nhưng như thế cũng không có gì làm nhà vua lo bằng chàng hoàng tử bé: Vũ Đức vương. Vũ Đức vương tính tình ngỗ ngược, hiếu thắng, tướng mạo thì phá hãm: cái mũi thanh tú là thế mà đường sống lại gãy gồ lên, hầu cũng lộ. Ta hơi lo. Đây là tướng phản phúc. Chẳng nhẽ con ta lại phản phúc cả ta sao? Nhưng lo hơn cả là thằng bé rất yểu tướng. Băn khoăn, nhà vua bèn sang cung Tá quốc hoàng hậu, mẹ sinh của Vũ Đức vương để xem xét binh tình. Thấy xa giá đến, bọn a hoàn chạy tớn tác vào cung bẩm báo: - Trình hoàng hậu, hoàng thượng tới thăm cung. Hoàng hậu rối rít không kịp trang điểm. Bọn a hoàn vội khoác cho hậu tấm áo gấm màu hoàng yến. Tóc rối chưa kịp chải, bà vội úp lên đầu chiếc mũ phốc là mũ hoàng tử thường đội khi đi tập võ hoặc đi săn. Không kịp cả thay hài, hậu phải đi đôi hài cũ, màu hơi bạc. Bà vừa chạy vào dãy xuyên đường được vài bước thì một a hoàn chợt nhìn thấy chiếc mũ trên đầu hậu, thị hét lên: - Hoàng hậu đội nhầm mũ của hoàng tử rồi. Nhưng không kịp, vua Thuận Thiên đã bước tới. Hậu quỳ sát đất bái lạy: - Kính chào bệ hạ. Thần thiếp không biết bệ hạ tới, nên không kịp làm lễ cung nghinh, xin bệ hạ tha tội. - Đứng lên đi, ta miễn lễ. - Đội ơn bệ hạ. Tá quốc hoàng hậu đứng dậy, khẽ nghiêng mình và nhoẻn cười: – Kính mời bệ hạ vào thăm cung của thần thiếp. Vua Thuận Thiên đi trước vào trong cung. Đó là một ngôi nhà gỗ xoan đào không lớn lắm. Ngôi nhà năm gian lợp ngói mũi hài, men ngọc lưu ly. Hai gian đầu dùng làm buồng ngủ, một cho Tá quốc hoàng hậu, một cho đám a hoàn hầu hạ. Hai gian buồng được ngăn bằng hai bức thuận ghép thuần gỗ lõi xoan. Trong nhà sáng như gương mà ấm cúng lạ thường. Gian giữa kê một bàn trà lục lăng bằng gỗ gụ với sáu chiếc đôn lục lăng bằng gốm men ngọc, trên mặt đôn phủ một tấm đệm bông vỏ bọc lụa màu thiên thanh, để về mùa đông khách ngồi cho đỡ lạnh. Gian bên hữu, sát cạnh khuê phòng của hoàng hậu, kê một bộ kỷ gỗ vàng tâm. Gian bên tả, sát phòng của mấy a hoàn kê một bộ kỷ bằng tre ngà. Trong nhà không trang hoàng hoành phi, câu đối, chỉ có bức đại tự sơn son thếp vàng treo ở gian giữa gồm hai chữ: ĐOAN CHÍNH. Và nơi các gót tầu bẩy đều treo một chùm khánh nhạc. Gió hơi phơ phất đã nghe tiếng nhạc rung. Lại nữa một đỉnh trầm đặt cạnh chân cột, nơi dưới bức đại tự luôn phảng phất bay ra một làn khói trắng thấm đẫm hương thơm. Tá quốc hoàng hậu sau một vài cử chỉ lúng túng đã lấy lại được bình tâm, bà thét gọi đám a hoàn: - Bay đâu! - Dạ, – tiếng dạ ran của cả chục đứa hầu gái. - Dâng trà! Thị nữ bê khay trà ra, hoàng hậu đón lấy và tự tay dâng lên hoàng thượng. - Thần thiếp mời bệ hạ thưởng trà. Vua Thuận Thiên đỡ lấy chén trà, mắt nhà vua vẫn nhìn chiếc mũ của hoàng tử Vũ Đức vương mà Tá quốc hoàng hậu đang đội trên đầu. Nhà vua mỉm cười hỏi: - Sao hậu lại đội mũ của hoàng tử? - Trình bệ hạ, hoàng tử từ ngày được bệ hạ cho đi mở phủ, lòng lúc nào cũng nhớ đến phụ hoàng và mẫu hậu. Trước khi đi, hoàng tử có để chiếc mũ lại và dặn: “Mũ tượng trưng cho lễ. Con không ở lại cung hầu hạ phụ hoàng và mẫu hậu được, con xin để chiếc mũ lại nhà, để mỗi khi phụ hoàng và mẫu hậu nhìn thấy mũ của con, coi như con đang có mặt hầu hạ phụ hoàng và mẫu hậu”. Thần thiếp đội mũ của hoàng tử ra cung nghinh hoàng thượng coi như hai mẹ con thần thiếp cùng được diện kiến long nhan. Nghe hoàng hậu nói, nhà vua hơi biến sắc mặt. Ngài tự nhủ, rõ ràng ta đến bất chợt, nên nàng không kịp cả điểm trang. Xiêm y xộc xệch, đôi hài cũ vẫn mang dưới chân, cuống quýt vơ cả mũ của con trai chụp lên đầu. Lúc nàng chạy ra đón ta, lũ hầu gái đã thét gọi: “Hoàng hậu đội nhầm mũ rồi!” Nhưng lỡ vì ta đã trông thấy, nàng không thể quay lại thay mũ nữa. Thế mà nàng lại khéo biến báo. Chao ôi, chung sống với nhau ngót hai chục năm trời, ta vẫn ngỡ nàng là người trung hậu, tuy hơi có chút vụng về; bởi nàng sinh ra và lớn lên trong chốn quê mùa, thiếu học. Được trời phú cho chút nhan sắc, nên ta cũng rủ lòng thương. Ai dè, tâm địa nàng lại trở nên trí trá. Ngẫm nghĩ giây lát, nhà vua lại tự vấn hoặc là ta đã làm hư nàng. Bởi trong cung cấm này lắm quyền, nhiều lợi. Hậu nào, phi nào cũng mong được ta sủng ái. Nàng nào cũng muốn con mình được lập, nên đua nhau đút lót cho bọn trung quan để chúng bày cho hết mưu này kế nọ. Sống dưới thời Ngọa triều, ta còn lạ gì các ngón nghề của lũ trung quan cùng bọn phi tần. Ta quyết không để cho bọn trung quan cùng đám đàn bà này làm loạn chốn thâm cung. Thấy nhà vua cầm chén trà nơi tay hơi lâu, và nhà vua như đang mải nghĩ suy một điều gì, Tá quốc hoàng hậu bèn lên tiếng: - Thần thiếp có điều gì đáng trách phạt, khiến bệ hạ phải bận tâm. Thiếp xin được nghe bệ hạ răn dạy. Nhà vua ngửng đầu nở nụ cười gượng, ngài cầm lấy chiếc mũ trên đầu hậu và nói: - Nàng đi vào trang điểm đi. - Tạ ơn bệ hạ. Tá quốc hoàng hậu vái nhà vua rồi đi thẳng vào phòng điểm trang. Một lát hoàng hậu trở ra, nom bà lộng lẫy trong mớ xiêm y đắt giá: áo dài vóc màu thiên thanh, thêu những bông hoa kim tuyến ánh vàng. Váy nhiễu tím. Gấu váy thêu hoa cúc dây màu ánh bạc. Cổ đeo chuỗi hạt trai màu trắng đục. Trên đầu hậu mang chiếc mũ có viên hồng ngọc to bằng đầu ngón tay đính nơi vành mũ ngay trước trán. Ánh ngọc toả khiến gương mặt hậu rực lên như một đoá hồng. Nhà vua nhìn hậu một cách ngỡ ngàng. Ngài không tin ở mắt mình nữa. Bởi mới vừa đây, trước vua là một mụ nạ dòng váy yếm xộc xệch, da dẻ nhợt nhạt, đầu bù tóc rối, mũ áo nhố nhăng. Vậy mà trước ta lúc này có đúng là nàng không? Có đúng là Tá quốc hoàng hậu mi thanh mục tú, trâm gài ngọc dắt, mỗi bước đi của nàng như toả sáng hào quang. Vua định thần nhìn vào tận sâu đáy mắt hậu, và tự nhủ: thực ra thì cũng chẳng có gì là khác lạ. Vẫn cái thân giả hợp kia, được khoác lên bởi bộ đồ giả trang hào nhoáng thôi, có gì đâu. Người đời nói quả không sai: “Hơn nhau tấm áo manh quần, thả ra mình trần ai cũng như ai”. Hoàng hậu tươi cười nhún mình quỳ lạy. - Thần thiếp kính chào bệ hạ. – Hậu vừa cúi vừa liếc xéo ánh mắt như dò hỏi: “Thiếp xinh lắm phải không?” Ôi, có là tượng đá thì trước ánh mắt và nụ cười duyên của người đẹp, cũng không thể không nhúc nhích. Vua Thuận Thiên giơ tay đỡ bàn tay hậu và nói lời dịu ngọt: - Nàng đa lễ quá. Vua dìu hậu ngồi vào kỷ. Tì nữ lại dâng trà. Uống xong tuần trà thứ hai, nhà vua liền đứng dậy, toan đi. Hậu cảm như tủi thân, tự nhiên nước mắt ứa ra. - Sao nàng khóc? – Vua hỏi. Hậu không ghìm được nữa, bật khóc to, nước mắt cứ trào ra. Vua đưa tay nhẹ nâng cằm hậu, gương mặt nàng như vừa rửa bằng nước mắt, tựa như một đoá hoa thấm đẫm sương khuya, nom nàng rực rỡ hẳn lên, khiến nhà vua hơi động lòng. Lại hỏi: - Vậy chớ vì sao nàng khóc? Hậu sụp lạy: - Bệ hạ! Bệ hạ! Thiếp có tội gì mà cứ phải ngày đêm vò võ chốn khuê phòng? - Ta tưởng ta mới đến với nàng cách đây… - Dạ, cách đây hơn một năm rồi bệ hạ. Bệ hạ có cả chục hoàng hậu, cả trăm cung nữ… - Trời, ta cứ tưởng ta mới ở với nàng… Thôi được, đêm nay ta ở lại cung Quỳnh Hoa. - Đội ơn bệ hạ đã đoái thương đến thần thiếp. Lũ thần thiếp sao dám dối bệ hạ. Vì rằng, ngày tháng năm nào, bệ hạ vào cung nào từ giờ nào đến giờ nào, bọn trung quan ghi chép cẩn thận lắm. Có nhẽ họ còn biên chép rõ ràng hơn cả bên Quốc sử viện. - Thôi, thôi nàng nói nhiều quá. Hãy để cho ta một chút yên tĩnh. Hoàng hậu ngồi thu vào một góc kỷ, không dám nói gì nữa. Nhà vua lại cầm lấy chiếc mũ của hoàng tử, đưa cho hậu, vua nói: - Nàng cất cái mũ này đi cho con, nó bỏ quên ở nhà từ bao giờ đấy? Cảm về lời nói âu yếm của nhà vua, hoàng hậu buột miệng trả lời: - Hoàng thượng, tuần trước con nó về, lúc đi vội quá để quên cả mũ. Vua lặng thinh.