Q1 Chương 23.
Mùa đông, tiết trời hanh heo, lạnh giá, cây cối trong vườn ngự lá đã ngả hết sang màu vàng úa. Vua Thuận Thiên thấy người hơi khó ở. Chân tay không đau mà mỏi. Trong các khớp chân, khớp tay cứ buồn buồn như có kiến bò, thật là khó chịu. Thái y viện đã cử đến bốn năm ngự y giỏi vào thăm bệnh, kê đơn, bốc thuốc, nhưng vẫn không trị được.
Trong người đã buồn bực khó chịu, lại liên tiếp nhận được biểu của biên quan, biên tướng nam thuỳ tâu về, khiến nhà vua càng thêm bực mình. Rằng nước Chiêm Thành cứ liên tiếp cho quân sang cướp phá, khiến biên dân của ta hãi sợ, không dám ở yên. Nhiều làng dân bỏ đi gần hết. Lúa má, ruộng đồng, cây trái bỏ mặc không người chăm sóc. Người Chiêm Thành không đánh lớn, không ra mặt xâm lăng. Nhưng cứ nay đổ lên chỗ này một đô quân, mai mốt lại đổ lên chỗ kia vài đô quân, cướp sạch trơn của nả, trâu bò cày kéo của dân. Gặp ai chống cự là họ bắt trói đem theo xuống thuyền. Khi trở về họ quăng xuống biển. Kể ra quân thám của họ cũng giỏi. Cứ chỗ nào có quân ta mai phục, họ đều biết và tránh được hết. Bởi họ chỉ quấy nhiễu bằng thuyền nhỏ, quân thì núp kín trong thuyền, lẫn vào với những thuyền đánh cá, khiến khó bị phát lộ khi họ chuyển quân. Cũng phải kể đến việc họ rất thông thạo nghề biển và đường biển. Từ việc tránh đá ngầm, lạch ngòi cạn, nổi, thuyền có thể vào ra lúc nào theo con nước, dường như họ thông thạo hơn cả người mình đã từng sinh sống trong vùng. Suốt một dải biên thuỳ thuỷ bộ dài hàng trăm dặm, họ vào đất ta xuất quỷ nhập thần, như ma. Họ quấy phá khiến dân ta không thể nào mà an cư lạc nghiệp được. Xem xét kỹ lưỡng các biểu dâng của biên quan, biên tướng, vua Thuận Thiên đã toan ngự giá thân chinh thảo phạt. Triều quan ra sức can ngăn vua mới tạm nguôi ngoai, chờ cho sức khoẻ bình phục. Nhưng đắn đo cân nhắc thế nào, vua lại cho triệu Khai Thiên vương, nội thị Lý Nhân Nghĩa, tướng quân Lê Phụng Hiểu, đô tướng Ngô An Ngữ gấp về triều. Nhận chỉ tuyên triệu của vua cha, hoàng thái tử Lý Phật Mã đốc thúc các tướng phải thu xếp lên đường ngay. Hoàng tử chỉ đem theo vệ sĩ Nguyễn Văn Sắn. Con Huyền Đề đã định để lại, nhưng nó tìm mọi cách để được theo chủ. Cuối cùng hoàng tử phải cho nó đi cùng. Công việc nông trại, hoàng tử nhờ thầy sư phó Trương Tuấn Minh ở nhà sai bảo mấy đứa hầu coi sóc. Hoàng thái tử vừa về đến kinh, thay đổi y phục xong lập tức đến vấn an hoàng hậu, vấn an nhũ mẫu rồi chàng vào thẳng điện Long An để vấn an vua cha. Thấy sắc diện và cả tiếng nói của vua cha khác thường, thái tử lấy làm lo lắng hỏi: - Con cảm thấy phụ hoàng không được khoẻ. Chẳng hay người đã cho ngự y thăm bệnh chưa ạ? - Đúng là ta hơi khó chịu. Chắc là do tuổi già thôi. - Con không được hầu hạ phụ hoàng… Thái tử lấy làm buồn. - Thôi con. Việc đau yếu là chuyện thường như thời tiết khi nắng khi mưa, con không phải lo cho ta. Riêng có việc này, ta muốn trao cho con. - Nếu phụ hoàng uỷ thác, dù xông vào nước, lửa con cũng không dám từ nan. - Vậy thì con chuẩn bị thay ta đi dẹp nạn hải tặc Chiêm Thành. - Thưa phụ hoàng, Chiêm Thành lại gây hấn? - Ta rất đau lòng chuyện nam thuỳ. Thật ra ta muốn sống hoà hiếu, nhưng người Chiêm cứ cho quân sang cướp bóc, gây rối, khiến biên dân của ta không được an cư lạc nghiệp. - Phụ hoàng đã tin cẩn trao cho con trọng trách, xin phụ hoàng cho con phương lược. Con đánh thẳng vào kinh đô nước họ, bắt vua họ, hay chỉ đánh vào mấy châu, quận biên thuỳ thôi ạ. Vua Thuận Thiên đỡ vầng trán hơi lấm tấm mồ hôi. Với vẻ cân nhắc thận trọng, ngài nói: - Gây hấn với nước láng giềng là điều ta không muốn. Song Champa coi thường ta quá. Dù rằng ta đã có nhời cảnh báo với vua nước họ rằng, chớ phạm đến biên dân của ta mà tự chuốc lấy tai hoạ. Vua Thuận Thiên đặt tay lên vai hoàng thái tử Phật Mã, nhà vua nói chậm rãi vừa như cha con bộc bạch tâm tình, vừa như giao trọng trách cho con. Nếu như ta không bị đau, hẳn ta phải đạp đổ kinh thành nước họ, bắt vua họ về trị tội. Nhưng thôi, còn nhiều cơ hội. Ta chắc rằng họ sẽ còn khiêu khích ta, còn cướp bóc dân ta, còn mưu đồ gặm nhấm giang san của ta; cho tới khi nào họ bị tiêu diệt hoàn toàn. Ta cũng không hiểu vì sao những kẻ giữ trọng trách chăn dân của nước này lại thờ ơ với thân phận người dân nước họ đến thế. Một khi họ đã không muốn cho dân nước láng giềng được sống yên ổn; thử hỏi nước láng giềng có để cho dân họ được sống an cư không? Ấy là chưa kể nước họ yếu hơn nước ta. Dân họ ít hơn dân ta. Thái tử chăm chú lắng nghe những lời than phiền mang nỗi bực bội của vua cha đối với người Chiêm. - Con à! Nhà vua lại nhìn thái tử với vẻ trìu mến và tiếp: – Con chưa đủ sức đánh vào kinh thành nước họ, hỏi tội vua họ đâu. Việc ấy, chắc sẽ phải xảy ra, nếu như Chiêm Thành vẫn mang lòng hiếu chiến. Bây giờ, ta chỉ cần con đem binh đánh nát trại Bố Chính cho ta. Con phải đánh triệt hạ tận sào huyệt chúng nó, nhưng chớ có tàn sát người dân vô tội, chớ có cướp phá đồ ăn thức đựng cùng là các dụng cụ cày kéo của họ. - Lần xuất chinh này, ta muốn tập dượt cho con, để mai đây, khi ở ngôi, con biết phương lược điều hành đất nước. Biết đối sách với lân bang trong thế cương, nhu tùy sức, tùy thời. Thái tử nghe vua cha răn dạy, tự thấy lo lắng nhiều hơn về con đường mai hậu. Chàng nhẹ nhàng nói: - Bẩm phụ vương, chẳng hay con được đem bao nhiêu quân, có những tướng nào trợ giúp, và bao giờ thì con được phép xuất quân? - Được! Ta đang định nói với con về các điều đó. Trước hết, con được mang theo tất cả tì tướng của con mà ta đã cho theo con từ mấy năm nay. Con nên nhớ, đó là những danh tướng của triều ta, mà cha ưu ái dành cho con. Suy nghĩ giây lâu, nhà vua lại nói: - Ta sẽ cho thái bảo Đào Thạc Phụ đi cùng con. Người này tuổi tuy cao, nhưng đầu óc lúc nào cũng thông sáng, mưu lược táo bạo, bất ngờ. Có tài lừa địch, dụ địch, biết tránh chỗ mạnh và biết đánh vào chỗ địch yếu. Con, lần đầu tiên viễn chinh, nên ta phải dùng Thái bảo để mưu việc cùng con. Bởi con chưa quen thạo chiến trận, nhất là đối với kẻ địch mưu mô như ma, ẩn hiện như quỷ, nên con phải biết nghe lời khuyên của các bậc lão thần, của những tướng lĩnh đã quen thông trận mạc. - Bẩm phụ vương, con được phụ vương bày xếp cho chu đáo đến từng việc, con quyết không dám phụ lòng. Thế còn việc xuất quân, con chưa nghe phụ vương dạy bảo? - Con khỏi lo, để mai ta triệu Thái bảo cùng các tướng mật bàn. Việc này phải kín nhẹm như bưng, người trong nước không ai được biết, thì mới lừa được bọn ngoại gián vẫn lởn vởn ở Thăng Long. Sáng sớm, Thái bảo Đào Thạc Phụ đã có mặt tại điện Long An. Một lát sau các tướng Lê Phụng Hiểu, Ngô An Ngữ, Lý Huyền Sư cùng nội thị Lý Nhân Nghĩa và cả hoàng thái tử Lý Phật Mã đã tề tựu đông đủ tại nhà đại bái. Vua Thuận Thiên từ trong hậu điện bước ra. Các tướng lạy chào. - Miễn lễ! Miễn lễ! Nhà vua nói. – Các khanh an toạ, ta bàn việc luôn. Trà nô dâng vừa xong một tuần nước. Vua lại sai ban cho mỗi người một chung ngự tửu. Đoạn vua hỏi: - Vậy chớ các khanh có biết ta triệu các khanh về đây có việc gì không? Nhà vua nhìn khắp lượt, rồi dừng mắt ở thái bảo Đào Thạc Phụ. Đào Thạc Phụ mỉm cười, tựa như ông đã biết hết các việc mà vua sắp bàn. Chậm rãi, thái bảo nói: - Muôn tâu, bệ hạ gọi chúng thần về để ban cho ngự tửu. Thái bảo ngập ngừng… Rồi sau đó, bệ hạ cho chúng thần đi chinh phạt phương nam ạ. Vua Thuận Thiên cười lớn: - Khanh quả thật là tri kỷ của ta. Thôi được, ta nói vào việc ngay. Chiêm Thành không để cho dân ta sống yên. Vì vậy phải trừng phạt để răn đe. Nhưng đánh thế nào, để dân Chàm phải oán vua nước họ, thì việc xuất chinh của ta mới thu được thành tựu cao. - Phụ hoàng dạy thế, có nghĩa chúng thần phải đem binh đánh vào lòng người? Hoàng thái tử Phật Mã hỏi vua cha. - Đúng vậy! Nhà vua đáp. – Nếu các khanh chỉ chú trọng tàn sát người và của của dân Chiêm Thành, tức là các khanh đã phá kế hiếu hoà của ta, và giúp đắc lực cho sách lược hiếu chiến của triều đình Chiêm đạt thành tựu mỹ mãn. - Con xin lĩnh ý phụ hoàng. - Vậy thời, vua Thuận Thiên nói: – Ta cho các khanh xuất năm vạn binh. Thái tử Phật Mã giữ ấn nam chinh, giữ quyền thượng tướng. Thái bảo Đào Thạc Phụ, Phó Đô nguyên suý chinh thảo thượng tướng quân, giúp rập mọi việc cho hoàng thái tử. Ta cho Lý Nhân Nghĩa, Lý Huyền Sư làm tả hữu cho Phật Mã, Lê Phụng Hiểu làm tướng tiên phong. Ngoài ra cất nhắc tướng nào vào việc nào, hành binh thế nào, tiến đánh thế nào, tuỳ các khanh sắp đặt. Ta chỉ khuyên các khanh một điều phải nhớ kỹ: Không được coi thường địch. Không ham đuổi địch vào sâu đất nó mà mắc mưu. Chinh phạt xong, mau chóng rút về, không được ở lâu trên đất địch. Đến, đi đều phải thoắt ẩn, thoắt hiện, kín nhẹm như bưng. Nếu không sẽ là đại bại. Thái bảo Đào Thạc Phụ lại hỏi: - Bệ hạ, bao giờ thì chúng thần phải lên đường? - Nhanh nhất là mười ngày, chậm nhất là ba mươi ngày, các ngươi phải xuất quân. Đào Thạc Phụ quay sang nói với thái tử: - Xin thái tử nhận với hoàng thượng hạn kỳ nhanh nhất đi. Thần đã có kế đây rồi. Thái tử bèn xin với vua cha: - Chúng thần xin được xuất binh sau mười ngày nữa. - Được! Nhưng phải chu đáo mọi mặt, không vì hạn kỳ nhanh mà để sơ khoáng trong việc chuẩn bị khí giới, lương thảo, thuốc men. Ngay ngày hôm sau, thái bảo Đào Thạc Phụ đã trình thái tử phương sách chuẩn bị gấp gáp cho việc xuất quân. Để quân đi được kín nhẹm, sẽ không điều về Thăng Long. Ngược lại quân tại Thăng Long chỉ điều một vạn xuống thuyền đi ngay. Ngày ẩn náu trong khe lạch, đêm thuận gió giong buồm. Ba vạn quân khác lấy tại hai lộ Sơn Nam thượng, hạ. Một vạn quân xuống thuyền đi tại cửa Đại Ác. Hai vạn xuống thuyền đi tại cửa Thần Phù. Một vạn quân lấy tại Ái Châu, xuống thuyền đi tại Cửa Biện. Tất cả các đoàn, đội đều ngày nghỉ, đêm đi. Sao cho nửa tuần trăng thì về hội đủ tại Cửa Hội. Từ Cửa Biện trở vào nam phải ém quân kín như bưng. Bởi vùng này gần biển Chiêm Thành quân Chàm thường dùng hải đội đi lùng sục, cướp bóc các thương thuyền qua lại. Nếu để lộ, họ biết mà phòng bị kỹ càng, quân ta sẽ hao tốn máu xương không kể xiết. Mười ngày sau kể từ lúc rời Thăng Long, thái tử và đoàn tuỳ tùng đã dừng thuyền neo đậu tại Vũng Biện Sơn, cũng gọi là Cửa Biện. Thấy núi sông hùng vĩ, biển trời bao la, hoàng thái tử cảm nhận như có khí thiêng ngưng tụ, hẳn có thần linh ngự trị. Bèn sai thiết lập hương án, sắp bày trà nước cùng hoa trái để thái tử tự mình cáo với trời đất và thần linh. Lễ vật sắp đặt xong, trời vừa sẩm tối. Phút chốc màn đen phủ kín bầu trời, khiến không phân biệt được đất liền với trời biển nữa. Thái tử thắp một bó nhang, vái trời, vái đất, vái bốn phương tám hướng rồi khấn rằng: “Thần là một thiếu niên mới lớn, chưa hiểu thấu đạo trời, lẽ người. Nhân vì nước Chiêm Thành vô cớ cho quân xâm hại đất nước của thần, giết hại lương dân khiến thần, người đều giận. Nay vâng mệnh vua cha đem binh đánh dẹp kẻ ác. Thần lần đầu tiên cầm quân viễn chinh vào đất địch. Tuổi còn niên thiếu, chưa trải chiến chinh trận mạc, chỉ biết đem lòng chí thiện trừ quân gian ác, xin trời, thần phù hộ cho sự nghiệp trừ ác được viên thành”. Khấn xong, thái tử cắm hương vào bình rồi rót một chén rượu, một nửa vẩy lên trời, một nửa đổ úp xuống đất. Lạ thay, từ dưới đất bốc lên một làn khói trắng xông thẳng lên trời. Trời tự nhiên quang đãng trở lại. Sao hiện ra chi chít. Đêm ấy thái tử ngủ tại trung quân. Nửa đêm mơ thấy một vị thần mắt sáng như sao, da mặt ánh lên một màu vàng rực. Cất giọng cười vang vang như tiếng chuông. Vị thần đó nhìn thái tử với vẻ trìu mến, rồi nói: “Ta là thần ĐỒNG CỔ Ở NÚI ĐAN NÊ. Nhân buổi tối nghe thái tử đem lòng nhân đi dẹp giặc, có cầu kiến thần phù hộ. Vậy nghe ta nói đây. Nếu thái tử vào đất giặc đem cái tâm thiện trừ kẻ ác, giữ sự an lành cho dân, thời ta sẽ phù trợ cho được thắng trận trở về”. Nói xong, thần giơ bàn tay huơ lên mặt thái tử rồi vụt biến. Tỉnh dậy, thái tử lấy làm mừng lắm. Muốn để chiêm nghiệm xem việc đó thực hư thế nào, nên thái tử không kể lại với ai, mà chỉ hỏi quan sở tại xem trong vùng có đền nào thờ thần “Đồng Cổ”, có địa danh nào tên gọi “Đan Nê” không. Chức dịch cho biết, ngôi đền thờ thần Trống Đồng ấy thế truyền có từ thời Hùng Vương nhưng không biết vào đời nào thuộc chi Hùng nào. Chỉ biết thần rất thiêng như hạn hán mà cầu đảo ắt được mưa. Dịch bệnh mà lập đàn cúng lễ, tai ương cũng qua. Đan Nê cách Cửa Biện chừng vài chục dặm. Nghe nói vậy, thái tử lấy làm mừng rỡ, và tự hẹn, nếu thắng trận trở về thế nào cũng đến tạ. Quân đã về hội đủ tại Cửa Biện, thay vì vào Cửa Hội. Vì Cửa Hội rất gần với hải phận của người Chiêm. Thái tử cho nghỉ ba ngày rồi lại tiếp tục hải trình vào đất giặc. Chừng giờ mùi, hải binh xuất phát. Thuận gió, thuyền đi như bay. Tới giờ tí, các thuyền được lệnh phải cho quân ăn uống no nê, và mỗi người mang theo một vắt cơm nắm để dành cho bữa sau. Phòng khi vừa cập bến đã gặp địch, phải giao chiến ngay. Đầu giờ dần, khi trời còn chưa sáng rõ, toàn thể năm vạn quân đã đổ bộ lên bờ, lập xong doanh trại, bố phòng sau trước ứng cứu liên hoàn, phòng quân Chiêm bất ngờ tập kích. Tới giờ thìn, vẫn không thấy phía người Chiêm cho quân đến khiêu chiến, thái tử Lý Phật Mã bèn phái Hữu đô tướng quân Lê Phụng Hiểu lĩnh năm trăm quân đi vòng phía nam vào thành Bố Chính. Tả đô tướng quân Ngô An Ngữ lĩnh năm trăm quân đi vòng về phía tây thành Bố Chính. Các trung đô tướng quân Lý Nhân Nghĩa, Lý Huyền Sư mỗi người lĩnh năm trăm quân đi vào các cửa phía bắc và phía đông thành Bố Chính. Nhiệm vụ của các tướng là đi thám sát, nếu gặp địch phục kích thì vừa đánh vừa lui, bốn cánh quân phải yểm trợ cho nhau không được để xảy ra điều gì sơ suất, làm nhụt nhuệ khí quân ta. Các tướng vừa lĩnh quân ra khỏi trại, Thái bảo Đào Thạc Phụ xướng xuất với thái tử, cử quân đi bắt vài người dân địa phương đến hỏi han đường sá dò xét binh tình. Thái tử vừa toan cho gọi đô lực sĩ Nguyễn Văn Sắn, thường gọi là đô Sắn trao cho việc này. Vừa lúc đó, Sắn từ ngoài trại vào dẫn theo ba người đàn ông Chiêm, mặt mày phờ phạc dáng đi xiêu vẹo như người say. Thái tử và Thái bảo trông thấy liền chạy ra hỏi xem có điều gì xảy ra. Đô Sắn bèn thưa: - Bẩm thái tử, thần đi tuần cảnh giới quanh trại quân, thấy động sột soạt trong bụi cây ven rừng. Vừa lo hổ báo, vừa nghi có quân phục, thần bèn núp xuống vệ đường. Một lúc sau thấy từ trong lùm cây có tiếng nói thì thầm. Thần nghĩ, chắc là quân mai phục rồi. Đang chưa biết tính sao thì ba tên này từ trong lùm cây nhảy ra giữa đường. Chúng đứng ngay gần phía trên đầu thần bàn bạc cái gì đó. Có nhẽ chúng không trông thấy thần ẩn ngay dưới chân chúng. Thế là thần nhảy vọt lên dùng thất trảo pháp đánh cho ba đứa ngã lăn. Trong khi chúng bị bất ngờ đang hãi sợ thì thần điểm huyệt rồi lôi chúng về đây. Nói xong, đô Sắn lần lượt giải khai huyệt đạo cho từng đứa rồi dẫn chúng vào trung quân. Trong quân có người biết tiếng Chiêm liền tách riêng chúng ra để tra hỏi. Chúng khai: “Quan tổng trấn thành Bố Chính nửa đêm qua mới biết có quân Việt đang tiến vào cõi. Gấp quá không kịp cầu kiến về Trà Bàn. Hải đội nhỏ không dám ở lại đối đầu, đã rút về ẩn dưới chân đèo “Mây Bạc”. Quân trong thành đã rút ra mai phục ở ngoài, chờ quân Việt vào thành sẽ đánh, để khoá chặt bốn cửa thành. Sau đó quân trên núi đổ xuống, quân thuỷ từ Trà Bàn đánh ra bắt quân Việt phải đầu hàng…” Tạm giữ mấy người Chiêm để còn xét hư thực về những điều họ nói. Trong chiến trận, ai đã dám tin vào những cái lưỡi của kẻ thù. Thái tử phân vân hỏi Đào Thạc Phụ: - Thái bảo nghĩ thế nào về những điều mấy người lính kia khai? - Vậy chớ cảm nhận của thái tử thế nào về các điều ấy, nhất là lần đầu tiên thái tử viễn chinh? Thái bảo Đào Thạc Phụ hỏi lại, là ông muốn đo lường sức tinh nhạy của một ông hoàng trẻ làm tướng viễn chinh, xem đã đủ lực cầm quân chưa. - Ta cứ nói mà không sợ hồ đồ. Bởi nếu sai đã có ông. Phụ vương cử ông đi, cốt là để giám sát ta mọi việc cho thận trọng. Theo ta, những người lính Chiêm đã nói thật. Vì sao à? Ta đã nhìn kỹ nơi mắt họ. Mỗi người đều nói ra với vẻ tự nhiên, nhưng khớp lại đều giống nhau. Ta cũng biết binh pháp có câu: “Hư hư thực thực, lấy hư giả thực, lấy thực giả hư”. Như những người lính Chiêm đây, nếu như họ đều đã được huấn hỗ để nói ra cùng một sự việc, thì họ sẽ có cái giả dối thành thật. Và như vậy thì chủ của họ đang dùng kế lấy thực giả hư để quân ta phân tâm không biết tiến lui thế nào. Nếu ta không mau tiến binh đuổi gấp, chắc họ sẽ sớm trở lại đánh ta. Chẳng biết ý Thái bảo thế nào. Đào Thạc Phụ mỉm cười sung sướng. Trong lòng ông rất khâm phục sức bén nhạy của thái tử. Và những kiến giải của thái tử cũng đúng như ông suy nghĩ. Đoạn ông quay ra nói với thái tử: - Những xét đoán của thái tử điện hạ sẽ sớm được nhìn nhận là có lý, là đúng với sự thật. Vừa lúc đó Lê Phụng Hiểu, Ngô An Ngữ, Lý Huyền Sư, Lý Nhân Nghĩa đều lần lượt về xin gấp rút truy đánh quân Chiêm. Lê Phụng Hiểu còn nói: - Nếu thái tử điện hạ cùng Thái bảo còn nghi hoặc không tiến binh, thì xin lập tức dàn bày thế trận để nghênh địch. Thần đoán chắc rằng, quân Chiêm sẽ quay lại sớm tối ngày hôm nay. Các tướng thảy đều xin xuất binh truy đuổi quân Chiêm. Lập tức lệnh được ban ra. Quân chia làm bốn đội: tả, hữu, tiền, hậu cả thảy bốn vạn. Còn một vạn ở lại giữ trại và giữ thuyền. Thái tử trước lúc lên ngựa còn dặn Lý Nhân Nghĩa: - Việc ông ở lại là rất mực trọng yếu, không kém việc truy đuổi giặc. Bởi phải lo giữ trại, giữ căn cứ hải đội không để cho giặc đột nhập. Nếu vạn nhất mà sơ hở để giặc cướp mất trại, đốt hết thuyền bè thì quân ta không có đường về. Thoắt thái tử đã nhảy lên mình ngựa có đô Sắn cưỡi con Nê Thông đi sau hộ vệ. Như không yên tâm, thái tử lại gọi Lý Nhân Nghĩa ra nhận mệnh: - Tướng quân phải nghiêm cấm không cho bất cứ một tên quân nào được tự ý ra khỏi trại. Không được phép vào nhà dân sục sạo, bắt bớ, hãm hiếp, cướp của, đốt nhà, giết người. – Thái tử nhấn mạnh: – Nếu vô cớ giết người vô tội thời phải thường mạng. Nếu làm đúng lời ta dặn, thì từ nay dân Chiêm không còn theo binh lính của họ sang hôi của cải của dân ta nữa. Nói xong, thái tử quất ngựa ra roi. Nó lao ngay về phía trước như một mũi tên vừa bựt khỏi dây cung. Đại quân rầm rộ kéo đi, đến đầu giờ thân thì gặp quân Chiêm đang thổi nấu ăn trong một thung lũng khá rộng. Quân phân chia thành từng đội chừng một trăm người. Đội nọ cách đội kia độ mười trượng. Tất cả đều không có lều trại. Chứng tỏ họ chỉ vừa dừng lại và cũng sắp ra đi. Thái tử bèn cho mấy người tù binh đem thư thách đánh của quân Việt. Lại sai các tướng đem kỳ binh mai phục các đường đèo, những nơi quân địch có thể liều chết phá vây. Lại sai quân cung nỏ mai phục để đón đánh quân Chiêm rút chạy. Khi những người lính Chiêm được thả về, đem thư dâng lên chủ soái. Lập tức một hiệu kèn Saranay thổi vang thung lũng. Tiếng kèn len lỏi vào rừng cây, vách núi rồi đọng lại rên rỉ như ma quái, như núi rừng lên tiếng khóc than. Đô thống chế của quân Chiêm là Bố Linh xem chiến thư xong cười khẩy. Đoạn y phê vào góc chiến thư hàng chữ sau đây: “Đô thống chế thành Bố Chính nước Champa hùng cường là Bố Linh, dụ cho các chiến binh nước Việt rằng: – Các ngươi muốn toàn tính mệnh, hãy chém đầu thái tử Lý Phật Mã; chém đầu Thái bảo Đào Thạc Phụ đem nộp dưới trướng. Nhược bằng ngoan cố chống lại mệnh này thì từ người, ngựa, thuyền bè, khí giới không một thứ gì có thể ra khỏi đất Champa”. Đọc mấy dòng thách thức đầy ngạo mạn của tướng giặc, thái tử Lý Phật Mã mỉm cười. Đoạn thái tử cho triệu các tướng đến thương nghị. Sau một hồi bàn bạc, Lê Phụng Hiểu nói: - Quân ta đến bất ngờ. Chiêm Thành không biết thực hư thế nào nên bỏ thành chạy, chứ không phải họ dùng “kế không thành”[79]. Chúng tụ quân tại thung lũng mà không chiếm giữ các điểm cao làm thế nương tựa, tức là đối phương hoang mang chạy trốn chứ không phải là kế “dụ địch”. Nay quân ta đã khép kín vòng vây; tướng giặc lại còn huênh hoang đe doạ. Đó chỉ là một sự lẻo mép, thần xin lĩnh một ngàn quân đao cung, đánh thẳng vào phía đông, tướng Ngô An Ngữ cùng một ngàn quân đánh phía tây, tướng Lý Huyền Sư cho quân hò reo ở phía bắc, thái tử đem một vạn quân phục ở phía nam đón bắt tướng giặc. Thái tử bèn hỏi lại: - Tại sao các tướng chỉ lĩnh có một ngàn quân mà ông cho ta những một vạn quân. Tại sao phía bắc chỉ reo hò thanh viện chứ không đánh? - Tâu, giặc cậy đông người lại trên đất chúng nên chủ quan, coi thường quân ta. Kíp đến khi bị đánh bất ngờ chúng hoang mang không kịp chống đỡ mà chỉ có tháo chạy. Tại sao phía bắc không cần đánh? – thưa thái tử là vì đại lực lượng quân ta đang án ngữ, mà theo thói quen chúng sẽ chạy về phía nam, bởi nơi đó là cả nước Chiêm đứng đằng sau họ. Nghe Lê Phụng Hiểu nói hợp ý mình, thái tử gật gật đầu tới hai ba lần. Lúc này chàng mới kịp ngắm nhìn vị tướng của mình. Lê Phụng Hiểu có thân hình cao to lẫm liệt, dáng đi đứng oai vệ như một con hổ. Phụng Hiểu mặc nhung phục lại đeo giáp hộ tâm, đội mũ đâu mâu che kín cả trán và gáy, bên sườn đeo trễ một thanh gươm. Mưu kế ấy cùng với tướng tinh ấy khiến thái tử an tâm tin tưởng. Chàng quay hỏi Đào Thạc Phụ và Lý Nhân Nghĩa: - Kế sách của tướng quân Lê Phụng Hiểu là vậy, liệu có thực thi được chăng, xin Thái uý cùng thị lang cho biết? Đào Thạc Phụ vốn nổi tiếng trong triều là một người thận trọng. Ông nở một nụ cười làm tươi thêm gương mặt có nước da hồng hào, điểm những chấm đồi mồi khiến ta có cảm giác ông là một ông già đôn hậu hơn là một vị tướng từng trải. Đoạn ông nói: - Bẩm thái tử, thần mừng Lê Phụng Hiểu là một tướng trẻ mà đã sớm tinh thông binh pháp, nên lâm trận không rối. Mưu kế vững vàng. Tuy nhiên, ở hai hướng đông, tây mỗi hướng phải cử thêm năm ngàn quân trợ lực. Hướng bắc tuy không đánh, vì giặc sẽ không chạy theo hướng này, đúng như Lê Phụng Hiểu dự liệu. Nhưng trong lúc rối loạn, lính không phân biệt được hướng nào là hướng nam, nên cứ thấy hướng nào không bị chặn đánh là chúng chạy lao vào mong thoát chết. Vì vậy, lực lượng ở đây phải sẵn sàng: giặc nhiều thì tiêu diệt, giặc ít thì bắt sống, về mặt nam, xin thái tử cho quân phục xa vài ba dặm để tản quân giặc ra mà đánh. Thái tử nên chú ý, ở phía tây nam thung lũng này còn có con đường hẻm lên núi Long Tỵ. Trong núi có hang lớn có thể chứa vài ngàn người. Vượt sang bên kia núi lại có đường ra biển. Tại đấy thường có một hải đoàn quân Chiêm túc trực. Nếu để đại quân của Chiêm thoát được sang bên kia núi, thế nào ta cũng phải đối phó với một trận tập kích hoặc một trận hải chiến lớn. Kế hoạch vừa ban bố xong, các tướng nhận mệnh lên đường ngay lập tức. Lúc này quân Chiêm cũng vừa ăn uống xong. Một phát pháo hiệu nổ chói tai rồi như thác lũ quân ta ào xuống thung lũng, trong khi đó ở trên cao, máy bắn đá dội xuống trung quân của Chiêm khiến họ trở tay không kịp. Tướng Lê Phụng Hiểu xung trận như mãnh hổ quần giữa bầy dê. Tướng quân đi đến đâu là quân Chiêm quang vợi hẳn. Phút chốc ông đã đánh thông từ đông sang tây gặp tướng Ngô An Ngữ. Hai tướng hợp lực đánh nhão quân Chiêm trong thung lũng, lại đuổi áp sát toán quân tháo chạy về hướng nam. Đô Sắn chặn mặt nam khá vững, quân Chiêm liều chết không vượt nổi. Tướng Chiêm là Bố Linh bèn sai các đô tướng Inva và Darung tiến lên đánh mở đường. Hai dũng tướng vượt ra khỏi đoàn quân đang hỗn chiến với quân Việt, xông thẳng đánh sáp với đô Sắn. Sắn chống nhau với hai tướng Chiêm tới hai trăm hiệp mà chưa hề sơ hở. Quân Chiêm vẫn ùn ùn sau lưng hai tướng Inva và Darung. Quân hai bên đều lăm lăm cung nỏ nhưng đều không dám bắn, bởi chỉ sợ bắn vào tướng nhà. Sắn đánh mãi vẫn không hạ được đối phương vì Sắn dùng kiếm, phải địch với hai tay đao nổi tiếng của Chiêm. Đường kiếm của Sắn tuy lợi hại, sức của Sắn tuy siêu phàm, nhưng kiếm vừa ngắn lại vừa nhẹ, chỉ lợi đường thủ mà khó đường công. Nghĩ vậy, đô Sắn bèn hét lên một tiếng làm rung chuyển cả cây cối. Hai viên tướng Chiêm khựng tay đao, đô Sắn bèn nhảy về phía đầu hàng của quân ta, giật ngay lấy chiếc thiết lĩnh trong tay một vị phó đô tướng quân. Chàng nhảy vào đánh tiếp với hai dũng tướng của Chiêm. Nhanh như một tia chớp, đô Sắn tung thiết lĩnh lên chụp trúng hai cây đại đao đang cùng một lúc bổ xuống đầu chàng làm toé lửa. Chàng xoay người giật mạnh hai cây đao của Inva và Darung. Hai vị hổ tướng ngã văng xuống đất. Quân ta nhanh như hổ bắt gọn hai viên đô tướng. Quân Chiêm hỗn loạn tháo chạy. Thống tướng Bố Linh biết không thể vượt được trùng vây mà chạy về phía nam để thoát qua núi Long Tỵ. Lúc này chỉ còn vài bộ tướng cùng mấy chục tên quân đã bị đánh tơi tả suốt từ giờ Dậu đến giờ Sửu. Chạy được chừng non chục dặm không thấy có quân Việt đuổi theo ở phía sau, cũng chẳng vấp phải quân phục ở phía trước, tướng Bố Linh bèn bảo các thủ hạ: - Ta mệt lắm rồi, nghỉ lại đây lấy sức đã. Quân Việt có tài như thần Shiva hồ dễ đã biết nẻo đường này. Các bộ tướng của Bố Linh bèn can: - Chủ tướng nên đi gấp, không thể nán lại đây được. Ta sắp phải vượt khe “Hung thần”. Một bên vách núi dựng đứng. Một bên vực sâu thăm thẳm. Chỉ cần vài tên quân cung nỏ phục tại đó, ta cũng phải nộp mạng cho chúng rồi. Bố Linh bực bội quát: - Ta há lại không biết con đường này sao các ngươi phải dạy khôn. Nói xong bèn cởi gươm, tháo giáp làm vật gối đầu lăn ra ngủ. Một lúc sau không thấy có động tĩnh gì, mọi người đều ngủ cả. Duy có một người lính thấy ruột nóng như có một lò lửa đang bùng cháy. Không nằm ngồi được, anh ta bèn xách cây giáo dài đi đi lại lại canh phòng cho các bậc bề trên yên giấc. Lại nói về thái tử Lý Phật Mã cùng năm trăm quân mai phục trên con đường hẻm tới núi Long Tỵ, chờ gần qua đêm vẫn chưa thấy quân Chiêm chạy qua. Linh tính như báo cho chàng có điều gì hệ trọng sắp xảy ra, thái tử truyền mệnh lệnh từ đầu đến cuối đám quân mai phục: “Phải chỉnh bị sẵn sàng chờ giặc đến”. Lệnh vừa ban ra thì nghe văng vẳng tiếng quân reo vang dậy đất. Rồi ầm ầm kẻ chạy, người rượt đuổi. Chẳng mấy chốc đám quân Chiêm ô hợp lọt vào vòng vây của thái tử. Một tiếng hô vang, trăm người bật dậy ào ra đánh vỗ mặt quân Chiêm. Mấy viên đô tướng Chiêm Thành đánh không lại được với bộ tướng của thái tử. Đứng ngoài xem xét thái tử thấy mấy viên đô tướng kia vừa đánh vừa đỡ, vừa che chắn cho một viên tướng già đang ở giữa vòng vây. Thái tử bèn hét lên một tiếng khiến lũ người kia kinh hoàng phải dừng tay. Ngay lập tức, thái tử nhảy theo thế đại bàng vồ mồi chém sã vai viên tướng già. Lũ người kia, kẻ quỳ mọp xin hàng, kẻ chạy thục mạng. Viên tướng già cùng một bên vai bị chém sã cũng vùng lên chạy. Nhưng thái tử chỉ nhún ba bước chân đã đuổi kịp, chàng nhẹ hớt lưỡi đao, chiếc cổ của y lập tức rời khỏi đầu. Quân ta xô vào lượm thủ cấp. Vừa lúc ấy đô Sắn cùng đoàn quân truy đuổi xộc tới. Thì ra Sắn chặn mặt nam, lúc quân Chiêm tán loạn không biết chủ tướng họ chạy đi đâu. Mãi sau tra hỏi những tù binh, họ bèn khai có một con đường nhỏ chạy về núi Long Tỵ. Thế là đô Sắn cho quân truy đuổi, mãi gần sáng mới bắt kịp. Và khi họ chạy vọt lên, lại đúng nơi thái tử đã đón lõng từ lâu. Thủ cấp viên tướng Chiêm đem về quân doanh, thái tử sai mời một số người dân đứng tuổi đến để nhận dạng. Lạ thay, khi hòm gỗ vừa mở nắp mấy người dân Chiêm còn đứng xa ngó lại, thì gương mặt của chiếc đầu lâu như tượng bán thân kia nhăn lại và đôi mắt chợt hé mở. Những người dân Chiêm không sợ hãi. Họ còn cho đó là hồn ma trở về nhận đồng bào. Khi hỏi người bị giết đó là ai, họ đều quay mặt đi, không nói năng gì và oà khóc thật là thảm thiết. Mặc dù họ chẳng mảy may thương tiếc ông. Bởi khi sống, ông là hiện thân của cái ác đối với dân lành. Tuy nhiên, họ khóc đây là khóc cho lòng tự trọng dân tộc bị tổn thương. Khóc cho nước Champa có những người con ngạo mạn đã làm đất nước ngày một suy yếu. Sau gặng hỏi mãi mới biết đó chính là Bố Linh, quan tổng trấn thành Bố Chính. Thái tử sai đem trả chiếc thủ cấp đó cho người Chiêm để họ tự chôn cất theo phong tục Champa. Sau ba ngày ổn định cho dân chúng trong thành được an cư; quân ta cũng được nghỉ ngơi, sức đã lại, thái tử cho chấn chỉnh trong quân rồi rút về nước. Trước khi rút quân về, thái tử cho dán tờ cáo thị khắp mọi nơi. Nói rõ việc người Việt cực chẳng đã, buộc phải đưa quân vào đất Champa, là bởi người Champa luôn cho quân sang cướp phá gây không biết bao nhiêu đau thương tang tóc cho dân lành nước Việt. Nay nếu người Champa không quấy phá biên cương nước Việt nữa, lập tức mọi sự sẽ trở nên tốt đẹp. Quân trở về xuôi nước xuôi gió, thuyền đi như lướt trên mặt biển. Khi qua Vũng Biện Sơn thái tử cho neo đậu thuyền lại một đêm để lập đàn tạ ơn trời đất, thần núi thần biển đã hộ trì quân Việt toàn thắng trở về. Xong thái tử cùng một số cận thần như Lê Phụng Hiểu, Lý Nhân Nghĩa, Lý Huyền Sư, Đào Thạc Phụ, đô Sắn tướng quân, đều kéo về đền Đồng Cổ trên núi Đan Nê cách Vũng Biện chừng ba chục dặm đường làm lễ tạ thần. Thái tử khấn rằng: “Đúng như lời thần báo mộng, Lý Phật Mã tôi đã đánh thắng trận, lại chém được tướng giặc, khiến người Champa từ nay phải nể sợ. Cũng theo lời thần, chúng tôi không làm hại dân lành. Công ấy thuộc về thần Đồng Cổ; tôi xin cảm tạ và hứa khi nào lên ngôi sẽ lập đền, bốn mùa thờ phụng, hương khói”. Đêm ấy thái tử lại mơ thấy thần Đồng Cổ hiện về, ngài chỉ nói có một câu: “Ta không thể tiết lậu thiên cơ, nhưng hứa sẽ khuông phò thái tử vào những lúc hoạ biến”. Thái tử giấu nhẹm điều thần báo mộng để chiêm nghiệm.