Q1 Chương 24.
Mùa xuân. Tiết trời lạnh mát. Gió xuân hây hẩy, mưa bụi như rắc phấn khiến cây cối đâm chồi nảy lộc. Hoa chanh, hoa bưởi từ các vườn nhà toả mùi thơm nồng nàn khắp xóm thôn. Đi về bất cứ nẻo nào trên đường quê cũng thấy không khí như được ướp tẩm bởi một thứ hương thơm đồng nội. Từng bầy, từng bầy ong bướm dập dìu với cả ngàn cánh vỗ rì rầm như lời tỏ tình của chúa xuân.
Làng Xuân Phương vừa rã hội, ai nấy như còn đang nuối tiếc những ngày vui thì xã trưởng mời bà con dân làng ra chùa bàn việc nước. Đang vụ nông nhàn, nhà nhà rỗi việc, nên già trẻ, lớn bé nô nức kéo nhau ra chùa. Vừa là ghé cửa Tam bảo thăm chùa, cầu phúc, vừa nhân thể hội họp. Ai nấy mặt mày rạng rỡ. Sư cụ thu xếp cho làng họp ngay trong nhà Tổ. Ngôi nhà năm gian, chỉ kê một ban thờ với bài vị của các vị tổ của chùa nối tiếp từ ngày khởi dựng tới nay. Trước ban thờ Tổ, kê một bộ tràng kỷ bằng tre hóp, lâu ngày đen bóng như sừng. Một ấm giỏ ủ nước hãm nụ vối. Đó là nơi dành cho các bậc cao tuổi và mấy vị chức sắc của làng. Hai bên tả hữu đều nhất loạt trải chiếu. Được cái chùa nhiều chiếu lễ. Mấy chú tiểu xăng xái lo việc trầu nước. Cứ mỗi chiếc chiếu bày một cơi trầu sáu miếng, một ấm nước vối, và một đĩa sáu chiếc chén sành. Góc hiên phía ngoài cửa bức bàn đặt ba chiếc điếu cày; nhà chùa chỉ có một chiếc điếu bát đã đặt trong kỷ, nơi dành tiếp các bậc lão niên và chức dịch của làng, ba hộp thuốc lào hình tròn làm bằng vỏ cam, một ống đóm tre ngâm tước mỏng trắng phau và một chiếc nùn rơm đang ngún khói. Các bà vừa nhai trầu vừa nói chuyện râm ran. Mấy cụ già răng rụng đang hí hoáy giã trầu trong chiếc cối đồng nhỏ như một khẩu mía. Giã giã, đảo đảo một lúc, trầu, cau, vỏ nhuyễn ra và có màu đỏ tươi, cụ nào cụ ấy ngửa cổ lấy chiếc chày nhỏ xíu vuôn miếng trầu vào miệng nhai bỏm bẻm. Cánh đàn ông ngồi quanh mấy chiếc điếu cày, mỗi người vê một mồi thuốc trên đầu ngón tay. Thuốc vo tròn như một viên bi. Một người cầm chiếc nùn rơm giơ lên thổi lửa. Tàn tro bay tứ tung phả cả lên đầu tóc và vai áo mấy người ngồi chờ đến lượt hút. Đóm tre ngâm cháy xanh ngọn lửa. Tiếng rít thuốc kêu sòng sọc. Và cùng một lượt ba bốn cái miệng, phả khói lên trời, nom tựa ba cái vòi rồng cuốn nước trong các cơn dông. Khói toả xanh mờ cả một góc nhà. Chừng hơn hai chục đứa trẻ theo ông bà hoặc cha mẹ ra chùa, chúng đang tha thẩn chơi ngoài sân, ngoài vườn chùa. Mấy bé gái chơi trò chồng nụ, chồng hoa, đánh chắt, đánh chuyền nơi góc vườn. Mấy bé trai đi tìm cây mạ lấy nõn làm “cần câu” câu công cống. Những con công cống cứ thập thò trên miệng lỗ, hễ thấy động là chúng chui tọt xuống lỗ sâu, tha hồ cho các tay câu thả mồi chúng cũng không động đậy. Mấy bé nhỏ liền hát đồng dao gọi: “Công cống mày lên ăn mạ, kẻo quạ ăn hết”. Kỳ lạ, trẻ hát vài lần, lại thấy công cống thập thò bên cửa lỗ. Và kia nữa mấy bé trai khác lại say sưa đánh cờ chân chó. Chúng hí húi, lặng lẽ chơi chứ không reo hò khuấy đảo làm người lớn phải bận tâm. Mọi người an toạ đâu vào đây, ông xã trưởng Lương Thanh Khiết liền nói: - Bữa nay, tôi mời các cụ và bà con ra đây, cốt là để bàn việc nước. Ông xã trưởng nói chưa dứt thì mấy bà đã nhao nhao cướp lời: - Ông xã trưởng ơi, ông có lòng thì chị em tôi xin giã ơn lòng, chứ việc vua việc nước chị em tôi chẳng đèo bòng được đâu. Mọi người lại ồ lên cười. Không khí thật là vui vẻ. Nhìn trước nhìn sau không thấy sư cụ, ông xã trưởng đích thân lên chùa mời và dẫn nhà sư vào ngồi trong kỷ với các bậc cao niên. Ông xã trưởng mặt mày rạng rỡ nói: - Thưa các cụ, thưa bà con, từ khi vua Thuận Thiên ở ngôi, trên thuận mệnh trời, dưới hợp lòng người. Nhờ ơn mưa móc nên được quốc thái dân an. Mới có hơn chục năm trị vì, vua đã tha tô thuế cho dân ta tới sáu năm. Đó là việc mà từ thượng cổ tới nay chưa từng thấy. Sử sách các đời cũng không thấy có ghi việc này; bên ta cũng thế mà bên Tàu cũng vậy. Sử Tàu nói đời Nghiêu – Thuấn được như vậy. Nhưng đó là đời hồng hoang, các nước đều còn man mọi bán khai cả, ai chứng được điều ấy, lấy gì làm bằng cớ. Cho nên để tri ân, tôi nghĩ nhân tiết Thiên thành tức lễ mừng thọ nhà vua năm nay, bà con ta nên có chút vật phẩm gì đem dâng tặng, để tỏ tấm lòng của dân đối với người đứng đầu trăm họ. Không ai nối lời ông xã trưởng cả. Nhưng mọi người quay ra bàn tán với nhau: - Từ ngày vua Thuận Thiên lên là mất biến cảnh sưu cao thuế nặng, cảnh chức dịch tróc nã thuế khoá đến từng nhà. - Vua Thuận Thiên lên, hết cảnh bắt bớ, giam cầm vô cớ. - Vua Thuận Thiên lên, ai cũng có ruộng cấy, có cơm ăn, không còn bị đói nữa. - Từ ngày vua Thuận Thiên lên, làng nào cũng có chùa thờ Phật, có sư chỉ bảo nhẽ thiệt hơn, trẻ con đều được nhà chùa dạy chữ, rèn đức, ốm đau thì nhà sư lại thuốc men chữa trị cho. - Vua Thuận Thiên… Nói bao nhiêu cho xuể, cái hay, cái đẹp của triều Thuận Thiên. Nhưng mọi người đều ngớ ra: “Làng mình thì có sản vật gì quý để dâng vua?”. Sau một hồi băn khoăn, ông xã trưởng lại lên tiếng: - Xin các cụ cho biết, làng ta nên dâng sản vật gì vào tiết Thiên thành của nhà vua? Cụ Ngật xóm Tây bèn lên tiếng: - Ông xã trưởng mở tâm như thế là chí phải. Đây đúng là chuyện “Hà ẩm tư nguyên”, tức là uống nước nhớ nguồn như các cụ ta xưa đã dạy. Dân ta được như ngày nay là nhờ có triều đại của vua Thuận Thiên. Ôi lắm lúc nghĩ về cái thời của ông Lê Ngọa triều là tôi cứ lạnh buốt cả sống lưng, tóc gáy dựng đứng cả lên. Mà lạ thật, bà con có thấy không, cũng đất đai ấy, cũng người dân ấy chứ có phải vua Thuận Thiên lên là đổi dân khác, đổi đất khác đâu. Thoắt một cái, vua mới lên, thế là người dân đổi đời ngay. Thú thật, ngày trước tôi chán sống lắm. Bởi con người như bị cầm tù cả từ trong suy tư, trong tâm tưởng. Vua thì khinh dân, coi mạng sống của dân không bằng con tôm con tép, con sâu con bọ, dân thì coi vua như sói lang, hổ báo. Lão Ngật vừa vuốt chòm râu bạc vừa nuốt hơi đánh ực một cái. Lão tuy đã ngoài bảy chục tuổi, nhưng là người có học, nghe nói đâu thuở trai trẻ ông lão đã từng theo học thiền sư Sùng Phạm là bậc cao tăng đương thời. Nhìn khắp mọi người một lượt rồi lão Ngật cười khà khà. Giọng cười của một người tỏ ra vừa vui tính vừa tự tin. Đoạn lão tiếp: – Quả thật khi mà người đứng đầu muôn dân quý cái dân yêu, căm cái dân ghét thì dân cũng quý kính như bậc cha bậc mẹ, thậm chí còn tôn kính như thánh như thần. Ấy thế mà có kẻ đứng trên thiên hạ lại coi thiên hạ như cỏ rác, và chỉ thuần yêu cái dân ghét mà ghét cái dân yêu thì sự nghiệp làm sao mà trường cửu, mệnh số làm sao mà dài lâu được. Róc mía trên đầu sư, làm cả điều ô uế nơi thiền môn. Khinh sư, nhạo Phật tránh sao khỏi bị đoạ. Vì thế mới có hăm ba tuổi[80] đã phải chết trong đau đớn, tanh hôi… Cứ mỗi lần nói đến vị hôn quân này, cụ Ngật thường trào ra một niềm khinh bỉ sâu sắc. Như sực nhớ ra mình đã đi quá xa điều mà ông xã trưởng đưa ra bàn bạc, cụ liền quay ngoắt về điểm khởi đầu. – Phải, đúng thế, làng mình phải có cái gì thật quý để dâng đức Thuận Thiên trong tiết Thiên thành sắp tới. Tức là làng ta phải có chút quà lễ gì đáng giá. Nhưng quà gì nhỉ: gạo tẻ, gạo nếp, gà, lợn, trâu, bò, đậu, lạc, ngô, khoai, sắn là sản vật quý đây. Nhưng chỉ quý đối với bà con ta thôi. Tôi chưa nghe ai nói, và cũng chưa bao giờ thấy ai dám tiến vua các loại sản vật như thế bao giờ. Ngừng một lát, nhìn khắp lượt rồi cụ dừng lại nơi mấy người trong phường săn, cụ Ngật hất hàm: – Hay là mấy bác giúp cho một phen? – Ta phải kiếm một con hổ sống để dâng nhà vua. Mọi người cười rộ lên. Cụ Ngật cũng xoa tay cười ngất rồi ngồi xuống. Ông xã trưởng vẫy tay cho mọi người im lặng. Xoa hai bàn tay vào nhau, nhìn khắp dân làng, với vẻ nhăn nhó, ông chậm rãi: – Khó thật đấy. Đúng như cụ Ngật nói, làng ta chẳng có sản vật gì đáng giá để dâng hoàng thượng. Nhưng chẳng nhẽ làng ta không có một thứ gì để tri ân nhà vua sao? Ông xã trưởng nhìn đăm đăm về phía nhà sư như tìm nơi cụ một phép mầu. Đáp lại, sư cụ nhẹ nhàng nói: - Kính bạch chư vị. Làng ta có vật quý có thể tiến vua được. Mọi người nhao nhao như sắp nhảy dựng cả lên. Ai nấy vừa mừng vừa tò mò, muốn biết vật quý sư cụ nói là cái gì, mà cả làng không biết. Nhiều giọng tranh nhau nói: - Bạch cụ xin cụ cho làng biết vật ấy là cái gì ạ? - Bạch cụ. - Bạch cụ… Bạch… Bạch… Sư cụ vẫy tay cho mọi người im lặng. - Vật quý làng ta, tôi chắc cả nước cũng không có được. Các vị cứ hay ngưỡng vọng những gì xa ngái mà quên mất quý vật mình đang có. Tôi nghĩ, làng ta nên cung tiến nhà vua giọng hát của mẹ con bà Đào. Chỉ một canh hát của mẹ con bà Đào thôi cũng đủ làm nhà vua tăng thêm tuổi thọ. Mọi người lại rộ lên: - Đúng! Đúng! Bạch cụ đúng là giọng bà Đào thì đến chuông đồng cũng không sánh được. - Bạch cụ, bà Đào hát thì đệ nhất thế gian rồi. Nhưng sao cả làng không ai nghĩ ra nhỉ? Trong khi mọi người đang rào rào tán thán cái sáng ý của nhà chùa, thì nơi góc cột kia, bà Đào trở nên lúng túng. Đôi má bà hồng ửng lên. Đầu hơi cúi, làm đôi chiếc dải yếm buộc sau gáy khẽ lúc lắc. Trong lòng bà Đào trộn lẫn cả niềm vui và nỗi buồn. Vui vì dân làng không có phân biệt đối đãi với bà. Vui vì mọi người thừa nhận bà có chút tài mọn, ấy là giọng hát. Còn buồn vì nhẽ, cũng chính giọng hát đã làm hại bà. Nhớ những năm sống goá bụa, chồng chết, đứa con gái còn ẵm ngửa. Lặm lụi thờ chồng, nuôi con. Khi con bà mới năm tuổi thì lão Thằng chạy ngược chạy xuôi được chân xã trưởng. Từ ngày lão làm xã trưởng, lão hay qua lại căn nhà nhỏ bé tuềnh toàng của mẹ con bà khuất lấp nơi góc làng. Và đêm đêm, lão bắt bà phải hát hầu lão. Lúc đầu còn có vài người tuần đinh theo lão. Sau, lão chỉ đến một mình. Nghe hát xong buông lời hoa nguyệt sàm sỡ. Rồi lão bức bách bà phải cho lão làm cái việc chó ngựa. Cho tới khi bà có chửa, khi cái bụng đã chềnh ềnh không che giấu nổi nữa. Cả làng đều biết lão là thủ phạm. Nhưng lão lại cho người đến bắt khoán bà về tội chửa hoang. Nhà nghèo không có gì nộp khoán, bà phải khai thật với dân làng kẻ nào là thủ phạm. Lão xã Thằng tức giận vì bẽ mặt, liền sai bắt giam bà tại nhà tù ngoài miếu về tội “đổ vấy” rồi đánh đòn tra khảo cho tới khi vua Thuận Thiên vi hành… Và bây giờ đã hơn mười năm. Đứa bé đã lớn. Và lão cũng mãn hạn tù được năm năm. Ba mẹ con đang sống yên ổn. Con gái lớn của bà đang hơ hớ tuổi xuân. Nay sư cụ nói đem giọng hát của ta tiến vua. Chẳng biết điềm lành hay điềm gở đây. Bất hạnh cho con bà, nó cũng có giọng hát hay chẳng kém gì bà. Lại còn nhan sắc của nó nữa chứ. Ôi chao, nếu kỳ này dân làng bắt mẹ con bà phải đem giọng hát, hát tiến vua thì chẳng biết thân phận mẹ con bà sẽ ra sao. Và nữa chuyện thằng cu Cún. Bà đặt cho nó cái tên đó không phải vì yêu, mà là để bõ lòng căm ghét cái lão Thằng đã hiếp đáp bà. Cún là chó con. Chó con là con của thằng chó bố. Vậy nhưng bây giờ thằng bé lớn lên ngoan ngoãn, đẹp người đẹp nết, cả làng ai cũng thương nó; tự nhiên bà lại thấy hối vì đã đặt cho con cái tên xấu xí. Lão Thằng từ khi mãn án tù năm năm trở về, cứ nem nép như rắn mồng năm, không dám bén mảng đến nhà bà. Lão ta đã mấy lần bắn tiếng sẽ đến thăm hai mẹ con. Bà đe, nếu vác mặt đến, bà sẽ đi trình quan. Không được đến thăm con, nhận con, nhưng tháng tháng vẫn cứ phải cho gia nhân đem thóc đến nộp để nuôi thằng Cún, đến năm nó mười lăm tuổi như án luật đã định. Tuy vậy, ba mẹ con bà ít năm nay đã khấm khá, nên khi thằng Cún tròn mười tuổi, bà không khiến nhà kia đóng góp vào việc nuôi nó nữa. Bà làm như vậy là để cố quên đi cái bộ mặt vênh vênh cậy quyền, cái bộ mặt hống hách, tàn ác trước đây của cha nó. Bà muốn quên cái chuyện buồn ấy đi để cố yêu thương nó. Bỗng có giọng nói run run cất lên. Mọi người nhìn xem ai. Thì ra là bà cụ Giá. Cụ Giá có anh cháu nội lấy cô Lan con gái ông xã trưởng Lương Thanh Khiết. Anh con trai khoẻ nhất làng ấy có tên là Sắn. Từ ngày làm rể ông xã trưởng, ông đón thầy đồ về dạy chữ. Sắn học chăm chỉ lắm. Một năm sau ông cho vào chùa làng học sư cụ. Rồi hai năm sau lại cho theo học thiền sư Định Hương – bên chùa Tam Sơn. Hoàng thái tử Phật Mã qua lại chùa thường gặp Sắn chăm chỉ học hành, lại thường hay xốc vác các công việc nặng nhọc, trong lòng đã có đôi phần cảm mến. Nhưng phải chờ đến một hôm, hoàng thái tử bất chợt gặp Sắn đang luyện công ở một góc rừng, nơi đoạn đường dốc lên chùa. Nhìn tấm thân trần đóng khố, nước da nâu rám, chân tay cơ bắp rắn chắc như những thỏi sắt, nhất là gương mặt Sắn vuông chữ điền, vừa bình thản vừa phúc hậu khiến thái tử muốn thu dụng tới tám chín phần. Sau thái tử ngỏ lời với thiền sư: - Con muốn thâu người này làm thủ túc, có nên chăng xin thầy chỉ giáo? Thiền sư cười độ lượng: - Bần tăng đang định rèn dạy đệ tử này tới khi tinh thông văn võ, sẽ tiến cử y với thái tử điện hạ. Ít lâu sau Nguyễn Văn Sắn đã ở trong đội cận vệ của thái tử Phật Mã. Cháu dâu là con gái ông xã trưởng giàu có nhất làng, lại có cháu trai đi hầu cận hoàng thái tử nên trong làng ai cũng trọng nể cụ Giá. Mặc dù cụ đã gần tám chục tuổi rồi, nhưng do lam làm nên cụ còn mạnh chân khoẻ tay, đầu óc tỉnh táo. Cụ nói: - Kính bạch nhà chùa, kính thưa ông xã trưởng, tôi già lão nói năng thất thố, có điều gì không phải xin nhà chùa, xin ông xã trưởng cùng các cụ và bà con dân làng đại xá cho. Cụ Giá lúng túng đưa tay lần chiếc đầu dải thắt lưng chấm chấm dử mắt. Cụ lại lấy hai đầu ngón tay tém vành môi, nhả miếng bã trầu ra cầm tay, và nói tiếp: – Cách đây mười mấy năm, chắc làng ta ai cũng tỏ cảnh ngộ của mẹ con bà Đào. Trần gian là khổ. Mấy năm nay nhờ ơn vua, mẹ con bà Đào đã mát mặt. Phỉ thui, tôi cứ nghĩ, nếu mẹ con bà ấy phải tiến kinh, không biết lành dữ thế nào. Nói dại chứ, nếu hai mẹ con bà Đào bị giữ lại hầu vua, thì thằng cu Cún ở nhà biết nương tựa nơi đâu? Hay là… Bà cụ Giá ngập ngừng, hay là xin với sư cụ, xin với ông xã trưởng cùng dân làng tha cho mẹ con bà Đào có được không. Dứt lời, cụ ngồi xuống, hai hàng nước mắt nhểu ra. Cụ thương mẹ con bà Đào đến se thắt cả lòng dạ. Mọi người đều biết bà cụ Giá thật lòng, nhưng đều bật cười vì cụ cổ quá. Bởi vua Thuận Thiên chứ có phải vua Ngọa triều đâu mà lo. Sư cụ giảng giải, ông xã trưởng giảng giải về mọi đường sáng, tối cách biệt như ngày với đêm giữa vua Thuận Thiên với hôn quân Ngọa triều. Dân làng thảy đều an tâm, và nhất đán tưởng thưởng việc đem giọng hát của bà Đào tiến vua. Mọi việc tưởng thế đã là xong, bỗng sư cụ buông một câu hỏi: - Đây mới là ý của làng. Thiết tưởng làng cũng phải hỏi bà Đào xem, bà có đồng lòng với dân làng không. Vì rằng giọng hát là giọng hát của bà Đào, chứ có phải giọng hát của làng đâu mà làng tự tiện. Tôi nói thật, nếu bà Đào không tự mình ngộ ra điều này, mà chỉ là sự bắt buộc thôi, thì lời ca của bà cất lên sẽ đượm màu bi ai, sầu thảm, là lời điếu chứ chẳng phải niềm vui chúc tụng nhân ngày sinh của hoàng đế bệ hạ đâu. Thấy sư cụ nói có lý, mọi người đổ xô nhìn về phía bà Đào. Bà Đào ngồi cạnh cụ Giá, bà đang mở miếng trầu cánh phượng ra xem vôi têm đã vừa chưa. Bà nhón thêm một miếng vỏ, một miếng cau toan bỏ vào miệng thì thấy tiếng mọi người nhao nhao: - Bà Đào cho làng biết ý của bà thế nào đi? - Bà Đào có thích vào hát ở trong cung không? - Bà Đào có lo sợ gì không? - Bà Đào có đi không? - Bà Đào nói đi! - Bà Đào nói đi!… Ông xã trưởng huơ tay cho mọi người im lặng. Đoạn ông chậm rãi hỏi: - Sư cụ nói rất có lý. Hảo ý của làng là muốn tiến cử giọng hát của bà Đào lên nhà vua. Chẳng biết ý bà thế nào. Tôi xin nói để bà Đào yên tâm. Nếu bà thấy việc cả làng tiến cử không có gì khiên cưỡng, mà bà cũng thấy đó là sự vui vẻ, thì làng sẽ làm sớ tâu về triều. Chắc là triều đình còn phải cử người về tuyển. Bà mà đắc cử, thì cả làng sẽ đứng ra lo liệu. Nhược bằng bà không thuận, cũng xin bà nói cho một nhời, để làng quay tìm hướng khác. Tuyệt nhiên làng không có ý gò ép bà. Bà Đào đã toan bỏ khẩu trầu vào miệng, lại đặt nó vào khay. Nở nụ cười rất tươi, bà nói: - Bạch sư cụ, thưa ông xã trưởng, thưa các cụ cùng bà con dân làng. Mẹ con nhà Đào này sống được đến ngày nay là nhờ có sự đùm bọc của dân làng. Nhưng trước hết nếu không có sự dời đổi, hôn quân không chết, minh quân không ra đời, thì con mụ Đào tôi hẳn phải mục xương trong nhà tù của xã Thằng ở ngoài miễu. Thưa các cụ, mụ Đào tôi đang lo không biết làm thế nào để báo đáp ơn vua, trả nghĩa dân làng. May quá, đúng dịp lễ Thiên thành của nhà vua, các cụ lại có lòng cho mụ Đào tôi đem tiếng hát dâng hiến lên ngài. Dù có phải xả thân ra để đáp đền ơn trên, tôi cũng không ngại, huống chi chỉ có tiếng hát. Dám xin các bậc bề trên cứ dâng sớ về triều đi. Tôi quyết không phụ công ơn trời biển của dân làng đâu. Nghe bà Đào nói, cả làng đều hỉ hả. Sư cụ chắp hai tay trước ngực niệm: “Nam mô A-di-đà… Cầu chúc cho xứ xứ đều thái bình, an lạc. Cầu chúc cho người người đều làm việc thiện, nhà nhà đều làm việc thiện”. Mọi người rời chùa, lòng tràn ngập niềm vui.