← Quay lại trang sách

Q1 Chương 27.

Nhân hoàng thái tử giữ ấn nam chinh thắng trận trở về, có đem theo tù binh để làm lễ hiến phù ở nhà thái miếu, vua Thuận Thiên cho thiết triều để bình công. Thái bảo Đào Thạc Phụ được nhà vua trao quyền giám quản tựa như một vị quân sư cho hoàng thái tử, trong cuộc thảo phạt Chiêm Thành, đã tâu trình cặn kẽ mọi diễn tiến của cuộc nam chinh. Thái bảo hết lời ca ngợi tài cầm quân của hoàng thái tử. Ông nói với tất cả lòng trung thực và dưới con mắt của một vị giám sát nghiêm ngặt: – Thái tử tuy còn rất trẻ, mới gần hai chục tuổi thôi, nhưng đã tỏ lộ bản lĩnh vững vàng của một bậc nhân tướng, bậc trí tướng. Vì sao thần lại nói thái tử sớm tỏ lộ các đức tính ưu việt này, là bởi đối với quân sĩ dưới quyền, thái tử hết lòng yêu thương họ, dè sẻn máu xương họ. Bằng cớ là mỗi khi phân phái binh sĩ vào nơi hiểm địa, thái tử đều cho người đi dò la đường sá, dò la lực lượng địch, kể cả sự mạnh yếu nhất thời của nó. Lại sắp xếp cả viện binh ứng cứu khi cần, để người vào trận yên tâm rằng mình không bị cắt đứt với hậu quân, với đại quân.

Lại trước khi khai triển lực lượng tiến đánh địch quân, thái tử cho hội chư tướng để họ được biết về nội tình của giặc, lực lượng của giặc, cả những nơi quân giặc đồn trú. Sau đó lập sa bàn, rồi bày thành thế trận. Lúc nào vây hãm, lúc nào khiêu chiến, lúc nào đột kích ở đâu ở đâu, rồi lúc nhất tề cùng tiến, hiệu lệnh, mật lệnh, khẩu lệnh tất thảy đều rành mạch, rõ ràng không thể nhầm lẫn được. Tất thảy các việc trên thái tử đều hỏi han tham bác các tướng dưới quyền. Cho nên khi vào trận, từ các mũi tiến quân đến các tướng cầm quân, tiến lui, công thủ thảy đều nhịp nhàng, không hề có rối loạn. Đánh địch ngay trên đất địch, mà thái tử còn nắm chắc địa hình địch, như biết rõ trong lòng bàn tay mình có bao nhiêu đường nét vậy. Cứ xem cung cách thái tử chỉ huy, bày xếp, đủ tỏ là bậc trí tướng. Không chỉ bày xếp, sai phái binh sĩ, mà đích thân thái tử cũng xông pha như một vị tướng. Chính thái tử đã cầm đầu toán quân phục nơi đường hẻm, đúng đường giặc chạy trốn, và chém đầu tướng giặc, khiến giặc phải đầu hàng. Vì vậy, công cuộc thảo phạt đạt thành tựu nhanh chóng. Tâu bệ hạ, điều này nữa, tỏ lộ thêm đức dũng của người làm tướng nơi thái tử. Tâu bệ hạ, điều đáng nói ở đây là khi quân ta rút đi rồi, vẫn không bị người Chiêm coi như một kẻ xâm lăng. Trái lại, họ coi ta như một đội quân nhân nghĩa. Còn lỗi lầm, họ đổ lên đầu các nhà cầm quyền nước họ, trước hết là tổng trấn Bố Linh là kẻ luôn gieo rắc mầm hoạ. Chinh phục được cả lòng dân nước địch, không phải là việc bất cứ một vị tướng nào cũng làm được. Lại nói về các thuộc hạ của thái tử như nội thị Lý Nhân Nghĩa, tướng quân Lê Phụng Hiểu, tướng quân Ngô An Ngữ, Lý Huyền Sư… khi lâm trận đều là những bậc tài trí, dũng mãnh cả. Họ xứng đáng được bệ hạ ban thưởng. Công trạng của từng người, thần sẽ lập thành một bản tấu riêng để bệ hạ ngự duyệt. Dạ muôn tâu, tước trật hay phẩm vật mà tự tay hoàng thượng ban cho, không ai không coi đó là niềm phúc hạnh của đời mình. Thần xin bệ hạ gia ân cho một việc nữa, ấy là binh sĩ theo thái tử đi chinh phạt khó nhọc, lại lập được công lớn, xin bệ hạ cho mở tiệc khao quân, rồi cho phép họ nghỉ dăm bữa nửa tháng, để họ về lại gia hương thăm ông bà, cha mẹ và vợ con, mai này có giặc họ lại hăng hái lập công. Nghe thái bảo lược tâu về cuộc nam chinh đại thắng, vua Thuận Thiên lấy làm đẹp ý. Nhất là sự trưởng thành của hoàng thái tử. - Vậy là con ta đã có phong độ của một vị tướng, có cốt cách của một bậc quân trưởng. Thế là con ta đã thành người lớn, đủ trí lực vào đời. Nhà vua nhìn khắp lượt quần thần, gương mặt ai nấy đều rạng rỡ chứng tỏ mọi người đều đồng lòng. Với vẻ cởi mở, vua nói: - Thái bảo tâu trình các việc như thế đều rõ cả. Nhân đây ta có nhời khen thái bảo, khen tất cả đoàn quân nam chinh. Ta y chuẩn các việc thái bảo vừa tâu. Nhân có việc mà ta muốn bàn với các khanh. Ấy là việc hoàng thái tử đã lớn, đã đến tuổi nạp phi, làm hôn thú để chính danh vị. Chẳng là bữa trước, ta nghe Lý Nhân Nghĩa tâu báo việc thái tử Lý Phật Mã có để mắt tới con gái nhà họ Mai bên hương Tam Sơn – nơi thái tử về mở phủ. Chẳng hay gia thế nhà họ Mai thế nào, nhân thân Mai thị ra sao, khanh nói mau để các quan còn nghị bàn. Lý Nhân Nghĩa liền xuất ban tâu: - Trình hoàng thượng, Mai Trọng Hựu hương Tam Sơn là một nhà hào phú nối đời tu nhân tích đức, con cái được học hành, được giáo dưỡng nên người. Mai Trọng Hựu là một cư sĩ nổi tiếng trong vùng. Các thiền sư thường triệu thỉnh ông ta đi giảng về Phật pháp cho các sa môn. Con trai cả của nhà họ Mai là Mai Mạnh Minh, bạn đồng môn với hoàng thái tử mà sư phụ chính là thiền sư Cứu Chỉ. Nghe đến đây, nhà vua bỗng “À!” lên một tiếng. - Được! Được lắm! Gia đạo như thế là được lắm. Khanh nói tiếp đi. - Tâu, người con thứ hai là Mai Trọng Mẫn cũng vào hàng mẫn tiệp. Thứ nữ là Mai Minh Nguyệt có theo đòi chữ nghĩa ít năm. Nay tuổi vừa trăng tròn. Nhan sắc không thuộc loại chim sa cá lặn, nhưng lại có vẻ đẹp hoang sơ nơi hương ấp, còn tính hiếu thuận, lòng nhân từ chất phác thì thần chưa thấy ai có thể sánh được với người thiếu nữ này. Mai phu nhân là người đoan chính coi sóc việc nhà cũng như truyền dạy cho ái nữ các điều về dung, công, ngôn, hạnh thật khó có ai bì kịp. Nội thị Lý Nhân Nghĩa tỏ vẻ đắc ý. Ông ngước nhìn nhà vua, nhìn triều quan: - Tâu hoàng thượng, hoàng thái tử đúng là người có con mắt tinh đời. Tuy vậy, tâu hoàng thượng, thần chỉ còn một chút băn khoăn, Lý Nhân Nghĩa vừa nói xong liền ngồi thụp xuống. - Được rồi, lát nữa khanh hãy nói điều băn khoăn của khanh, nhà vua vừa nói vừa nhìn khắp lượt triều quan. Bỗng nhà vua gặng hỏi: - Ở đây có ai biết về gia thế nhà họ Mai nữa không? Mấy vị triều quan quê ở Đông Ngàn, Tiên Du nói rõ thêm về gia đạo nhà họ Mai từ mấy đời trước. Đại loại là việc tu nhân tích đức, việc học hành, họ Mai từng nổi tiếng trong vùng. Vua lại hỏi: - Nếu ta lập ái nữ của Mai Trọng Hựu làm chính phi cho hoàng thái tử thì ý các khanh thế nào? À quên, ban nãy viên ngoại lang Lý Nhân Nghĩa nói có một chút băn khoăn. Vậy băn khoăn nỗi gì, khanh nói rõ ta nghe. Viên ngoại lang nội thị Lý Nhân Nghĩa lại xuất ban: - Tâu hoàng thượng, thần chỉ băn khoăn là gia thế nhà họ Mai không đăng đối được với hoàng thái tử, còn như về đường gia đạo thì không có gì phải phàn nàn cả. - Khanh kỹ tính quá. Nếu xét đăng đối thì con ta ế vợ mất. Nhà vua cười vỡ ra. Cả triều quan cùng cười, vua tôi thật là vui vẻ. Vua Thuận Thiên lại nói: - Ta kén vợ cho con cũng như các ông thôi, là chọn nơi có đức chứ không phải chọn nơi có của, có quyền. Giàu có mà thất đức; chức trọng quyền cao mà thất đức thì sự nghiệp mỏng lắm, sập đổ lúc nào không biết. Vua gạn hỏi: – Nếu các quan không có ai phản bác, thì ta quyết lập ái nữ của nhà họ Mai làm chính phi cho hoàng thái tử. Vậy ta nhờ viên ngoại lang Lý Nhân Nghĩa đứng ra làm mai làm mối cho. Bên khâm thiên giám chọn ngày lành tháng tốt để làm lễ kết tóc cho hai trẻ. Vua lại dụ cho ty Thái chúc phải lo yến tiệc và đưa dẫn lễ lạt qua nhà họ Mai cho đúng với phép tắc của triều đình, và phong tục của dân nước. Qua lễ cưới dân nước đồn ầm lên về chuyện con vua lại lấy con nhà thứ dân. Chuyện lan truyền đến làng Xuân Phương. Bà con trong làng ngày nào cũng kéo nhau đến nhà cụ Giá. Họ muốn gặp đích thân cháu cụ theo hầu hoàng thái tử, để hỏi cho ra ngô ra khoai, xem có đúng như nhời đồn thiên hạ không. Bữa nọ đô Sắn tướng quân từ kinh đô về thăm nhà. Theo hầu chàng còn có một gã “dũng nhi” tuổi chừng mười sáu, mười bảy. Đô Sắn cỡi con ngựa tía, nòi Hồ. Nom chàng cao lớn, phương phi, oai vệ khác thường. Viên “dũng nhi” cỡi con ngựa ré Nước Hai, nom nhỏ nhắn như một con la, bốn chân thon, mình lẳn, mông chắc, bắp săn; sức sải không bằng con tía nòi Hồ, nhưng sức dẻo dai và ăn tạp thì con tía của đô Sắn chắc không thể theo được con ngựa Nước Hai này. “Dũng nhi” là con cái thuộc các nhà nòi tướng, được tuyển chọn kỹ càng qua các kỳ sát hạch dựa trên các khiếu năng bẩm thụ, lại cho vào trường huấn hỗ từ mười ba đến mười lăm tuổi, và phải qua một kỳ khảo hạch cuối nữa. Võ sinh nào trúng cách mới được chọn vào đội “Dũng nhi”. Từ đội “Dũng nhi” lại được phái theo hầu các tướng để kèm dạy, cho tới khi phương trưởng sẽ trở thành các tiểu tướng quân. Viên “dũng nhi” theo hầu đô Sắn là con ruột của biên tướng Nùng Tồn Mộc đang trọng trấn tại châu Bình Lâm. Y có tên là Nùng Tồn Thụ, nhưng mọi người vẫn quen gọi y là “dũng nhi”. Lại nói đô Sắn vừa bước vào sân, trao dây cương cho Tồn Thụ cột ngựa vào gốc cây mít ở góc vườn, chàng chạy ào vào góc nhà, ôm lấy hai vai bà cụ Giá, giọng vồn vã, chàng hỏi: - Bà! Bà ơi! Bà có khoẻ không? Bà có nhớ cháu không? Ôi bà, bà gầy quá. Bà cụ Giá dạo này điếc lắm. Cụ không nghe được những gì cháu nói. Cụ ngửng nhìn Sắn, đôi tròng mắt đục lờ cùi nhãn, nước mắt rân rấn ứa ra, chắc là cụ đang xúc động. Cụ dùng mười đầu ngón tay teo tóp như những chiếc cẳng gà phơi khô, cứ rờ nắn khuôn mặt của Sắn. Mãi lâu sau, cụ mới nói được ra lời, giọng run run: - Cha mẹ mày, không nhớ vợ nhớ con ư mà mãi hôm nay mới về. Đồ Sắn cười hì hì. Vẫn cái giọng cười của anh lực điền ngày nào. Nhìn trước nhìn sau không thấy vợ con, Sắn ghé vào tai bà hỏi thật to: - Bà ơi! Mẹ con thằng Cò đi đâu rồi? - Mẹ con nó về thăm ngoại từ sáng sớm. Chắc nó sắp về đấy. Đang mải thăm hỏi bà nội sau mấy tháng chưa về, vừa quay mặt ra nhà ngoài, đô Sắn đã thấy bà con xóm làng kéo nhau đến đầy một nhà. Sắn vội ra chào hỏi mọi người. Đang loay hoay không biết phải nước non tiếp đón dân làng như thế nào, thì mẹ con Lan cũng vừa bước vào sân. Cô đon đả chào hỏi bà con, rồi dẫn thằng Cò vào trong buồng chào cụ. Đặt chiếc bánh khúc còn nóng hổi vào bát, hai tay nâng lên rồi đặt vào tay bà cụ Giá: - Cụ ơi! Bánh khúc nóng mẹ con gởi biếu cụ. Cụ ăn cho nóng ạ. Cụ Giá không nom rõ trong bát là vật gì. Cũng không nghe rõ cháu dâu nói gì, nhưng ngửi thấy mùi hăng hăng của lá khúc, mùi mỡ phần ngầy ngậy, mùi tiêu cay cay, và mùi thơm xôi nếp, cụ biết nó là bánh khúc. Cụ cũng thầm đoán là bên nhà ông xã trưởng làm bánh khúc, nhân con bé đưa con sang thăm ông bà ngoại, cụ ngoại, lúc về bà xã trưởng gởi biếu đây. Chao ôi, người gì mà nhân đức thế. Đúng là ông xã trưởng đã đổi đời cho bà cháu bà. Lại còn cho cô Lan về làm dâu nhà bà nữa chứ. Thứ bậc, nó là vợ thằng Sắn, thì nó gọi mình bằng bà thôi, chứ cứ như cách ăn cách ở, cách cư xử của cô Lan, lắm lúc bà cứ nghĩ rằng giời phật thương bà cháu bà, nên cho cô tiên xuống làm vợ thằng Sắn. Nghĩ thế, cho nên không bao giờ bà cụ dám gọi cháu dâu bằng con nọ con kia. Dù biết rằng cô Lan cũng thích bà gọi như vậy, mà bà cũng muốn gọi như vậy lắm để nó ấm cúng tình bà cháu. Nhưng bà lại chạnh nghĩ, nếu như có điều gì thất thố, giời phật gọi cô ấy về thì bà cháu bà lại khổ, lại cô đơn. Bà cụ Giá cứ luẩn quẩn trong cái sự mắc vướng ấy, nên cụ vừa vui sướng, lại vừa lo âu, lắm lúc cứ nẫu cả ruột. Nhà đông khách, thằng Cò không dám ra ngoài, nó cứ bện lấy cụ nội. Bà cụ Giá vừa đưa cái mùi thơm thơm của bánh khúc chớm vào miệng thì dừng lại. Cụ gọi: - Cò ơi! Con ăn hộ cụ nhá! Thằng Cò quay ngoắt về phía cụ nội. Nó nắm lấy bàn tay cầm đũa của cụ, lại cầm bát bánh đặt vào lòng tay cụ, nó nói, giọng trẻ đến là thương: – Cụ ơi, cụ ăn đi. Con vừa ăn bên bà ngoại rồi. Bà ngoại gói cho mẹ con một bọc to lắm đem về biếu cụ đấy. Cụ ăn hết con lại lấy nữa cụ ăn. Nó nâng bàn tay cầm bát của cụ lên dỗ dành: – Cụ ăn đi. Ăn đi nào! Bà cụ Giá nở nụ cười sung sướng trên gương mặt già dăn deo. – Cha mẹ mày! Cụ chửi yêu thằng chắt nội. – Nào thì cụ ăn. Ở nhà ngoài, cô Lan xăng xái têm trầu, rót nước mời khách. Viên “dũng nhi” Nùng Tồn Thụ cũng nhanh nhẹn giúp chủ tướng bê trầu nước mời tận tay các bậc cao tuổi. Cả một nhà tấp nập râm ran thì nghe tiếng vó ngựa lộp cộp phía đầu sân. Ai nấy ngoảnh nhìn ra. Ông xã trưởng vừa từ mình ngựa xuống đã nói ngay: - Người của triều đình về, bản chức chưa kịp làm lễ tiếp rước. Thật là có lỗi! Có lỗi! - Ôi thày, Đô Sắn vừa ở trong nhà chạy ra sân đã vội chào nhạc phụ, và anh cúi xuống vái lạy ông xã trưởng ba vái: – Con lạy thày! Con thật có tội. Con vừa về nhà chưa kịp sang thăm thày… Ông xã trưởng vừa bước vào nhà thì sư cụ chùa làng cũng xúng xính trong bộ áo chùng nâu, mũ nâu, tay chống cây gậy trúc bước vào sân. Thấy sư cụ tới, mọi người ùa cả ra sân chào: - Bạch cụ! Bạch cụ!… Cả làng từ già đến trẻ đều tỏ lòng tôn kính nhà sư. Đô Sắn cũng chạy tới trước sư cụ chắp tay vái ba vái: – Con bạch cụ ạ! Ông xã trưởng mời mọi người vào trong nhà. Nhưng khách đông quá, phải trải thêm chiếu ngồi ngoài sân. Biết sự mong mỏi của dân làng, ông xã trưởng bèn lên tiếng: - Bạch sư cụ, kính thưa các cụ và bà con dân làng. Từ độ nghe tin hoàng thái tử làm lễ kết tóc với một người con gái hương Tam Sơn, ai cũng cho đó là một sự lạ. Ai cũng bán tín bán nghi. Sao lại có chuyện con vua lấy con dân. Có đúng thế không thưa các cụ, thưa bà con. - Đúng đấy! Đúng như thế đấy ông xã trưởng ạ. Mọi người đồng thanh đáp. - Vậy thì thưa các cụ, thưa bà con, nhân có chuyện tế tử của tôi, đô Sắn vừa mới ở Thăng Long về, chính đô Sắn lại là tướng hầu cận của hoàng thái tử; sự việc có như thế nào, cháu Sắn đã mục sở thị, cháu sẽ kể lại hầu các cụ. - Đa tạ! Đạ tạ! Tiếng các cụ đáp lời ông xã trưởng. - Vậy thời anh Sắn, con đã nghe tỏ đầu đuôi việc các cụ trong làng đến nhà con rồi chứ. Tỏ rồi, thì con kể lại những điều con được chứng kiến như thế nào để các cụ nghe. - Thưa các cụ! Ông xã trưởng lại quay về phía mọi người nói tiếp: – Chính nhà cháu cũng u u minh minh về chuyện này. Thành thử bà con có ai hỏi, cháu cứ lúng túng ở trong mồm như người ngậm hột thị, chẳng biết nói năng làm sao. May quá, lại có anh tế tử ghé nhà. Cháu sẽ hầu chuyện các cụ – Nào, bắt đầu đi thằng bố Sắn. Sắn đứng giữa nhà, chắp tay vái bốn hướng – Xin các cụ, con xin tường lại đầu đuôi sự việc để các cụ rõ. - Đúng là hoàng thái tử của đương kim hoàng thượng triều Thuận Thiên, đã làm lễ kết tóc với một người con gái họ Mai ở hương Tam Sơn. Nhà họ Mai là một phú hộ, nối đời làm việc thiện, nên được hưởng phúc. Nhà họ Mai là một nhà hiếu học. Mai ông là cư sĩ, thường giao du với các bậc thiền sư đạo cao đức trọng. Các bậc cao tăng thường tôn Mai ông là bậc thiện trí thức. Người huynh trưởng của Mai thị từng là đồng môn với thái tử thời niên thiếu. Dạ bẩm các cụ, đúng là hoàng thái tử đã làm lễ kết tóc với con gái của một nhà thứ dân, vì rằng Mai ông không có một thứ phẩm hàm, chức tước nào cả. Dạ, gọi là thứ dân thôi chứ không phải thường dân đâu ạ. - Như vậy cũng đã là ghê lắm! Một cụ cắt lời đô Sắn nói chen – Đúng là từ thượng cổ chưa có chuyện con vua lấy con nhà thứ dân. - Bạch các cụ, tôi xin có đôi lời. Sư cụ lên tiếng: - Thật ra việc hoàng thái tử gá nghĩa với một thôn nữ, đối với triều Thuận Thiên cũng không lấy gì làm lạ lắm đâu ạ. Sư cụ ngưng lời nhìn mọi người. Dân làng im phăng phắc ngóng nghe lời sư. – Chẳng là đức Thuận Thiên xuất thân từ cửa Phật – sư nói tiếp, nên tâm của ngài là tâm Phật. Đã là tâm Phật thì không có sự phân biệt đối đãi. Đã không phân thứ bậc nữa thì đối đãi sao còn có phân biệt. Hoá nên một khi thái tử cầu xin, lập tức hoàng thượng y chuẩn. - Dạ đúng như thế đấy ạ. Sự việc diễn ra đúng như nhời sư cụ vừa dạy đó, đô Sắn xác nhận. Song mọi người vẫn chưa hết ngạc nhiên, vẫn cho đó là một sự lạ. Đoạn sư cụ lại quay về phía đô Sắn hỏi: - Quan tướng quân có nhớ mấy năm trước, nhân tiết Thiên thành đức Thuận Thiên, dân làng ta đem tiến kinh giọng hát của bà Đào? - Bạch cụ, con nhớ. Dạo ấy con và thái tử có gặp nhạc phụ con ở trên kinh. Nghe biết sự việc, con đã trình với hoàng thái tử. Chính nhờ có hoàng thái tử ra tay thu xếp, nên mẹ con bà Đào mới được ra mắt hoàng thượng, trình giọng hát. Dạ, bạch cụ vì rằng đồ lễ khắp nước tiến dâng, mọi thứ kỳ bí, phi phàm của đủ mọi người, mà ai cũng đều muốn đích thân đem dâng tiến nhà vua. Đông đúc đến như thế, nếu không có tay trong, thật khó mà lọt được tới bệ rồng. Dạ, bạch cụ, con có nghe nói giọng hát của bà Đào đã lay động cả hoàng cung, đã làm se thắt bao con tim của các bậc vương giả. Chính vì thế, hoàng thượng đã truyền phải thâu nhận mẹ con bà Đào vào ban nhạc cung đình. Cũng từ bữa ấy, nhà vua thường lui tới phường nhạc, để lại được nghe giọng hát của bà Đào. Bỗng một hôm ngài truyền hỏi, nương tử có giọng hát thần sầu kia tên gì. Viên trung quan bèn thưa: - Trình hoàng thượng, thị ấy tên Đào. Nhân đó vua truyền: - Từ nay các con hát đều gọi là “đào nương”. - Phước thiện thay! Sư cụ nói – Ở đời mọi việc không ra ngoài luật nhân quả, – cụ lại tiếp. Sư cụ dứt lời, không khí từ trong nhà tới ngoài sân đều im phăng phắc. Mọi người đều có ý nán chờ xem sư cụ có nói gì nữa không. Bởi trong làng, sư cụ là người được kính trọng nhất. Thử hỏi, tới cả chục năm nay, nghĩa là từ khi triều Thuận Thiên được thiết lập, các anh trai làng này, anh nào có chữ mà chẳng là học trò sư cụ. Lại các điều hơn nhẽ thiệt ai chưa thông tỏ đều phải chạy ra chùa, nhờ sư cụ giảng giải. Rồi ốm đau, tật bệnh, thuốc men có việc gì không đến tay nhà chùa. Sư cụ đúng là một bậc thầy của cả làng. Một phút im lặng qua đi, vừa đủ cho mọi người nghĩ suy về các việc hành xử của triều Thuận Thiên. Chợt ông nho Quế bèn cất tiếng nói. Ông nho Quế cũng vào loại chữ nghĩa kha khá ở trong làng. Đành rằng về sức học, ông không thể so với sư cụ là người đã từng theo học tại Đạo tràng Thăng Long. Nhưng cỡ tuổi ông ở cái làng Xuân Phương này, về đường chữ nghĩa, là ông ngang ngửa với ông xã trưởng Lương Thanh Khiết. Ông nho Quế hắng giọng: - Tôi xin được hỏi thêm về hoàng thái tử. Chúng tôi vẫn nghe nói, thái tử có về mở phủ tại hương Tam Sơn. Đồn rằng thầy, tớ, quân quyền về đấy cũng phát cây lấn rừng, làm nhà, cấy trồng như đám nông phu chúng tôi. Lại nghe nói, đích thân thái tử trần lưng ra làm như mọi người, ăn cùng mọi người. Rồi cũng phải đóng tô đóng thuế như mọi người. Chẳng hay chuyện đó hư thực thế nào ông đô Sắn? Đô Sắn liền đứng dậy, anh mỉm cười vái các cụ hai vái rồi nói: - Trình các cụ, tất cả các việc mà cụ nho Quế hỏi là thực cả đấy, chứ không phải là chuyện đồn thổi đâu ạ. Chính nhà cháu khi về hầu thái tử là từ đất Tam Sơn, cho nên mọi việc cháu đều được chứng kiến cả. Thưa các cụ, chẳng riêng gì hoàng thái tử cầm dao phát rẫy, cầm cuốc cuốc đất mà ngay cả hoàng thượng cũng đích thân nắm theo cày, cày ruộng tịch điền hằng năm ở Thăng Long kia chứ có đâu xa. Và thưa các cụ, hoàng thượng vẫn tự cấy lấy lúa gạo để làm xôi oản dâng cúng tổ tiên vào các ngày huý kị và các ngày lễ, tết trong năm. Hoàng thượng thường răn dạy các hoàng tử, không ỷ lại vào dân, mà phải tự mình làm ra phẩm vật của mùa vụ để dâng kính tổ tiên, ấy là đạo hiếu! Một khi hoàng thượng đã có nhời răn bảo, các hoàng tử sao dám trái ý ngài. Ông nho Quế giơ tay lên vái trời: - Con lạy chư thiên, một triều đại như thế, đạo nghĩa như thế, đạo lý như thế dân ta ắt được cậy nhờ. Cái đói, cái rét, cái bất nhân, cái ngu muội chắc không còn được dung dưỡng như dưới triều Lê Long Đĩnh nữa. - Đúng là như vậy đấy! Các người cứ ngẫm mà xem, sư cụ nói.