Q1 Chương 26.
Tiết Thiên thành năm nay Trung thư sảnh[81] dâng sớ xin vua cho Sáu bộ, Sáu khoa cùng các trấn lộ đến lạy mừng. Lại xin cho kinh thành Thăng Long được mở hội, theo ý nguyện của dân chúng muốn được bày tỏ lòng trung với triều Thuận Thiên. Trung thư sảnh viện cớ rằng từ năm Đinh Tỵ tới năm Canh thân, nhà vua đã không cho triều đình và dân trong nước được vào cung chúc thọ. Các lễ đều đình hoãn. Nếu nói các năm trước, Trời có ý răn đe đã đành. Nhưng năm ngoái cả nước bội thu liền hai vụ lúa. Bão lụt không có. Hoàng thái tử Khai Thiên vương vâng mệnh vua lĩnh ấn nam chinh, đánh thắng người Chiêm Thành thường cho binh sang quấy nhiễu. Thái tử đã chém được tướng Chiêm là Bố Linh, lại tiêu diệt quá nửa số quân của trại Bố Chính. Cuối năm, kỳ lân lại xuất hiện ở Châu Hoan. Đó chẳng phải là điềm Trời hết giận, Trời thương rồi sao…
Đọc đi đọc lại bản tâu của Trung thư sảnh, vua Thuận Thiên lòng vẫn phân vân chưa quyết, bèn sai nội thư gia tìm các bản tấu của các ông tả, hữu gián nghị đại phu Lương Tằng và Trịnh Văn Túc vào các năm Đinh Tỵ, Mậu Ngọ ra đọc lại. Bản tấu của hữu gián nghị đại phụ Trịnh Văn Túc viết: “Năm ngoái, cả nước được mùa to. Nhân đó bệ hạ lại xá tô thuế ba năm liền để hồi phục sức dân. Ấy là đức lớn không dễ gì triều đại nào cũng làm được. Nhưng sao gần cuối năm, trời không mưa gió mà sét đánh sạt một góc điện Càn Nguyên, khiến bệ hạ phải dời việc coi chầu sang điện bên Đông. Từ khi được thiên hạ, bệ hạ đã làm không biết bao nhiêu việc to lớn ích quốc lợi dân. Ấy thế mà Trời vẫn chưa cho là được, nên mới có chuyện răn đe. Ắt là thời trước, hôn quân Lê Ngọa triều gây nhiều tội ác, bao nỗi oan khuất uất ức, thần, người đều chưa nguôi. Xin bệ hạ cho soát lại án tù, ân giảm nhất loạt, bỏ án tử hình. Lễ, tiết nên giản đơn. Cái nào bỏ được thì bỏ. Việc đàn chay cúng kiếng cốt ở tâm thành chứ không phải nơi lễ trọng. Trong cung nên lấy sự kiệm ước để làm gương cho thiên hạ”. Cầm bản tấu lật đi lật lại, đọc đi đọc lại, vua nghĩ, các điều Văn Túc nói đều phải cả. Các việc Văn Túc khuyên đều đúng cả. Ta cũng đã làm như Túc nói. Kể cả việc ta bãi bỏ lễ Thiên thành là ngày sinh của ta. Vậy mà năm nay Trung thư sảnh lại xin cho khôi phục tiết Thiên thành. Một lát, nhà vua lại cầm xem bản tấu của quan Tả gián nghị đại phu Lương Tằng. “… Từ ngày nắm giữ ngôi trời, không lúc nào bệ hạ không lo nghĩ về đời sống và sinh mệnh của người dân. Thời gian ở ngôi mới được mười năm, nhưng không giấy bút nào ghi xuể các việc làm đại nhân đại nghĩa của triều Thuận Thiên. Từ thượng cổ chưa triều đại nào mới chấp chính có mười năm, đã sáu năm tha tô thuế cho toàn dân. Nhưng thần cứ băn khoăn tự hỏi, vì sao giữa mùa đông, trời không có mưa gió sấm chớp gì, lại tự nhiên nổ ra một tiếng sét đánh sạt góc điện bên Đông, nơi bệ hạ coi chầu. Nay lại phải lấy điện bên Tây để vua coi chầu. Sét đánh điện Càn Nguyên và điện bên Đông giữa lúc trời quang mây tạnh, chẳng nhẽ đó không phải là điềm Trời răn sao? Răn thôi chớ không phạt. Vì cả hai lần sét đánh, đều không phải lúc vua coi chầu, đều không có người chết. Thần trộm nghĩ, ắt trong thiên hạ còn nhiều người già cả cô đơn không nơi nương tựa mà chưa được chăm sóc. Nhiều trẻ mồ côi cù bơ cù bất đầu đường xó chợ còn chưa được đoái tới. Hoặc các nơi núi, chằm, bờ biển sạt lở không được bồi đắp. Hoặc còn nơi thâm sơn cùng cốc nào đấy mà ân, uy của bệ hạ chưa tới được. Hoặc nơi đền miếu nào đấy bị bỏ hoang phế, từ thời hôn quân Lê Ngọa triều còn chưa được tu bổ, hương khói. Xin bệ hạ cho Sáu bộ, Sáu khoa nhất loạt kiểm xét trong cả nước và có chính sách tu chính cấp thời. Việc khoan nới sức dân cùng việc kiệm ước của triều đình, xin bệ hạ luôn coi trọng”. Lương Tằng cũng giống như Văn Túc thường khuyên điều phải. Ta đã làm theo những lời khuyên tâm huyết của họ. Ta biết hai người này đều có nhân cách cao thượng. Nhớ những năm đầu, ta phải đánh dẹp nay đây mai đó; cũng hai người này đã dâng sớ can ta, nhời nhẽ thật là thống thiết, gay gắt. May mà ta kìm nén được. Vua Thuận Thiên trầm ngâm sau khi đọc lại hai bản tâu của hai vị tả, hữu gián nghị đại phu cách nhau hai năm. Vua tự nhủ: – Họ không gay gắt, không đòi ta phải làm cái nọ bỏ cái kia, mà chỉ hướng ta vào các việc vì lợi ích quốc gia. Những người chăn dân, nếu thương dân thật lòng, sao có thể thoái thác. Vả lại, làm điều thiện là bản tính của ta. Ta lớn lên nơi cửa Phật. Các thầy ta đều là các bậc đạo cao đức trọng, các bậc thiện trí thức, đã không tiếc công tiếc sức giáo hoá ta trở thành người đứng đầu trăm họ. Vậy trách phận của ta là phải chuyển tải những ý tưởng thâm viễn của thầy vào cuộc sống thế gian. Trong khi nhà vua còn đang miên viễn với ý tưởng cao đẹp, bỗng có tiếng nói vọng lên từ dưới bậc thềm. - Thần bạo gan vào tham kiến bệ hạ, xin bệ hạ tha tội. Vua Thuận Thiên vừa quay lại, đã thấy quan hữu gián nghị đại phu Trịnh Văn Túc quỳ trước thềm điện. - Là khanh à! Ta đang nghĩ về khanh. Miễn lễ, vua Thuận Thiên vừa nói vừa dắt tay Trịnh Văn Túc vào nội điện. Nội thị dâng trà xong, vua hỏi: - Vậy chớ khanh vào nội điện tìm ta có việc gì can ngăn khẩn cấp đây? Hoặc khanh cáo giác đàn hặc ai đây? Ta miễn lễ, khanh cứ ngồi nói cho tự nhiên. Trịnh Văn Túc nâng hai tay sửa lại vành mũ và dải mũ cho ngay ngắn, rồi vòng tay thưa: - Tâu bệ hạ, nếu thần đàn hặc hoặc cáo giác ai mà vào nội điện, thì việc thần làm đâu còn minh bạch nữa. Các việc ấy, tâu bệ hạ, nếu xảy ra phải giữa chốn triều đình, giữa thanh thiên bạch nhật. Còn việc can ngăn khẩn cấp, chắc là không. Vì rằng, các việc bệ hạ hành hoá lâu nay, dường như đã đi vào đúng then máy của Đạo rồi, lũ thần sao còn dám mở mồm cản ngăn bệ ha. Lý Công Uẩn vỗ tay cười lớn. Dứt tiếng cười nhà vua nói với giọng thân tình: - Ta bắt quả tang quan Gián nghị đại phu bên Đài ngự sử nói lời nịnh vua. Nào khanh đã cứng họng chưa. Trịnh Văn Túc cũng bật thành tiếng cười sảng khoái. - Tâu bệ hạ, nếu thần có nịnh bệ hạ thì cũng như thần nịnh trời cao, có gì lạ đâu. - Khanh láu lắm! Thôi có gì nói mau. - Bệ hạ, lũ thần nghe bên Trung thư sảnh có bản tâu về tiết Thiên thành năm nay, chờ mãi không thấy bệ hạ hồi âm. Sợ cận ngày quá, lại trễ công việc. - Chính ta đang xem xét việc đó thì khanh đến. Đây, cả bản tấu của khanh, tấu của Lương Tằng, tấu của Trung thư sảnh. Nhà vua giơ cả ba bản tấu cho Trịnh Văn Túc xem rồi tiếp: – Ta biết, nếu để cho triều đình làm lễ Thiên thành, vua tôi gặp nhau trong ngày vui cũng tăng phần thiện cảm. Nhưng ta vẫn chưa hết lo về hai vụ sét đánh giữa ban ngày, giữa lúc trời quang mây tạnh. Đánh vào điện Càn Nguyên, ta phải dịch việc coi chầu sang điện bên Đông. Lại đánh vào điện bên Đông, khiến ta lại phải dịch việc coi chầu sang điện bên Tây. Khanh và Lương Tằng khuyên ta thế là phải. Ta còn làm nhiều hơn các việc mà hai khanh xướng xuất. Ta không run sợ sao được, khi mà Trời răn quở. Chính vì thế mà mấy năm nay các việc chi tiêu xa phí như xây cất cung điện ta đều dẹp bỏ. Hoặc lương bổng cho tam cung lục viện, hoặc việc ăn việc mặc, việc đi lại du ngoạn, tất thảy ta đều phải để mắt tới, phải lấy sự kiệm ước làm đầu. Ta phải lấy việc phát triển dân sinh, mở mang dân trí, khai phóng dân tâm làm quốc sách lâu dài. Ngay cả việc lấy ngày sinh của ta làm tiết Thiên thành, mấy năm nay ta cũng cho bãi hết. - Nhưng năm nay và các năm sau xin bệ hạ cho tiến hành bình thường, Trịnh Văn Túc chen ngang lời vua. - Sao lại phải làm như vậy? – Vua hỏi. - Tâu, mấy năm qua Trời có ý răn dạy, bệ hạ làm như vậy là tỏ lòng tuân phục, lòng kính cẩn, tưởng thế là đủ. Vả lại, đây là triều Thuận Thiên phải chấn chỉnh, phải sửa đổi những điều sai quấy, những tội ác mà hôn quân Ngọa triều gây ra. Vì lỗi không do triều Thuận Thiên, nên trời chỉ ra oai chứ có trách phạt gì bệ hạ đâu. Lại từ năm ngoái tới giờ, biết bao điềm lành xuất hiện như kỳ lân ở Châu Hoan, voi trắng ở Đà Giang, các động sách người Man phía bắc, phía tây đều một lòng quy phục triều đình. Hoàng thái tử Khai Thiên vương tự mình cầm quân đánh dẹp mặt nam, thu toàn thắng. Mưa ra gạo đầy sân chùa Tư Phúc. Tất cả những việc đó chẳng phải điềm lành do Trời làm ra ư? Cho nên bệ hạ không nên khư khư giữ lấy sự tiết giảm cho một ngày lễ sinh nhật là điều lợi nhỏ mà bỏ mất phép tắc của một nước có văn hiến là điều lợi lớn. Tâu, đây mới là việc thần can bệ hạ. - Thôi được, ngày mai thiết triều ta sẽ y tâu của Trung thư sảnh. - Đội ơn bệ hạ. Thần vào cung chỉ có một việc đó. Nay xin bệ hạ trị tội thần đi. Nhà vua ngạc nhiên hỏi: - Vậy chớ khanh có tội gì? - Thần dám đường đột vào điện Dưỡng Tâm làm kinh động đến bệ hạ. Nếu bệ hạ không trị tội thần thì luật pháp đâu còn nghiêm nữa. Vả lại tâu bệ hạ, người của Ngự sử đài mà phạm pháp, phải trị tội nặng gấp đôi. Nói rồi Trịnh Văn Túc quỳ trước thềm chờ vua phán xét. Tình thế dẫn nhà vua vào chỗ khó xử. Vua thầm nghĩ: Túc can ta là vì việc nước chứ không phải việc của nhà y. Nhưng Túc tự tiện vào điện Dưỡng Tâm, là nơi yên tĩnh, dành cho hoàng đế nghỉ ngơi. Điện Dưỡng Tâm cũng là nơi thảo chiếu quan trọng mà nếu không được phép của ta, các đại thần kể cả hoàng thân quốc thích, đều không được vào. Nếu ta không trị tội Văn Túc thì luật không nghiêm. Nếu trị tội Văn Túc, thì lòng ta cũng không yên. Hai tay chắp sau lưng, long bào quét thềm, vua Thuận Thiên cứ đi đi lại lại nghĩ suy xem có cách nào hoá giải được việc này. Mải nghĩ, nhà vua quên cả Văn Túc đang quỳ ngoài thềm chờ thánh chỉ. “Phải rồi, nhà vua vỗ tay lên trán tới ba lần. – Muốn tha tội cho Văn Túc chỉ có cách là phải sửa luật”. - Văn Túc! Văn Túc khanh đâu rồi! Ta đã có cách. Nhà vua gọi hối hả. - Tâu bệ hạ thần đang ở đây. Nhìn ra ngoài thềm, thấy Trịnh Văn Túc vẫn quỳ. Nắng chiều xói vào làm mồ hôi trán quan ngự sử hữu gián nghị đại phu chảy ròng ròng. - Ôi ta vô tâm để khanh phải quỳ lâu quá. Đã bảo miễn lễ kia mà. Khanh vào kỷ ngồi đi. Ta sẽ nói diệu kế. Vua cầm cây vồ nhỏ gõ vào cái chuông bé tạo ba tiếng, một viên quan thị mặt xám như chì, người loắt choắt khó đoán tuổi. Y mặc chiếc áo thụng xanh, dây lưng thắt ngang bụng, đầu đội mũ ô sa, khom lưng trước nhà vua, tai hơi nghiêng chú tâm lắng nghe lệnh truyền. - Mỹ tửu! Loáng cái viên quan thị[82], tức là trung quan bê một khay bạc trên đặt be rượu và hai chiếc chén ngọc. Vua thân rót rượu mời Văn Túc. Quan hữu gián nghị đại phu hai ba lần cảm tạ rồi nâng chén uống. Đoạn nhà vua phán: - Ta trọng khanh là người có nhân cách cao thượng, thấy việc nghĩa xả thân làm, không mưu cầu danh, lợi. Khanh là người trung dũng, một kẻ sĩ như khanh không phải thời nào cũng có được. Song ta cũng phải nói thực lòng, nếu như ta không được các bậc đại lão thiền sư cải hoá cho được cái tâm thiện, và không có lòng bao dong chắc là vua tôi không có được ngày nay. Vì bọn khanh nhiều khi cứng quá. - Tạ ơn bệ hạ. Bệ hạ có được cái tâm Đạo, ấy là điều phúc hạnh cho nước hơn là cho thần. - Khanh thật đáng ghét. Khanh nói điều gì cũng đúng, cũng chí lý cả. Ta định mai ra triều, sẽ cho bãi bỏ việc ngăn cấm các quan bên Ngự sử đài vào điện Dưỡng Tâm tâu báo khi có công việc khẩn cấp. Đương nhiên không còn ai dám nói gì đến khanh nữa. Nhân đây ta muốn đọc lại một câu cách ngôn mà thầy Vạn Hạnh dạy ta từ hồi còn là một chú tiểu để chia sẻ cùng khanh. Đó là: “Làm điều thiện như mang nặng leo núi, chí tuy vững nhưng sức còn sợ không leo nổi. Làm điều ác như cưỡi ngựa xuống dốc, roi tuy không đánh mà chân ngựa vẫn khó kìm”. - Tạ ơn bệ hạ, thần sẽ coi câu cách ngôn đó chính là lời răn của bệ hạ để rèn đức và sửa mình. Thăng Long vào hội! Hội mừng lễ Thiên thành tức lễ đản sinh nhà vua. Dân chúng hồ hởi. Bởi chưa có dịp nào người dân kinh thành được tỏ lòng tri ân nhà vua. Những năm trước, lễ Thiên thành chỉ làm hẹp trong phạm vi triều đình, năm nay mới bố cáo cho toàn thiên hạ biết. Và cũng chỉ có kinh thành Thăng Long được đặc ân mở hội. Dân kinh thành nườm nượp đi sửa sang đường phố, chăng đèn kết hoa. Nhà nhà đều quét dọn gọn ghẽ, cổng ngõ ngóc ngách phố phường đều sạch sẽ tinh tươm. Mùa xuân, khí trời dịu mát, thỉnh thoảng có một vài đợt mưa phùn, rồi nắng ấm lại hoe lên. Cây cối đâm chồi, nảy lộc xanh um. Chanh bưởi từ các vườn nhà nở hoa thơm ngát. Đường Muỗm thuần những cây cổ thụ xanh um, hoa nở đầy xum xum như những mâm xôi khổng lồ, nhuỵ hoa li ti rụng phủ kín đường cái quan, khiến con đường như được trải tấm thảm nhung nâu, dài hun hút. Và kia là Đường Hoè, trước tết nom xơ xác đen thui, cả một dặm dài đứng lặng trong giấc ngủ đông. Thế mà mới sang xuân, Đường Hoè như bừng tỉnh, những mầm non lá nõn oà nở sáng cả cung đường. Thân cành đều căng mọng và như sắp rạn nứt ra, vì sức sống mùa xuân làm cho nhựa cây chuyển vần hối hả. Đường phố và nhà dân đều sáng sủa, sạch đẹp. Nhưng rực rỡ thì phải nói đến khu vực hoàng thành và cấm thành. Bốn cửa hoàng thành như Đại Hưng ở phía nam, Diệu Đức ở phía bắc, Tường Phù ở phía đông, Quảng Phúc ở phía tây đều trang hoàng đèn lồng, đèn kéo quân cùng cờ thần, phướn Phật nối nhau giăng mắc. Nhất là hai cửa Đại Hưng và Tường Phù đèn hoa, cờ phướn kéo dài về hai bên tả hữu. Khi đêm xuống, cả vạn chiếc đèn thi nhau toả sáng, từ xa nom tựa dải Ngân hà sà xuống ôm lấy hoàng thành. Trong cấm thành, các điện Càn Nguyên, điện Tập Hiền, quán Thái Thanh, chùa Vạn Tuế, điện Nhật Quang, điện Nguyệt Minh, lầu Ngũ Phượng tinh… vốn đã nguy nga tráng lệ, nay lại trang hoàng thêm, thật muôn phần lộng lẫy. Ngoài cửa Quảng Phúc dựng hẳn một ngọn núi kết bằng tre xanh cao chất ngất có bốn chữ “VẠN THỌ NAM SƠN” xếp thuần bằng đèn kéo quân chạy đủ các tích trò. Trước cung Long Trì có một sân rộng mênh mông, các phường hát nổi tiếng của kinh thành và tứ trấn, được tin Thăng Long mở hội nhân tiết Thiên thành, cũng nô nức kéo nhau về công diễn. Họ đang căng màn, dựng rạp để chờ ngày khai diễn. Đêm trước ngày đại lễ, các cao tăng đã tề tựu trong chùa Vạn Tuế, làm lễ cầu phúc cho nhà vua. Các bậc sư trưởng như Vạn Hạnh thiền sư, Định Hương trưởng lão, Ma Ha thiền sư, Hương Nghiêm thiền sư… thảy đều có mặt cầu phước cho nhà vua, cầu cho quốc thái dân an. Bên quán Thái Thanh, các đạo sĩ Huyền Linh, đạo sĩ Viên Sơn… cũng lập đàn tràng cầu Ngọc hoàng thượng đế, cầu Thái thượng Lão quân ban phước cho nhà vua được trường thọ. Sớm ngày mười hai tháng hai, vua ra ngự tại điện Càn Nguyên. Bữa nay nhà vua vận áo long bào bằng gấm đại hồng, đội mũ bình đính có chuỗi bạch ngọc rủ tua trước trán. Hàng trăm ngọn bạch lạp thắp sáng choang cả nội điện. Mấy đỉnh trầm xông hương thơm ngào ngạt. Các quan thuộc sáu bộ, sáu khoa, các đô, đài, sảnh, viện lần lượt vào lạy mừng và dâng đồ lễ. Tới lượt các thiền sư, các đạo sĩ vào mừng, vua thân xuống thềm điện nghênh đón. Sau những lời chúc tụng và tung hô, vua Thuận Thiên xúc động, nói mấy lời cảm tạ. Sau lễ khánh chúc vua dụ mời các vị thiền sư, đạo sĩ và trăm quan về điện Tập Hiền thết yến. Lại nói ông Lương Thanh Khiết, xã trưởng xã Xuân Phương được làng cử đem tiếng hát của mẹ con bà Đào lên kinh để dâng thánh thượng. Thực tên bà là Phúc, họ Đào; nhưng làng vẫn quen gọi là bà Đào. Người quyền thế thì gọi bà là Đào thị. Hai anh trai làng tháp tùng ông xã trưởng cùng ba mẹ con bà Đào lên kinh. Ông xã trưởng tuy nhà giàu có, nhưng ít giao du, nên bạn bè ở Thăng Long hầu như không có. Khi miền đất này còn là thành Đại La, ông được cụ thân sinh cho theo đi mua sắm ít đồ nấu như hải sâm, vây cá về để làm lễ đại thọ. Khi vua Thuận Thiên dời đô từ Hoa Lư về, đổi tên là Thăng Long. Nghe nói có rồng vàng hiện lên bên thuyền ngự, rồi lại bay vút về trời. Vài năm sau, ông có tới thăm Thăng Long, thì mọi vật đã đổi khác so với thành Đại La trước. Thực tình ông không nhận ra gương mặt cũ của Đại La. Tớ thầy còn đang ngó nghiêng đi tìm nhà trọ. Trong khi trời đã xế chiều, mọi người đã mệt mỏi sau ba bốn ngày lội bộ. Nhất thằng Cún, con bà Đào, thằng bé chưa đầy mười một tuổi, lần đầu tiên đi xa như thế. Đôi chân nó bước đi một cách nặng nề. Được cái gan cóc tía, nó chưa bao giờ đòi nghỉ trước khi ông xã trưởng cho nghỉ; cũng như nó chưa bao giờ thốt ra nửa lời kêu ca. Đang đi, bỗng có bốn năm con ngựa với từng ấy tay cương dừng lại trước mặt ngáng đường. Bốn người xuống ngựa, một người vẫn ngồi trên lưng con ngựa tía. Bỗng một chàng trai đến trước ông xã trưởng cúi đầu: “Con chào thày”. Nghe giọng nói quen quen, ông xã trưởng ngửng nhìn. - Sắn! Sắn! Con đấy à. Ông xã trưởng mừng quýnh: – Sao con lại ở đây? Thày tưởng con vẫn theo hầu thái tử ở Tam Sơn. - Dạ thưa thày, thái tử về triều để ngày mai mừng thọ hoàng thượng nhân tiết Thiên thành. Hoàng thái tử đang ngồi trên lưng ngựa, con mời thày lại chào ngài. Thấy ông già đi lại phía mình, thái tử vội xuống ngựa. Hỏi ra mới biết ông là xã trưởng hương Xuân Phương, dẫn phường hát của xã lên hát mừng thọ vua cha. Hiện mọi người đang loay hoay tìm nhà trọ. Thái tử cho người dẫn xã trưởng Lương Thanh Khiết đến giao cho Lương Minh Châu, phường trưởng phường Cửa Đông là dân sở tại, lo chu tất chốn ăn ở. Thái tử hứa thế nào cũng thu xếp cho phường hát xã Xuân Phương được ra mắt nhà vua. Trên đường về cung, Sắn kể hết khúc nhôi về cuộc đời và gánh hát của ba mẹ con bà Đào Thị Phúc, nhất là giọng hát của bà thì thế gian khó kiếm. Thái tử vốn là người say mê âm nhạc, lại giàu lòng nhân ái, thấy cảnh ngộ bất hạnh của mẹ con bà, càng thôi thúc chàng ngày mai phải thu xếp cho bằng được với các viên thượng cấp môn sứ sắp đặt, để mẹ con Đào thị được phô diễn giọng hát hầu phụ vương. May ra mẹ con thị được thu nạp vào ty giáo phường, thì đây cũng là cái phúc đổi đời của mấy người bất hạnh. Sân Long Trì diễn ra không biết bao nhiêu trò vui. Chỗ này diễn võ, chỗ kia đấu vật. Chỗ này vừa chạy vừa đốt lửa thổi cơm thi. Chỗ kia trống phách rập rình đang rước tới mấy chục cặp “nõ” – “nường” to như chiếc nón đội đầu và chiếc chày giã cua, lại sơn phết màu mè nom đến nực cười. Các chàng trai, các cô gái cầm nõ của nam và cầm nường của nữ được chọn thuần những người to khoẻ, đẹp gái, đẹp trai. Họ chỉ trong độ tuổi từ mười tám đến hai mươi. Con gái môi đỏ như tô son, má hồng như trái đào lên mã. Con trai má còn đậm lông tơ, tóc cứng mà đen nhức. Con trai đóng khố đỏ, con gái mặc váy màu nâu tươi, yếm lụa màu mỡ gà, cổ xẻ che kín ngực, hai cánh tay và bả vai để trần. Họ nhảy từng bước theo nhịp trống và miệng đọc lời thiêng “TINH! TINH PHOỌC!”. Trẻ con, người lớn chạy theo đám rước nõ – nường đông như kiến. Có nhẽ không có trò nào đông vui như trò này. Trẻ nhỏ thì chạy theo cái hiếu kỳ. Người lớn thì thích thú cảnh này trong những ngày hội chen, hoặc trong các tiệc rượu đêm, khi mọi người đã say khướt, tửu lệnh (chủ trò) ra lệnh tắt đèn đuốc. Và phút hỗn dâm bắt đầu. Có nhẽ cái tâm điểm của ngày hội là ở trò hấp dẫn này. Vì thế các tích cứ diễn đi diễn lại mà năm nào hội cũng vẫn đông. Từ cổ xưa, sau cuộc rước NÕ – NƯỜNG là tiếp đến cuộc chen. Trai gái ùa vào chen vai thích cánh nhau cho đến lúc toát mồ hôi, áo, khố, yếm, váy bật tung, cũng là lúc đèn đuốc tắt phụt. Trống, chiêng ngừng bặt. Trời tối om. Ấy là lúc trai gái thoả sức tự do… Và may mắn cho cô nàng nào sau hội chen lại sinh ra được một mụn con, thì đứa nhỏ đó được cả làng nâng niu quý trọng. Bởi dân gian cho đó là con Thánh. Và đứa nhỏ đó suốt đời phải chịu cảnh không có bố. Cho dù mẹ nó có biết rõ bố đứa trẻ là ai cũng không dám nhận. Vì nếu nhận, lập tức sẽ bị làng ghép vào tội gian dâm. Điện Tập Hiền có hành lang bốn mặt rộng, thoáng. Những hàng cột gỗ sơn son thếp vàng, cột nào cũng giăng mắc đèn, nến, nom cung điện rực rỡ như chốn thiên tiên. Các phường nhạc vừa tấu xong khúc “Nguyên hoà”, các quan dâng rượu tiến vua. Nhà vua tay cầm chén ngự tửu bước xuống bậc tam cấp. Ngửng nhìn khắp lượt các triều quan, vua bèn đặt chén rượu vào chiếc khay ngọc do một viên quan thị đang khom lưng bê chiếc khay không, đứng xế phía sau ngài. Vua nói: - Bữa nay, vua tôi được sum vầy. Trăm họ no ấm. Khắp các nẻo biên thuỳ bắc, nam đều yên ổn. Các nước lân bang không dám ngó dòm, các khanh có biết vì sao không? - Vì đức lớn của bệ hạ! Các quan đồng thanh đáp. Lại hô: - Hoàng thượng thiên tuế! - Hoàng thượng vạn tuế! Vua Thuận Thiên xua tay, lắc đầu. – Ta cảm tạ lời nói tốt đẹp của các khanh. Ta lưu ý các khanh, nước được như ngày nay là do lòng dân yên ổn. Chính là cái tâm của dân đã định được. Dân tâm an định, thế nước ắt vững như bàn thạch. - Nước được như ngày nay, vua Thuận Thiên nhắc lại, – là nhờ phúc ấm tổ tiên, là nhờ Trời, Phật hộ trì. Vua ngưng lại nhìn khắp lượt quần thần rồi tiếp, – nhưng cái chính là nhờ vào trăm họ, nhờ dân chúng đấy. Các khanh nên nhớ, phải hết sức chăm lo mọi mặt cho dân, cũng tức là tận tâm làm cho nước chóng được giàu mạnh. Tuy nhiên, ta không thể không nói lời cảm tạ chư khanh, đã vì ta mà bao năm nhọc sức. Ta biết, ta chăm lo cho các khanh chưa được là bao. Dẫu sao cái thời cam go của nước, vua tôi ta đã vượt thoát qua rồi. Nay ta có chén rượu vui nhân ngày đản của ta, mời các khanh cạn chén. Các quan nhất loạt nâng chén rượu lên ngang mày, nói lời cảm tạ. Các phường nhạc lập tức tấu khúc “Thái hoà”. Nhạc tắt. Vua tôi vui vầy yến ẩm, chuyện nổ ran như pháo. Người ôn lại chuyện cũ thời Lê Ngọa triều. Người nói chuyện đánh dẹp quân man Tống, diệt gọn hai mươi vạn quân của Dương Trường Huệ, Đoàn Kính Chí. Người lại nói chuyện đem một trăm con ngựa chiến nòi Hồ sang cống vua Chân tông nhà Tống. Chuyện cũ từ năm Giáp Dần, nhưng nhiều người vẫn còn muốn nghe lại. Người ta thường kể đi kể lại cho nhau nghe. Chuyện tam sao thất bản. Nay được nghe từ cửa miệng các quan chánh phó sứ, ai mà chẳng thích. Sử quan Hoàng Công Bình đang ngồi ở bàn bên cạnh cũng nghiêng vành tai để nghe lại câu chuyện. Thật ra thì ông đã được nghe chính các quan chánh, phó sứ về tâu lại cặn kẽ trước hoàng thượng diễn tiến của sự việc. Và ông đã có ghi chép không bỏ sót một chi tiết nào vào cuốn biên niên sử. Tuy vậy, theo ông, vẫn cứ phải nghe đi nghe lại nhiều lần; vì rất có thể các lần trước các quan chánh phó sứ còn bỏ quên một vài việc chưa kể hết, nay bổ túc thêm vào. Hoặc giả, các sự, các việc mà các ông tô vẽ thêm vào, nay chắc sẽ không còn nhớ để mà kể. Phải, chỉ có nghe đi, nghe lại như thế để chắt lọc thì mới được một sự thật đáng cho đời sau tin cậy. Bỗng quan ngự sử Phạm Khiêm Ích ngồi đối diện với viên ngoại lang Phùng Chân, nguyên là chánh sứ đoàn sang nước Tống năm Giáp Dần bèn lên tiếng: - Có một số người đã được nghe quan chánh sứ kể chuyện vua ta cống ngựa vua Tống năm Giáp Dần, nhưng chuyện xảy ra tới gần chục năm rồi. Nhiều người chỉ được nghe thuật lại, chi bằng quan huynh một lần nữa kể vắn tắt để mọi người nghe cho nó sướng cái tai. - Đúng đấy! - Đúng đấy! Xin viên ngoại lang cho nghe chuyện đi sứ. Kể nhiều lần nên Phùng Chân như đã thuộc nằm lòng. Và ông cũng không cho đó là việc phiền toái. Vả lại, mọi người, kể cả người dân trong nước cần phải biết đến cái sự quan hệ bang giao này. Nghĩ vậy, quan viên ngoại lang bèn vuốt râu cười ha hả: - Đời tôi đã chứng kiến nhiều chuyện. Nhưng không có chuyện nào lại đắc ý như chuyện đi sứ nhà Tống năm Giáp Dần. Năm ấy, sau khi vua ta phá tan âm mưu của Tống Chân tông, định dùng sức mạnh người man Tống đè bẹp nước Nam ta. Chiến cuộc năm ấy, chắc các vị còn nhớ cả. Nhưng để cho vua tôi nhà Tống ôm hận và ngấm đòn, vua ta sai lũ chúng tôi đem một trăm con ngựa nòi Hồ sang Tống báo tiệp, và cũng là cống vật của nước ta. Lúc đầu, mọi người chưa hiểu thâm ý của vua ta, sau vỡ lẽ mới biết hoàng thượng thực là sáng suốt. Dường như sau khi nước ta tiêu diệt sạch sành sanh hai mươi vạn quân (tất nhiên trong đó có nhiều quân ô hợp) của Dương Trường Huệ và Đoàn Kính Chí, thì vua tôi Tống Chân tông hết sức bối rối. Và chỉ sợ bên ta nhân chuyện này làm khó cho họ. Bởi vậy, để lấy lòng sứ giả, Chân tông xuống chiếu cho các quan sở tại, những nơi có sứ thần nước ta đi qua, phải đón tiếp long trọng, đệ trạm phải cung đốn cho đầy đủ. Nhất nhất không để xảy ra điều gì sơ khoáng, khiến sứ giả phải phàn nàn. Vì vậy, khi sứ đoàn ta cùng với cả trăm con ngựa chiến, làm tung bụi mịt mù suốt mấy dặm đường trước cửa ải, thì viên quan biên trấn bạt vía kinh hồn. Họ tưởng bên ta đem quân trách phạt nhân vụ Dương Trường Huệ, Đoàn Kính Chí. Tới khi sứ ta đệ trình quốc thư cùng các đồ tuế cống xin qua ải, họ mới hoàn hồn. Viên đô tướng trấn Nam thuỳ cứ lắc đầu lia lịa: “Lạ quá! Đồ cống lẽ gì mà kỳ quặc, cứ như là quân thiết đột của Tây Hạ vậy”. Thời ấy, tây thuỳ nhà Tống bị quân Tây Hạ đánh cho tơi tả. Vì vậy nhìn thấy ngựa là họ sợ. Các quan đều lấy làm thích thú, mọi người cười hể hả. Bỗng quan trung thư thị lang hỏi: - Quan huynh cho bọn đệ nghe cái đoạn các quan hàng tỉnh bên nước Tàu tiếp sứ đoàn ta như thế nào đi. Viên ngoại lang Phùng Chân lấy làm đắc ý lắm, ông ve vuốt chòm râu bạc tới hai ba lần, rồi mới cất cái giọng trầm ấm lên nói tiếp: - Thưa các quan, do ta đánh tan đội quân xâm lăng mấy chục vạn của Dương Trường Huệ, Đoàn Kính Chí mà thực chất là quân binh nhà Tống. Vì vậy, thanh thế của sứ đoàn được coi trọng chưa từng thấy trong lịch sử bang giao với triều Tống. Nghĩa là đoàn sứ giả đi tới địa đầu tỉnh nào thì quan đầu tỉnh ra nghênh đón, và mở tiệc yến chiêu đãi. Không những sứ giả được trọng nể, mà lũ ngựa cũng được săn sóc chu đáo. Giám mã của ta kén rất kỹ các loại thức ăn như thóc khô, cỏ tươi, cả việc cho ngựa ăn trứng gà để chúng bóng da, mượt lông cũng đều có trong thực đơn của ngựa. Lại cả việc tắm táp, chuồng trại và cắt xén lông bờm, lông đuôi các đệ trạm của Tống đều không được sơ khoáng. Đám các quan đầu tỉnh rất sợ sứ đoàn đem các khiếm khuyết của họ tâu lên vua Tống. Bởi vậy, họ săn sóc chu đáo khi sứ đoàn lưu trú, và quà cáp rất hậu hỹ khi sứ đoàn lên đường. Khi đoàn vào tới Biện Kinh, tể tướng Vương Khâm Nhược thân ra tiếp sứ, và ngay đêm đầu tiên đã sai bày yến chiêu đãi sứ thần, gọi là tiệc tẩy trần. Ngày hôm sau, Tống Chân tông đích thân tiếp sứ tại điện Sùng Đức. Chân tông không ngớt lời ca ngợi vua ta và ban thưởng nhiều đồ quý cho từng người trong sứ đoàn. Về Chân tông á. Thật tình ông ta là một người nhút nhát, không có chính kiến. Một điều lạ nữa là sứ đoàn của ta muốn đi đâu cũng được, muốn ở lại bao lâu cũng được, rồi muốn khi nào về nước cũng được. Chưa bao giờ, và cũng chưa có thời nào thiên triều lại dễ tính đến như vậy. Câu chuyện đi sứ đang hồi hấp dẫn thì có tiếng giáo trò nổi lên rộn rã. Một cậu bé mặc áo cánh màu nâu đỏ thắt dải khăn đầu rìu, đeo một chiếc trống khẩu trước ngực bước ra giáo trò. Cậu bước đi khoan thai đĩnh đạc, vẻ mặt hơi trang nghiêm nhưng vẫn có nét ngộ nghĩnh. Cậu cúi đầu chào nhà vua, chào bốn phía rồi vừa múa vừa hát: Trình làng trình chạ Thượng hạ tây đông Tư cảnh hoà trung Nghe tôi giáo trống Tới đây, cậu dừng lại vừa nhảy, múa vừa vỗ một hồi trên hai mặt trống, rồi nói tiếp: Trướng không phong động Cũng bởi trống tôi Làng đã vào ngồi Tôi xin diễn tích… Nói xong, cậu bé lại cúi chào rồi lui về chỗ ngồi. Cậu bé đó chẳng phải ai xa lạ, chính là thằng cu Cún con bà Đào. Bà Đào Thị Phúc xúng xính trong bộ áo dài màu cánh trả, yếm lụa màu mỡ gà, cổ xẻ cánh nhạn, thắt lưng màu hoa hiên, váy lụa sồi đen nhức, tay cầm chiếc quạt lụa che nửa mặt, bước đi với vẻ tự tin. Bà tiến gần tới chỗ đức vua ngồi, quạt giắt sau cổ áo, cúi đầu vái lạy nhà vua ba vái. Rồi bà quay ra diễn trò. Vừa xoay cây quạt trong tay, khi khoan khi nhặt, khi hát, khi múa mà chỉ trong vòng một chiếc chiếu, nhưng ta có cảm giác như bà đang đi trên một chiếc sân rộng. Hai con bà, cô Cúc và cậu Cún một cây nhị và một chiếc trống con phụ hoạ, đôi khi làm náo loạn cả chiếu trò. Giọng hát bà Đào khi vang lảnh như tiếng chuông ngân, khi buốt lạnh như một mũi giáo nhọn sắc đâm thẳng vào lòng người. Bà không diễn điều gì xa lạ. Chỉ kể lại cuộc đời một người đàn bà goá, bị xã trưởng ức hiếp, gieo tai hoạ, bắt giam cầm, cho tới khi đức vua vi hành và giải thoát. Nó chính là câu chuyện cuộc đời bà. Nhưng bà khéo sắp xếp thành tích trò, lại biết đặt lời hát thật là lâm li. Bà Đào vừa hát, vừa phô diễn tâm trạng làm cho người nghe phải nhiều phen rơi lệ. Chính cái tích trò bà diễn, khiến đức Thuận Thiên dần nhớ lại cuộc vi hành đầu tiên về làng Xuân Phương, và bắt gặp xã trưởng đang đánh đập tù nhân, trong cái nhà tù của làng, ẩn trong một miễu tre rậm rạp. Nhờ tích diễn của mẹ con bà Đào đã giúp nhà vua nhớ lại tất cả. Và ngài tự nhủ: “Công việc cải hoá của ta mới chỉ bắt đầu”. Tích diễn đã mãn. Người diễn trò đã cúi đầu vái lạy tới ba lần, nhà vua mới sực nhớ ra và gật đầu. Chợt vua hỏi: - Chẳng hay nương tử kia tên là gì? Vua chỉ tay vào bà Phúc. Hoàng thái tử ngồi cạnh vua cha liền đáp: - Tâu phụ vương, người ấy họ Đào. - Cho mẹ con nương tử đó sáp vào ban nhạc cung đình. Do vua gọi như vậy, nên từ đó người trong nước đều gọi những con hát là đào nương. Yến lễ đã mãn, quan kinh sư đại doãn và các đại quan mời nhà vua ghé cửa Quảng Phúc để xem thêm một vài trò lạ do dân kinh thành trình diễn. Vừa bước ra khỏi cổng phía tây kinh thành, một hình ảnh thật lạ mắt khiến mọi người kinh ngạc. Đó là một ngọn núi cao kết thuần bằng tre, do dân các phường Hàng Tre, Hàng Cót, Hàng Mành, Hàng Mã làm để chúc thọ nhà vua. Vừa thấy hoàng thượng tới, người trưởng trò cho thắp sáng một dãy đèn kéo quân trên đỉnh núi kết thành bốn chữ “VẠN THỌ NAM SƠN”. Và khắp ngọn núi rải rác ánh đèn mờ tỏ, làm người xem có cảm giác trên núi còn có cả rừng cây. Rồi lấp loáng, chim bay, thú chạy rượt đuổi nhau loang loáng. Lại nữa cả những giọng bắt chước tiếng chim hót líu lo, tiếng thú dữ gầm gào, tiếng nước suối chảy ào ào cuốn hút người xem vào trong một thế giới vừa trần gian vừa huyễn mộng. Dân chúng reo hò mãi không ngớt. Vua Thuận Thiên ngắm xem không chán mắt. Bỗng nhà vua thốt lên: - Khéo quá! Tài quá! Quay lại phía quan kinh sư đại doãn, vua nói: - Ta cám ơn khanh cùng dân chúng kinh thành, đã không tiếc sức vì ngày vui của ta. Ta sẽ có sắc khen, có phần thưởng xứng đáng cho những người kỳ tài, đã dựng lên ngọn núi cùng các trò vui thuần bằng tre này. Nhưng nhân đây, ta cũng nói luôn: Từ nay thôi không làm núi giả nữa nhá, khó nhọc cho dân lắm đấy, tốn kém lắm đấy. Vẫn biết rằng dân mình vốn rất tài hoa. Quan kinh sư đại doãn liền thưa: - Tâu, nếu bệ hạ không cho làm thì các ngón nghề tinh xảo này sẽ mai một rồi thất truyền mất. - Nếu dân thích làm trong ngày hội, ta không cấm. Nhưng tiết Thiên thành thì ta miễn. Từ đó, trò làm núi giả này không xuất hiện trong lễ sinh nhật nhà vua nữa.