← Quay lại trang sách

Q1 Chương 29.

Thấm thoắt khoá thiền đầu tiên của Đạo tràng Thắng Nghiêm đã sắp mãn. Sau bốn năm, các thiền sinh đã lãnh hội nơi các thầy về các pháp tu chứng thật là vi diệu. Nhưng cũng còn nhiều điều mong được tỏ sáng hơn. Ý nguyện chung của các thiền sinh là được tham vấn các bậc cao tăng trong nước. Vì vậy, thiền sư Hương Nghiêm, tu viện trưởng bèn thỉnh các bậc túc thiền về để cho các thiền sinh tham vấn. Thiền sinh đông kể có cả ngàn người, nhưng cao tăng lại quá ít, nên không thể giải đáp cho từng người, mà phải phân ra từng nhóm; mỗi nhóm vài chục thiền sinh để tham vấn với một thiền sư.

Nhóm do Đa Bảo thiền sư giải đáp, có một thiền sinh bê vào thiền phòng một đỉnh trầm đặt trước chỗ Đa Bảo ngồi. Khói trầm toả thơm ngào ngạt. Đa Bảo hỏi: - Hỡi thiền sinh, con vừa mang cái gì vào thiền phòng đó? - Bạch thầy, lư trầm ạ. - Để làm gì vậy? - Dạ, để cho cái tâm của chúng con được an định. Thiền sư Đa Bảo cười ha hả: - Vậy chớ theo con, tâm của chúng ta đang vọng động chăng? - Dạ thầy không ạ. – Tất cả thiền sinh đều đồng thanh đáp. - Vậy thì ta cần gì đến cái hư ảnh của lư trầm. Ta không nghĩ là tất cả, nhưng ở đây có người đã có ý cầu tìm tha lực. Điều đó sẽ làm cản trở con đường tinh tấn của các con. Mọi người im lặng. Đại lão thiền sư vẻ mặt an nhiên tự tại. Ta có cảm giác đất có sụt xuống nơi ngài đang ngồi, thì gương mặt kia cũng không có gì thay đổi. Bỗng ngài mở lời: - Hỡi các thiền sinh, ta có thể giúp gì được nơi các con đây? Một thiền sinh xin nói: - Bạch thầy, con nghe các thầy giảng: “Đức Như Lai thường nói các pháp sinh đều do nơi cái tâm biến hiện ra, nghĩa là tất cả mọi sự vô hình như nhân quả, luân hồi hay các sự hữu hình to lớn như thế giới, nhỏ như vi trần cũng đều do tâm tạo ra”. Vậy bạch thầy, tâm là cái gì ạ? Đa Bảo mỉm cười lắc đầu: - Tâm là cái thần minh cao cả của con người. Nhờ nó thế giới hữu hình, thế giới vô hình mới hiển lộ được, mới hiện hữu được. Nhưng ta hỏi, cái tâm của con ở đâu, hình tướng nó thế nào, con có thấy không? Thiền sư Đa Bảo vừa hỏi vừa chỉ vào một thiền sinh ngồi trước ngài. Thiền sinh đó liền đáp: - Lạy thầy, thầy hỏi chân tâm hay vọng tâm? - Vậy, con nhìn ra cái tâm phân biệt, tức là sắc tướng và vô sắc tướng. Như vậy nếu cái vọng tâm diệt ắt cái chân tâm cũng không còn nữa. Và nếu cái tâm của con phải chịu cảnh đoạn diệt thì con tu để làm gì? Thiền sinh kia đáp: - Con bạch thầy, thế nào là chân tâm ạ? - Theo con thì cái gì không phải chân tâm? – Đa Bảo hỏi lại. Thiền sinh kia bừng tỉnh, mặt mày khoái hoạt như người vừa đốn ngộ bèn hỏi lại sư: - Bạch thầy, thầy lấy gì làm bảo chứng? - Đói ăn, khát uống. – Đa Bảo đáp. Vị thiền sinh kia liền sụp lạy. Đại lão thiền sư đưa mắt nhìn khắp lượt các thiền sinh, ngài thầm nghĩ, mấy người này nay mai sẽ về trụ tại các chùa để giáo hoá đám nông phu. Trong đó có người trí, có kẻ ngu. Nếu không đem cái tâm vị tha hỉ xả của Bồ tát ra hành hoá, mà còn có sự phân biệt đối đãi giữa trí ngu, sang hèn, giàu nghèo thì làm sao mà dắt dẫn mọi người tới được bến bờ giải thoát, vả lại, họ còn quá trẻ, ít trải qua chứng nghiệm, nên có thể bị động dao, nghiêng ngả. Sư bèn hỏi: - Hỡi các thiền sinh, mai đây các con sẽ về trụ tại các chùa. Không phải hằng ngày các con chỉ ăn ở với kinh sách và tượng bụt, mà các con phải lăn xả vào đời để cứu đời. Vậy chớ các con đã vững lòng tin vào mình chưa? Ta nghĩ, qua bốn năm học hành, tu tập, các con mới bước đầu được khai thị thôi, Đạo học còn mênh mang lắm. Các con nghĩ thế nào? Sau bốn năm giam hãm trong các thiền phòng tu học, nay sắp mãn khoá, trong lòng các thiền sinh đều như chim sắp được sổ lồng, nên háo hức lắm, tin ở nơi mình lắm. Mọi người đồng thanh đáp: - Bạch thầy, tâm chúng con đã hướng trọn về Phật Đà, không gì có thể chuyển lay nổi. Nghe các thiền sinh đáp với giọng điệu tự mãn, thiền sư mỉm cười. - Nếu được như nhời, ta mừng cho các con. Song ta lưu ý các con. Tu đạo là cốt ở tu tâm. Các con học kinh là nhằm lãnh hội các ý tưởng cao đẹp của kinh, chớ đừng phụ thuộc vào lời kinh. Không nên câu chấp dễ trở thành mê mờ. Như người đi đường chợt gặp một con sông cần phải vượt qua. Có người hảo tâm đem đến cho mướn một chiếc thuyền để vượt sông. Khi sang tới bờ bên kia, thay vì bỏ thuyền lại cho những ai cần qua sông, thì anh ta lại cứ khư khư đội cái thuyền ở trên đầu với ý nghĩ, biết đâu lại chẳng gặp một con sông khác. Thành thử anh ta không tiến lên được mà vứt thuyền đi lại tiếc. Đó là kẻ si, nhận lầm phương tiện làm mục đích. - Bạch thầy như vậy có nghĩa chúng con vẫn phải suốt đời tu đạo? – Các thiền sinh đồng lòng hỏi vậy. Sư đáp: - Phải! Tu cho tới bậc đại giác. Ấy là tâm nguyện ta mong cho các con. Ta mong sao các con, lứa thiền sinh khoá đầu của thời Thuận Thiên, sẽ là những hạt giống tốt, cho việc Đạo của dân tộc được phát khởi. Nó cũng chính là nguồn lực làm cho nước nhà giàu thịnh về mọi mặt. Trong khi đó, ở một thiền phòng khác, Thiền sư Vạn Hạnh đang giảng giải về tham dục của con người thế gian: “… Dục vọng của con người thường được phóng chiếu ra thành những huyễn tượng tương lai; rồi tận lực theo đuổi để thực hiện cho bằng được cái tương lai hư vọng ấy, và gọi đó là lý tưởng siêu việt. Rồi hối thúc toàn xã hội phải sống theo ý tưởng đó, làm theo ý tưởng đó; thường là áp đặt, khiên cưỡng mọi người phải tuân phục bằng một hệ thống pháp luật và cường quyền. Song, người đời có biết đâu rằng làm như vậy là đẩy cả một xã hội chạy theo một ý niệm, một vọng tưởng, một ảo ảnh do bản ngã vẽ ra, nhằm thoả mãn tham vọng của một số người, đôi khi lại chỉ do một người thao túng. Cho nên chỉ có người mê mới đi cầu tìm nơi tương lai mờ huyễn, còn người ngộ thì cứ tuỳ duyên mà hành xử. Ấy là Đạo. Đáng tiếc, phần nhiều những kẻ thâu tóm hết quyền lực trong tay cho mưu đồ thống trị; đều sống trong mê ngộ mà không tự biết. Chợt đến khi trắng tay vì sụp đổ, chúng mới kịp nhận ra thì đã quá muộn. Về tham dục, ta nhớ trong kinh Viên Giác có ghi lời Phật dạy: “Kẻ nào muốn có tất cả, kẻ đó sẽ mất hết”. Thiền sư chợt ngừng lời, phóng nhãn tạng tới khắp lượt thiền sinh. Chợt ngài im lặng ngồi trong thế kiết già như người nhập định. Đám thiền sinh từ lâu nghe danh đã từng ngưỡng mộ thầy Vạn Hạnh. Nay lại được diện kiến thầy, tham vấn thầy thì thật là ngoài tầm mong ước của hầu hết các thiền sinh; thật chẳng khác gì cái hạnh phúc được thấy đức Phật thị hiện. Và biết đâu, thầy chẳng là hậu thân của một vị Phật hoặc một vị Bồ tát nào đấy. Đạo lực của thầy huyền diệu khiến các bậc cao tăng tiền bối như Đỗ Pháp Thuận, Đạo giả Thiền Ông còn phải kính nể. Người ta còn đồn đại thầy là hiện thân của Tam thế Phật. Bởi những điều thầy chỉ dẫn cho quá khứ, hiện tại và tương lai thảy đều như lời thầy nói, không sai biệt một ly nào. Thầy là người cao tuổi nhất trong các bậc thiền lão hiện tồn của cả nước. Thầy cũng là người đạo cao đức trọng nhất trong các bậc thiền sư của cả nước. Vì vậy, được nghe thầy giảng pháp, thiền sinh nào chẳng cho đó là phước duyên trốn đường tu đạo của mình. Tuy tuổi cao, nhưng trí tuệ thầy còn minh mẫn tới mức siêu phàm. Giọng nói thầy trầm sâu và vang xa, chứng tỏ nội lực của thầy còn thâm hậu lắm. Đột nhiên thầy hỏi: - Này hỡi các thiền sinh, có điều gì cần hỏi thì hỏi cho rốt ráo đi. Được thầy khích lệ, không khí trong thiền phòng như ấm áp hẳn lên, sinh động hẳn lên. Một thiền sinh bước ra khỏi chỗ ngồi, mạnh dạn thưa: - Bạch thầy, tại sao vào các khoá lễ, các thầy cũng như lớp thiền sinh chúng con đều phải niệm Phật? Nhất là các tín chúng hễ vào chùa là vái tượng Phật, rồi niệm Phật dài dài. Vậy chớ có ai thấy Phật ở đâu mà cứ niệm hoài như vậy? Thầy Vạn Hạnh cười. Giọng thầy trong trẻo mà ấm áp như tiếng chuông ngân khiến mọi người cảm thấy gần gũi. Chợt thầy đáp: - Vậy chớ nếu có Phật thị hiện thì ai còn niệm Phật làm gì nữa. Đám thiền sinh cười vỡ ra. Khi yên tĩnh trở lại, thầy Vạn Hạnh bèn nói: - Niệm Phật, không phải là kêu hồng danh của vị Phật nào ra để cầu xin một cái gì tựa như công danh, tiền bạc, phước đức. Phật không thể cho, và cũng không có để mà cho. Phật đã chẳng nói: “Nhân nào thì quả ấy”. Có nghĩa là có gieo trồng mới có gặt hái. Hạnh phúc của mỗi người là do người ấy tạo lập, không ai có thể làm thay được, kể cả Phật. Ý nghĩa của việc niệm Phật là ghi nhớ các đức tính của các bậc giác ngộ như thanh tịnh, giải thoát, trí tuệ… Niệm Phật là để khai mở những đức tính như tinh tấn, tỉnh giác, từ bi, hỉ xả… sẵn có nơi mỗi con người được mở tung ra, và dùng nó để hành xử. Vậy niệm Phật là để khai mở Phật tính nơi mỗi con người, cũng tức là khai mở nội lực thay vì bám víu vào tha lực. Niệm Phật như thế chính là niệm Phật tại tâm đó. Do niệm Phật thành tâm mà lòng từ ái khai mở, khổ báo được yên, nên người ta đã nhân cách hoá thành Đức Quán Thế Âm Bồ tát. Do niệm Phật mà phát khởi thiện tâm, không thoái hoá vào đường ác, nên nhân cách hoá thành Đức Địa Tạng Bồ tát. Do niệm Phật trầm tĩnh mà chân khí hoàn nguyên, tiêu tan tật bệnh nên nhân cách hoá thành Đức Dược Sư Bồ tát… Còn như ai đó đạo lực đã viên mãn, đã đạt tới chính đẳng, chính giác thì người đó chính là Phật rồi, còn phải niệm Phật làm gì nữa. Mặc dù đã học hành tu tập trong suốt bốn năm, nhưng tới bây giờ các thiền sinh mới hiểu đến rốt ráo ý nghĩa của việc niệm Phật. Mọi người thật sự vui mừng vì đã có duyên phước được nghe thầy giảng dạy. - Hỡi các thiền sinh! Thiền sư Vạn Hạnh bỗng cất cao tiếng gọi. – Sứ mệnh của các con sắp tới không chỉ là về một ngôi chùa làng, khư khư việc tụng kinh gõ mõ, suốt đời náu mình dưới bóng Phật đài, mong cầu giải thoát cho riêng mình. Nếu chỉ có vậy, thì công lao học hành, tu tập suốt đời của các con thật là uổng phí. Mà hãy noi gương Phật tổ. Giải thoát bản thân mình, song cũng phải giáo hoá để cho nhiều người được giải thoát. Phật giải thoát cho chúng sinh của cả thế giới ta bà. Còn các con, phải khai ngộ cho chúng sinh nơi mình chăn dắt, để họ tìm lấy con đường giải thoát. Muốn khai ngộ cho họ đi vào con đường giải thoát, thì phải khai tâm. Nhưng muốn khai tâm, trước hết phải khai trí cho họ. Người chưa được khai trí thì tuệ chưa sinh; tuệ chưa sinh thì làm sao mà phân biệt được sự phải quấy. Phải quấy đã không nhận ra được thì biết nẻo nào là giải thoát, nẻo nào là địa ngục, là trầm luân. Người chưa có trí tuệ soi sáng, thường bị hãm trong vòng vây của vô minh. Cho nên công việc của các con trước hết là khai trí cho dân chúng đang đắm chìm trong ngòi, đầm, ao, lạch của tham-sân-si. Lại nhìn như rọi sáng vào từng cặp mắt của mỗi thiền sinh, thầy Vạn Hạnh ân cần nhắc nhủ: - Các con, nếu mỗi người không khai được trí, không mở được tâm thì giải thoát không có nẻo tìm vào. Con người như vậy, có khác nào một sinh linh chưa tiến hoá. Công việc của các con vô cùng khó nhọc. Hẳn đây cũng là điều Phật Đà thử thách lòng từ hỉ nơi các con. Ta chắc các con đều nhận thấy từ khi nhà Lý thay thế nhà Lê trị vì thiên hạ, vua Thuận Thiên đã làm được những việc mà lịch sử trước đó chưa hề có. Tha giảm tô thuế, đã đành là việc cực lớn. Nhưng cái lớn hơn là phá bỏ cả một hệ thống nhà tù cùng các cực hình man rợ đối với con người. Bãi bỏ án tử hình, tôn trọng các quyền của con người mà Phật Đà cùng chư thiên đã ban cho họ. Trong đó các quyền về dân sinh được tạo lập một cách công bằng. Mọi người ai cũng có quyền có ruộng đất để sinh sống, nếu họ chịu khó khai khẩn đất đai hoang hoá, đất lấn rừng, lấn biển sẽ là của họ. Nhà nước tha tô thuế từ bảy đến mười năm, tuỳ theo công sức họ bỏ ra. Này các con! Thầy Vạn Hạnh bỗng gieo một câu nói hết đỗi thân thương. Dường như nó phát ra nơi cái tâm từ ái của thầy – Dù vua Thuận Thiên đã làm hết sức mình, nhưng sự hồi sinh của đất nước lại quá chậm chạp. Vì sao vậy? Vì mấy năm ở ngôi dù chỉ bốn năm thôi, nhưng Lê Ngọa triều đã vắt kiệt sức dân để lao vào các thú ăn chơi hoang phí và đoạ lạc. Các con đều là con em của nhà nông, chắc các con hiểu người nông phu cần gì? Các bậc sĩ đại phu các đời đều có bàn đến chuyện này. Song ta thấy duy có đức Khổng Tử là người nói đúng nhất về cái mà người nông phu cần. Phu Tử nói: “Vua lấy dân làm Trời. Dân lấy miếng ăn làm Trời”. Trời của người nông phu hiện nay vẫn còn là miếng ăn. Vì vậy, các con phải lo giúp người nông phu gắng sức cấy trồng, chăn nuôi để sao trong vòng vài ba năm nữa ổn cố được phần dân sinh. Muốn ổn cố được dân sinh thì phải triệt bọn mua lúa non vào lúc giáp hạt, triệt cả bọn cho vay nặng lãi. Bằng cách nào ư? Phải khuyến cáo người nông phu biết ăn tiêu dè sẻn ngay từ đầu vụ gặt, ngay từ khi lúa còn ăm ắp đầy bồ. Tới khi giáp hạt, chớ có bán lúa non, mà các nhà trợ giúp lẫn nhau, cho nhau vay đổi hạt. Chỉ vài ba vụ như thế là người nông phu chống được nạn đói khi giáp hạt. Chống được nạn bán lúa non. Một sào lúa tốt, khi gặt được năm đến sáu phương thóc khô, nhưng nếu phải bán cho nhà giàu từ khi lúa mới vào mẩy thì chỉ được có một phương thóc khô thôi. Việc này có nhẽ nhà chùa phải làm gương. Vì rằng chùa nào cũng được nhà nước cấp cho dăm ba mẫu ruộng, chùa nào cũng có thóc dư. Vậy đem số thóc dư đó ra giúp người nông phu trong mùa giáp hạt. Thứ nữa là phải chống cái nạn chức dịch nơi hương thôn hà hiếp người dân, phụ thu lạm bổ quá nhiều khiến cho họ đến khánh kiệt. Nơi nào có bọn đục khoét dân, lập tức các nhà sư phải có sớ tâu ngay về triều. Triều Thuận Thiên không dung túng lũ quan ăn tàn phá hại này đâu. Song hành với việc mở trường, dạy cho lũ trẻ biết chữ, nhà chùa cũng nên giảng giải cho người nông phu trong làng vào các ngày sóc, vọng họ ra chùa lễ Phật khá đông, về những điều được phép làm và những điều cấm kỵ theo luật pháp của triều đình. Chỉ khi người dân làm quen với luật pháp và hiểu luật pháp, thì khi đó họ mới tự bảo vệ mình được. Khi dân sinh, dân trí đã an định rồi, thì việc khai phóng dân tâm mới có cơ thành tựu. Vả lại các con nên nhớ, các việc ta nói trên đều là quốc sách lâu dài của triều Thuận Thiên. Vì sao ta nói các con phải hiệp tác với triều đình? Là bởi các việc triều đình đang làm đều khế hợp với giáo lý Phật; đều khế hợp với lòng mong mỏi của muôn dân. Cái may mắn cho các con là đang sống vào buổi thịnh thời. Chứ thực vào các bước suy vong, triều đình chỉ lo hút máu hút mủ dân lành, khiến toàn dân phải bực giận mà chống đối như thời Lê Ngọa triều mà ta vừa trải đó. Ngưng nghỉ giây lát, thiền sư lại nói: – Này các con, đời người không ai không trải qua bốn núi. Tức là SINH-GIÀ-ỐM-CHẾT. Đối với các nhà tu hành, các bậc thiện trí thức, họ coi việc đó nhẹ như hơi thở. Nhưng đối với người nông phu thì núi nào cũng là núi Thái Sơn cả. Vì vậy, các con ngoài danh phận là một thầy chùa còn phải kiêm cả thầy giáo và thầy thuốc nữa. Phải dạy cho người dân cách chữa trị lấy bệnh tật. Giúp họ biết cách tìm hái cây thuốc, biết trồng cây thuốc trong vườn để trị các bệnh thông thường. Bệnh nặng, bệnh khó chữa trị mới phải đến chùa hoặc thầy lang. Làm trọn vẹn các điều trên thì việc hoằng dương chính pháp của các con mới có cơ may thành tựu. Từ Đạo tràng, thiền sư Vạn Hạnh về thẳng viện Cảm Tuyền chứ không ghé điện Dưỡng Tâm thăm vua Thuận Thiên như đã dự liệu. Tự nhiên sư thấy động tâm, bèn ôn nhớ lại cả cuộc đời từ khi còn niên thiếu… Cũng không biết do cơ duyên nào mà dòng họ Nguyễn nhà ta, một dòng họ danh gia vọng tộc lại đời đời thờ Phật. Cha ta chủ về Phật, nhưng trong nhà lại chất chứa không biết bao nhiêu là sách của hai nhà Nho – Lão. Thành thử lớn lên, ta đọc không sót một nhà nào. Cho đến cả y, lý, số, phong thuỷ, cùng sách của các binh gia ta đều tham bác cả. Đầu óc chất chứa đầy kinh luân của cả ba nhà PHẬT-NHO-LÃO. Với sức tri như thế ắt phải hành rồi. Cha mẹ ướm hỏi ta có muốn lập gia đình, có muốn ra làm quan. Thường vào tuổi hai mươi, con người ta đều thích công danh phú quý, vợ đẹp con khôn. Thế mà ta lại thờ ơ, ghét chán. Ta bèn ngỏ ý với song thân xin được xuất gia tu Phật. Song thân ta đôi phen khuyên bảo, nhưng thấy ý ta đã quyết, bèn thu xếp cho ta học với Thiền Ông đạo giả là bậc chân tu nổi tiếng đương thời. Ta còn có người bạn tu là Định Huệ cũng được Thiền Ông thu nạp làm đệ tử. Tiếng rằng tu Phật, nhưng thầy truyền dạy cho ta không thiếu một sách gì của cả ba nhà Thích-Nho-Đạo. Có nhẽ vì thế mà cái trí được rộng mở, nên thấy biết được chỗ ưu việt của đạo Thích mà sở đắc. Trao truyền tâm ấn cho ta được ít lâu thì thầy viên tịch. Ta là người kế tổ truyền đăng, nối pháp. Thế rồi ta gặp Công Uẩn bên chùa Kiến Sơ, nơi bạn ta là sư Lý Khánh Văn đang trụ trì tại đó. Thấy thằng bé có tướng lạ, sau có thể trở thành vị vua giỏi, làm cho nước nhà được giàu thịnh, ta tỏ lời ngợi khen. Khánh Văn bèn đem Công Uẩn ký thác cho ta nuôi dạy. Ta rắp tâm trao truyền cho Công Uẩn những gì mà ta biết. Những mong Công Uẩn không chỉ vực cho nước ta trở nên cường thịnh, mà còn phải tận tâm biến cả nước ta trở thành quốc độ Phật ở trong cõi thế gian này. Nhưng để cho Công Uẩn tồn tại và hiển lộ được, thì quả là một kỳ công. Trước hết phải biến một thằng bé ngu ngơ thành một bậc đại trí. Bởi nếu không là một bậc đại trí thì làm sao mà ở trên thiên hạ, làm sao mà sai khiến được thiên hạ. Nhưng có trí mà không có được cái TÂM ĐẠO, thì khi quyền thế vào tay, là ra tay tàn sát rồi sa vào tham dục như Ngọa triều Lê Long Đĩnh đó. Việc ta đưa Công Uẩn vào coi sóc cấm quân của hoàng đế Lê Hoàn, không phải là chuyện khó. Nhưng tránh được hiểm họa khi có kẻ nói “Lê mất Lý lên”, rồi Ngọa triều ăn quả khế thấy hạt mận, thì xuống lệnh tàn sát người họ Lý, khiến ta phải ra tay che chắn cho vị thế của Lý Công Uẩn và cả tính mệnh của Công Uẩn nữa, thì đó là chuyện muôn khó. Lại khi Ngọa triều mất, làm thế nào để cả triều đình cùng nhìn nhận người giữ ngôi tôn của nước Nam phải là Lý Công Uẩn… Chao ôi, từ khi Công Uẩn sáu tuổi, đến ba mươi sáu tuổi thì được nước, suốt ba mươi năm ròng rã ta xiết bao khó nhọc. Tuy vậy, ta vẫn nghĩ đó là sự sắp đặt của chư thiên, sự hộ trì của chư Phật và hồn thiêng sông núi thì công việc mới viên thành, chớ cứ như mưu người, sức người sao có thể làm nổi các việc tày trời đó. Lại như Công Uẩn không phải là người có tư chất thiên bẩm, thì làm sao tiếp nhận nổi cả tâm tuệ và trí tuệ Phật để vào đời mà hành xử được. Âu cũng là cơ trời, vận nước; còn ta chỉ là kẻ trợ duyên… Liền sau đó Vạn Hạnh cho gọi các đệ tử vào, ngày đêm giảng pháp. Lại luôn lục vấn các đệ tử xem ai có mắc mớ gì về việc tu tập, việc sống chết, việc nhân quả, việc luân hồi… để thầy khai mở cho đến chỗ rốt ráo. Vào một đêm đẹp trời, trăng sáng như rót bạc xuống trần gian. Bốn bề núi rừng đều yên ắng. Ngay cả tiếng chim, tiếng thú ăn đêm cũng bặt vắng. Phủ của hoàng thái tử Lý Phật Mã cũng chìm trong sự lặng câm đó. Thái tử đang vào giấc ngủ sâu sau buổi tọa thiền thì bỗng giật mình bởi tiếng chó sủa rất to phía ngoài cửa. Con Huyền Đề sủa đúng ba tiếng rồi lách liếp chui vào nhà. Nó bắc hai chân lên giường liếm láp cánh tay thái tử đang bỏ ngoài chăn. Vừa lúc thái tử tỉnh ngủ liền tung chăn trở dậy. Con chó mừng rối rít, nó thả ra tiếng rên ư ử. Biết Huyền Đề là con chó khôn, chắc có chuyện gì nó mới phải vào đánh thức chủ. Thái tử vừa tra chân vào đôi dép cỏ, con Huyền Đề đã te tái chạy theo. Cửa vừa hé, nó đã nhảy vọt ra, và cứ thế xăm xăm dẫn thái tử về phía tầu ngựa. Con Nê Thông thấy chủ bèn hí lên một hồi rồi thúc chuồng đòi ra. Cảm như có sự lạ, thái tử bèn mở cửa tầu ngựa. Con Nê Thông lao ra giữa sân đứng lúc lắc bờm, chờ chủ. Không kịp đóng yên, thái tử nhảy luôn lên lưng ngựa. Con Huyền Đề lập tức chạy trước dẫn đường, con Nê Thông phóng nước đại chạy theo. Vừa đến cổng chùa Lục Tổ là ngôi chùa mà Vạn Hạnh xuất gia theo học với Thiền Ông Đạo Giả rồi sau đó được kế tiếp trụ trì, thì cả hai con Huyền Đề và Nê Thông cùng dừng lại. Trước đó chừng một khắc, sư Vạn Hạnh bảo các đệ tử đang thọ pháp: - Các con đi sửa soạn nước uống, độ một khắc canh nữa ra mở cổng đón khách vào cho ta. Đúng lúc con Nê Thông dừng lại thì cánh cổng bên trong chùa cũng bật mở. Thái tử hết sức kinh ngạc, rằng sao đại lão thiền sư biết ta đến mà cho người ra mở cửa đúng lúc thế này. Vị sa môn, đệ tử của sư Vạn Hạnh còn khiếp phục hơn thế. Rằng thầy đã đạt tới mức thiên nhĩ thông mà các trò không một ai hay biết. Bước vào thiền môn, hoàng thái tử thấy sư đang ngồi bán kiết trên thiền sàng. Một cây đèn sáu bấc soi tỏ nét an nhiên tự tại trên gương mặt thiền sư, hoàng thái tử sụp lạy. - Đa tạ! – Sư nói. Ta già rồi không ra ngoài làm lễ cung nghinh được, mong thái tử đại xá. - Chúng con thuộc hàng đệ tử, đại sư chớ đa lễ. - Ta mong thái tử quá. Sắp đến ngày của ta rồi đó. Phật pháp và cả sự bình trị nữa, còn điều gì chưa hiểu, hỏi đi. - Con chỉ muốn hỏi đại sư, nếu mai này con chết, con sẽ đi về đâu? - Thái tử đã biết mình từ đâu đến chưa? Lý Phật Mã chợt bừng tỉnh. Sụp lạy đại sư ba lạy. - Con đã ngộ lẽ sinh tử rồi ạ. - Còn việc bình trị thiên hạ, tới đây thái tử phải gánh vác. Vậy có điều gì cần hỏi? – Vạn Hạnh phóng chiếu nhãn quang ấm áp trùm phủ lên thái tử. Lý Phật Mã mạnh dạn thưa: - Con xin đại sư cho lời chỉ giáo. Nhìn thẳng vào gương mặt đạo hạnh của hoàng thái tử Lý Phật Mã, sư Vạn Hạnh nói thong thả như đếm từng lời: - Thái tử sẽ là người nối dòng đại thống, trị vì thiên hạ. Thái tử sẽ là người hoằng chính pháp. Nên nhớ, phụ vương thái tử được nước là nhờ có trí tuệ, có đức tuệ, có tâm tuệ. Cứ theo đó mà làm cho thật tốt, nước ắt phải mạnh, đạo ắt phải vững vàng khởi phát. Ngừng một lát rồi như chìm vào trạng thái nhập định. Chợt đại sư lại nói: - Ta dặn lời này, thái tử phải nhớ nằm lòng, nếu không sẽ thiệt tới cả sinh mạng đó. Thương nước, thương dân, thương chúng sinh, nhưng trước hết phải thương lấy thân mình. Nếu cái thân không còn thời chẳng thương nổi ai đâu. Khuyến người làm điều thiện thì phải trừng trị kẻ làm điều gian manh, ác hiểm. Nếu không sẽ là đại hoạ. Từ nay cho đến lúc lên ngôi, thái tử không bao giờ được rời xa hai vị tả hữu phụ bật là Lê Phụng Hiểu, Lý Nhân Nghĩa. Còn Ngô An Ngữ, Nguyễn Văn Sắn là những chân tay thân tín. An Ngữ sẽ có duyên nghiệp lâu dài với nhà Lý đó. Thiền sư Vạn Hạnh mở bừng hai mắt. Sư nhìn Lý Phật Mã với một tình cảm thắm thiết, như ngài đang thầm trao cả tâm đạo và tâm ấn cho thái tử. Rồi sư đặt bàn tay dăn deo lên đỉnh đầu thái tử, miệng đọc chú làm lễ quán đảnh cho Lý Phật Mã, một vị vua Phật sau này. Lý Phật Mã phủ phục, tạ đại sư ba lễ. Sư vẫy tay hất lui: - Thái tử về, về ngay đi! Thái tử tạ sư rồi trở về phủ tại hương Tam Sơn. Trời vừa hửng sáng. Sớm ra, sư gọi các đệ tử vào thiền phòng, đọc cho mọi người nghe bài kệ: Chân như điện ảnh hữu hoàn vô, Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô. Nhậm vận thịnh suy vô bổ uý Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.[83] Đọc xong lời kệ, Vạn Hạnh ngồi theo thế kiết già mà hoá. Hôm ấy đúng là ngày rằm, sư ra đi trong tình trạng tỉnh thức, không ốm đau bệnh tật gì. Triều đình cùng giáo hội làm lễ hoả thiêu rồi xây tháp chứa xá lỵ để đèn hương phụng thờ. Từ vua, quan cho chí người dân trong nước, không ai là không tỏ lòng tôn kính, không ai không tỏ lòng thương tiếc một thiền tăng đã suốt đời phụng sự quốc gia dân tộc và đạo pháp.