← Quay lại trang sách

Q1 Chương 30.

Vừa đi kinh lý các trấn, lộ và các vùng cửa quan xung yếu nơi biên ải về, vua Thuận Thiên bèn cho triệu hoàng thái tử Lý Phật Mã về triều. Vua nói: - Từ nay con về ở hẳn cung Long Đức. Cung đó vừa gần dân vừa gần hoàng thành, tiện công việc cho con, và cũng tiện ta sai bảo.

- Thưa phụ vương, con về ngay hay bao giờ về ạ? – Lý Phật Mã nhẹ nhàng hỏi vua cha. - Con về ngay. Có nhiều việc ta cần bàn bạc với con, và trao truyền cho con cái thuật trị nước, để dù có bất chợt ta ra đi, con không bị hẫng hụt. Nghe vua cha nói đến sự ra đi, hoàng tử chợt buồn, chưa bao giờ chàng cảm thấy muốn gần phụ vương như lúc này. Một lát, nhà vua lại hỏi: - Nếu mai đây việc trị quốc vào tay, con sẽ làm như thế nào? - Được phụ vương răn dạy kỹ càng, lại được các thiền sư là các bậc thiện trí thức dẫn dắt, con sẽ gắng sức noi theo các việc phụ vương đã hành hoá mà con được biết tới cả chục năm nay. Lý Công Uẩn có vẻ hài lòng về người con mà nhà vua sẽ trao truyền ngôi báu. Vì vậy, nhà vua càng muốn trao cho con mình cái tâm thiện để chăn dắt muôn dân. Vua Thuận Thiên nhìn con với cái nhìn trìu mến, ngài đứng dậy và vẫy tay cho Phật Mã đi theo ra phía vườn ngự. Ngồi trên chiếc ghế đẽo từ củ tre già đặt dưới gốc một cây mai cỗi, nhà vua chỉ vào một phiến đá cạnh đó bảo Phật Mã: - Con ngồi đây! Ta muốn hằng ngày cha con ta luôn có những cuộc chuyện trò. Con đừng ngại nói những điều con nghĩ, đôi khi con tưởng như điều đó không làm đẹp lòng ta. Vừa rồi con nói, con đã xem xét các việc ta làm. Chắc là sau này con sẽ làm như cha đã làm. Có phải thế không con? Thái tử có vẻ ngập ngừng. - Con cứ nói điều con nghĩ. Đừng sợ cha cho là sai quấy rồi trách phạt. Nếu cha không biết sự đúng, sai của con, sao cha có thể chỉ bảo cho con được. - Dạ thưa phụ vương, con xem xét các việc phụ vương đã làm trên nền tảng của cái thiện, để sau này con cũng sẽ làm các việc trên nền tảng đó. Còn như vào việc thì mỗi lúc, mỗi thời có những nét riêng của nó. Con giả dụ rằng, trong hơn mười năm qua, phụ vương tha tô thuế tới ba lần, trong đó hai lần, mỗi lần tha tới ba năm liền. Phụ vương thương dân, là bởi sức dân quá kiệt. Lê Ngọa triều tróc nã người dân đến tận xương, tận tuỷ. Bây giờ sức dân đã hồi phục, mùa màng bội thu tới mấy năm liền. Khi phụ vương trao trọng trách cho con, dân vừa no đủ, vừa được mùa, mà con lại tiếp tục tha tô thuế nữa, chắc con sẽ phạm sai lầm không thể tha thứ. - Vì sao vậy? Vua Thuận Thiên hỏi. - Thưa phụ vương, khi người dân đã no đủ rồi mà triều đình vẫn tiếp tục tha tô thuế, sẽ khiến cho người dân sao nhãng trách phận của họ đối với nước. Sẽ khiến cho họ có ý nghĩ là triều đình sợ dân. Bởi việc tha tô thuế lúc này hoàn toàn không gây được ảnh hưởng gì trong dân. Nó không còn ý nghĩa của việc cứu trợ nữa. Vả lại thưa phụ hoàng, con nghĩ nhà nước cũng cần phải có tiền bạc để mở mang công nghiệp như khai phá đất đai, tăng việc cấy trồng. Và cả sự học hành của người dân nữa. Sao cho nhiều người biết chữ. Chức dịch từ hương ấp trở lên đều phải tinh thông chữ nghĩa, am tường pháp luật. Có thế họ mới hướng đạo cho dân được. Ngoài ra, quốc khố phải đầy đủ mới có thể nuôi quân, luyện quân và sắm sửa binh khí. Bởi binh không chỉ là việc hiểm, mà còn tốn kém vào bậc nhất trong mọi khoản chi tiêu. Lý Phật Mã được vua cha khích lệ, nên lời nói trở nên lưu loát, chữ nghĩa thông sáng. Chàng nhìn vua cha, xem ông có còn muốn nghe. Vua Thuận Thiên nở nụ cười, như thầm khen thái tử là người trí lự. Đoạn ngài nói: - Ta mừng vì con đã khôn lớn. Ngay từ bây giờ, con có thể thay ta cầm cân nảy mực quốc gia này. Vì sao ư? Bởi vì con đã biết cân nhắc, việc gì nên làm, việc gì không nên làm. Cũng như việc gì cần theo về triều trước, việc gì không nên theo triều trước. Không có lệ, tạo ra lệ. Không có luật, ban hành luật. Song luật lệ gì thì cũng phải xuất phát từ sự ích lợi của toàn dân. Nếu chỉ làm điều mà triều đình yêu thích, còn dân thì chán ghét, tức là tự biến triều đình thành kẻ thù của dân. Khi ấy thì không sức mạnh nào có thể giữ cho triều đình khỏi sụp đổ. Thái tử lại hỏi: - Thưa phụ hoàng, bấy lâu con vẫn cứ băn khoăn. Đứng ở ngôi quân trưởng, quyền uy nhất nước, mọi thứ đều khuôn theo ý mình, như thế thì làm sao mà tránh khỏi lầm lẫn được. Kể cả sự lầm lẫn chết người. Vua Thuận Thiên vụt đứng dậy đi đi lại lại với vẻ khoái hoạt. - Bẩm phụ vương có gì vui bất chợt? – Thái tử hỏi nhà vua. - Ta không vui sao được. Vui là bởi con đã có nghĩ suy về những trạng huống đó, thì nhất định con sẽ không vướng mắc vào nó. Nếu con muốn biết việc con làm có đúng hay không đúng, con phải lấy trí ra xét đoán cho minh bạch. Nếu con muốn biết việc con làm có thiện hay không thiện, con phải lấy cái tâm con ra thẩm định. Nếu trí bảo đúng mà tâm vẫn còn băn khoăn thì việc chưa nên quyết vội. Vua Thuận Thiên ngừng lời, ngài nhìn thái tử với cái nhìn bao trùm, như là ngài đo lại một lần nữa tài năng, trí tuệ và thiện đức nơi chàng. Đoạn nhà vua nói: - Con hãy lắng nghe ta nói đây. Nếu muốn tránh được sai lầm, con phải biết lắng nghe. Dũng cảm lắm con mới nghe nổi những điều nói thật. Khi con gạt những điều nói thật ra ngoài tai, thì triều đình chỉ còn thuần một bầy xu nịnh, và dối lừa đến trơ trẽn. Ta nhớ những năm đầu triều Thuận Thiên, các gián nghị đại phu đã dâng sớ can ta nhiều việc. Có việc ta nghe. Có việc ta không nghe. Các quan không chịu, dâng mãi sớ như là hạch tội ta. Nếu ta không bình tâm xem xét, ắt phải chém đầu họ mất. Ngự sử đài nhiều người can. Nhưng có lý lẽ nhất vẫn là hai vị tả hữu gián nghị đại phu là Lương Tằng và Trịnh Văn Túc. Nhất là Trịnh Văn Túc, ta đã chớm ghét ông ta. Ta thường tránh mặt hoặc không cho gặp. Sau kiểm xét lại, thấy họ vì nước, vì ta mà quên cả tấm thân quý giá của mình, để liều chết can ngăn ta. Vua Thuận Thiên nuốt một tiếng thở dài, dường như nhà vua vẫn còn ân hận về những hành vi thái quá của mình. - Đất nước, vua nói tiếp, – nếu không có được những tôi trung như thế, sao có thể đứng vững được. Nếu người làm vua biết gần các bề tôi trung thực, thẳng thắn thì đất nước lo gì không vững mạnh. Người trung thực tựa như một loài ngọc quý, tự thân nó đã đẹp, không cần khoác lên nó một thứ màu mè gì hết. Không cần phải các lời hoa mỹ để nói về nó. Tuy nhiên, không phải ai cũng nhìn ra ngọc thật đâu con ạ. Thế gian hầu hết nhận đá làm ngọc. Bởi đá người ta mới cần mài, giũa cho thật nhẵn nhụi, thật bóng lên. Rồi không biết bao nhiêu lời lẻo mép khoe khoang nào là trân ngọc, bảo ngọc. Nào là người quyền quý này đòi mua nó; người quyền quý kia trả giá bao nhiêu. Rốt cuộc nó chỉ là đá, nhưng lại được ấp ôm như một báu vật. Còn ngọc thật thì lăn lóc chẳng ai hay. Lịch sử đã cho ta một bài học khó quên, đó là “ngọc bích họ Hoà” thời Chiến quốc. Để tưởng thưởng tấm lòng kiên trung của một bề tôi, thế là năm Ất mão, ta thăng cho Trịnh Văn Túc đứng đầu hàng tam cô, chức Thiếu sư. Túc không phải là người ham chức tước, tiền bạc. Được thăng, Văn Túc chỉ làm một tờ biểu tạ ơn. Không hãnh diện, không hống hách. - Được! Được! Lúc nào rồi ta sẽ cho con đọc lại những tờ biểu của hai người này. Con nên nhớ kỹ một điều, nếu trong triều có những bầy tôi như thế, những kẻ manh tâm kéo bè kéo cánh, xu nịnh không dám ra mặt. Cho nên phải bảo vệ trung thần bằng cách trao cho họ những trọng trách quốc gia. Nhưng trên hết phải tin họ. Nếu nghe lời bọn xiểm nịnh gièm pha rồi đi đến hắt hủi họ, thì chẳng mấy chốc bọn nịnh thần sẽ biến trung thần của con thành gian thần hết. Thái tử chú ý lắng nghe từng lời của vua cha căn dặn. Bỗng chàng băn khoăn hỏi: - Bẩm phụ vương, con thấy việc này không dễ gì mà biện biệt được người trung với kẻ nịnh. Bởi phụ vương ở ngôi cửu ngũ, bề tôi nào mà chẳng kính cẩn ngọt ngào. Vua Thuận Thiên bật cười vỗ vai thái tử: - Con ta thơ ngây quá. Bởi con chưa trải đời, trải việc. Vào việc, tự con sẽ đọc được nhân cách của mỗi người qua gương mặt và lời nói của họ. Tới khi xét định thành tựu các việc làm của họ nữa, là con có thể định giá họ được. Thông thường, người trung thực, việc làm và lời nói của họ không sai khác. Còn người không trung thực, lời nói thường hay uốn éo quanh co. Nói thì hay, còn làm lại dở. Người trung thực, tài đảm, họ sống gần với chân lý, nên họ không cần viện dẫn kinh sách hoặc cầu cạnh các thế lực để che chắn. Do vậy, nó góc cạnh, xù xì, đôi khi làm ta khó chịu. Chính các ông Trịnh Văn Túc và Lương Tằng đã giúp cha nhận ra điều này. Ta mong con, khi cầm quyền chớ có xa lánh những lời nói thẳng ngay và những người liều chết can ngăn. Chính những người đó mới là những nhà ái quốc chân chính, và cũng là người yêu con thật lòng. Thái tử nghe vua cha nói mà cảm thấy lo lắng. Mặc dù chàng mới ngoài hai chục tuổi, cũng đã từng cầm quân đánh dẹp các sách, động người man làm phản. Kể cả cầm quân viễn chinh, phá trận giặc, chém tướng giặc nhưng xem ra không rối rắm như thế trận lòng người. Vẻ trầm ngâm, chàng nói: - Phụ vương, con sẽ gắng nhập tâm để hành xử những điều phụ vương răn dạy. Song, con ao ước, nếu như phụ vương lại viết ra những điều căn cốt nhất trong đạo trị nước, để lưu dấu cho đời sau thì đó mới thực là đại hạnh. Vua Thuận Thiên không kìm được tiếng cười, ngài đứng bật dậy và cười lớn. Một lát, cơn cười dịu xuống, nhà vua vỗ vai con, thân mật nói: - Con à, sách viết về đạo trị nước thì nhiều lắm, nhưng không ai vượt nổi hai nhà: Khổng Tử và Mạnh Tử. Có phải các bậc vua chúa mù chữ và vô học cả đâu. Nhưng từ sách đến cuộc đời không phải là việc giản đơn. Cho nên Khổng Tử mới dạy phải thành ý mới chính được tâm. Tức là phải chân thực thì mới chính tâm được. Mà tâm có chính, mới chính được các điều bất chính. Còn Mạnh Tử thì ra sức viết sách để dạy đời, nhưng ông lại lưu ý hậu thế rằng: “Tín tận thư như vô thư”. Tức là tận tín vào sách thà đừng đọc sách. Cho nên sách, chỉ là những bài học, những phương hướng gợi mở, còn cuộc đời thực mới là những chương sách quý chờ người sau viết tiếp. Bởi vậy, cha có viết để lại cho con cả trăm pho sách, về những việc thành bại trong đời cha có quan hệ đến việc thành bại của nước, thì đó cũng chỉ là để con tham bác chứ nó không thể là phương lược hành xử của thời đại con được. Bởi người nào có việc của người ấy. Thời đại nào có việc của chính thời đại ấy, nó không giống các thời trước nó hoặc sau nó. Cho nên không thể đem việc xưa vào việc nay được. Nhưng từ các việc của người xưa ấy, ta học được sự thành bại của đời trước, để bước đi của ta thêm vững vàng. Đây chính là sự học rút ra từ lịch sử, tựa như mục đích của Khổng Tử soạn kinh Xuân Thu vậy. - Dạ, con xin lĩnh ý phụ vương. - Ta gọi con về đây, tức ta muốn trao truyền cho con những gì ta đã trải, đã thành và đã bại. Vậy có gì con đang trăn trở suy tư, con cứ hỏi. Không phải mọi điều ta đều thông sáng cả đâu. Nếu có điều gì cả hai cha con ta cùng không gỡ được, ta sẽ tìm đến các vị cao tăng, các đạo sĩ để tham vấn. Nào, con thử nói ta nghe, nếu như con đã ở ngôi. Sau một hồi suy tư thầm lặng, thái tử lên tiếng: - Thưa phụ vương, đối với một quốc gia điều gì là quan yếu nhất? - Phải rồi, con phải đặt ra những chuyện như vậy. Vì đã sắp tới lúc con phải phất cờ rồi đó. Vua Thuận Thiên với vẻ cởi mở, ngài nói: – Việc quan yếu nhất của một quốc gia là sự ổn định chính trị. Muốn có ổn định chính trị, phải ổn định được kinh tế. Sao cho người dân ai cũng có việc làm, ai cũng có cái ăn, cái mặc. Hai cái ổn định này hỗ tương nhau tạo thành sự ổn định quốc gia. - Nhưng thưa phụ vương, căn cốt của sự ổn định quốc gia là những cái gì ạ? - A ha! Nhà vua lại cười lớn. – Thì ra con ta đã trưởng thành. Thế mà cha cứ tưởng con vẫn là một chàng hoàng tử bé bé ngày nào. Đúng là cha nhìn nhận con không lầm. Sinh thời, thầy của ta – đức Vạn Hạnh cũng lượng định con sẽ là người đức độ, quyền biến. Ngay cái tên con cũng nói lên điều đó. Ta đặt tên con là Đức Chính, còn thầy ta lại gọi con là Phật Mã. Tức là con ngựa của nhà Phật. Con sẽ là người tải đạo. Sực nhớ lời con hỏi, vua Thuận Thiên bèn nói – Suýt ta quên con hỏi về căn cốt của sự ổn định quốc gia là những cái gì. Căn cốt đó là bộ máy nhà nước con ạ, tức những người cầm quyền ấy. Sao cho vừa đủ, không nhiều quá dễ gây cồng kềnh, chồng chéo mà tốn kém. Cũng đừng ít quá để bê bối không làm hết việc. Nhưng quan yếu hơn cả là phải tận dụng được hầu hết nhân tài trong nước. Triều đình phải chăm lo vun đắp nhân tài, khi đã có nhân tài rồi phải lo cắt đặt đúng người đúng việc, đúng sở trường của họ. Việc sử dụng hiền tài không dễ, phải biết nhún nhường thì mới dùng được người hiền tài. Nếu cậy mình ở ngôi cao, bắt mọi người phải khuôn theo ý mình thì khó có thể thu dụng được người hiền tài. Bắt tù ai hoặc giết ai trong vương quốc ta trị vì thì quá dễ. Nhưng bắt kẻ sĩ, tức những bậc chân tài làm theo ý ngông ngạo của mình thì khó đấy. Họ có thể bỏ bổng lộc, bỏ tất cả để đi ở ẩn, thậm chí họ có thể tự chết trước khi ta có ý định giết họ. Con cũng nên nhớ thêm điều này, nếu con sử dụng sở đoản của các bậc chân tài vào việc lớn, tức là con đã giết họ mà con không tự biết. Nước sẽ vì thế mà suy yếu. Một điều nữa ta cũng cần lưu ý con rằng: đường thịnh nghiệp có rất nhiều ngả, rất nhiều cách khác nhau để đưa quốc gia tới chỗ giàu mạnh. Nhưng suy vong thì chỉ có một nẻo thôi. Vì vậy sự suy vi sụp đổ nó mau hơn sự hưng thịnh. Nẻo đó là gì? Là bắt đầu từ sự xa lìa người tốt, thân cận với kẻ xấu. Ghét người nói thẳng, ưa kẻ xu nịnh. Ngại gian khó, đắm chìm trong các lạc thú trần gian. Như vậy không chỉ sụp đổ cơ nghiệp tổ tông mà còn có nguy cơ mất nước. Lý Phật Mã không ngờ được vua cha ưu ái trao truyền cho những điều quan yếu nhất của phép trị nước, tựa như các bậc chân tu trao truyền tâm ấn cho đệ tử. Chàng phấn chấn tự tin và mạnh dạn hỏi thêm: - Thưa phụ hoàng, thế còn đối sách với nước đại Tống cùng các nước Lão Qua, Chiêm Thành, Chân Lạp thì sao? - Lão Qua là nước nhỏ yếu. Chỉ gây nổi các vụ cướp vặt không làm nên trò trống gì. Giả dụ họ có gây rối biên dân, thì biên quan ta gửi điệp văn sang trách cứ và đòi bồi hoàn là đủ. Lại như nước Chiêm Thành cậy có hải đoàn hùng mạnh, hay gây hấn với nước ta. Thực ra đây cũng chỉ là những vụ cướp lớn của đám hải tặc do nhà nước Champa chủ trương thôi chứ chưa phải là quy mô của một cuộc xâm lăng. Với nước Chiêm Thành, thì đối sách trừng phạt như ta sai con đi chinh thảo tháng chạp năm Canh thân là được. Ta cũng lạ, cái nước Champa này chỉ chuyên việc gây rối. Họ tuy mạnh về hải binh, nhưng bộ binh, kỵ binh lại rất tồi, và ý chí của họ không kiên định. Nước này không có gì đáng ngại. Nếu bị trừng phạt đau, thì họ cũng nể sợ được một thời gian vừa đủ để ngấm đòn. Còn nước Chân Lạp thì ở xa ta. Nước này đang cường thịnh. Họ đã thôn tính xong mấy nước lân bang. Nước ta với Chân Lạp vốn không có thù oán lại ở xa nhau, nên họ cũng muốn sống hoà hiếu. Họ thường sai sứ mang phương vật sang tặng biếu ta. Với nước này, nên kết hảo. Ngoài ra, Tống là một nước lớn. Nước này đang vào thịnh thời của sự yếu suy. Phía bắc, phía tây đang khốn đốn với các nước Liêu, Hạ. Không những thế, nội bộ họ còn bị chia rẽ trầm trọng. Vì vậy, trước mắt với người Tống chưa có chuyện gì đáng ngại. Nhưng về lâu về dài thì phải phòng bị kỹ càng mặt bắc. Người Trung Hoa có thế mạnh về mặt văn hoá. Văn tự họ có rất sớm. Lại sản sinh được nhiều học giả với các học thuyết lớn từ thời nhà Chu. Nền văn minh của họ phát sinh từ lưu vực sông Hoàng Hà. Nơi đây mênh mông những cánh đồng phù sa màu mỡ, nền nông nghiệp của họ không một nước nào theo kịp. Do vậy, đất nước của họ phát triển về mọi mặt, mặt nào cũng đạt tới đỉnh cao rất sớm, khiến các lân bang phải khát thèm. Thoạt kỳ thuỷ, nước Trung Hoa cũng không lớn hơn nhiều lắm so với các nước lân bang. Nhưng với chính sách chinh phục và đồng hoá, khiến nhiều quốc gia bị tiêu vong. Và nước Trung Hoa ngày càng phình đại ra mênh mông như ngày nay. Thái tử nghe vua cha nói, mà chàng cảm như là một sự lạ. Bèn hỏi: - Bẩm phụ vương, làm thế nào mà họ đồng hoá được cả một quốc gia. Như nước ta, họ đô hộ tới cả ngàn năm rồi, nhưng nước ta vẫn là nước ta chứ đồng hoá làm sao nổi ạ. Vua Thuận Thiên cười độ lượng, ngài thân mật vỗ vai hoàng tử, rồi thuận tay ngài chỉ vào cội chi mai ngay bên chỗ ngồi, và nói: - Con hãy coi cây mai đây. Con có thấy thân hình nó mảnh dẻ, cành nhánh nhỏ xíu mà khô khốc như mấy nhành rào tre. Mùa này trút hết lá, rút nhựa vào trong để nuôi thân và vỏ cây. Nhưng con nhìn kỹ xem, nơi các đốt cành kia đã hơi nhu nhú chiếc mầm chờ. Mai đây khi mùa xuân tới, là nó bật nụ, trổ hoa, nảy lộc. Đó, con xem, dân tộc mình có đức tính của loài mai. Tuy mảnh mai nhỏ bé, song bất chấp sương, tuyết, gió, mưa; biết cách đối phó để sinh tồn. Vì vậy, Trung Hoa không thể Hán hoá, không thể đồng hoá chúng ta được. Chung đụng biên thuỳ với nước này chẳng qua là chuyện bất khả kháng thôi con ạ. Song ta lưu ý con phải hết sức tỉnh giác, nếu không họ dùng sách tằm ăn dâu lấn hết đất ta đó. Thoạt đầu là họ lùa dân họ sang xâm canh ở những vùng khuất lấp trên đất ta. Biên dân, biên quân ta chưa phát lộ được thì họ đã xua dân họ sang làm nhà làm cửa ở tràn lan. Rồi đưa cả mồ ông mả cha sang chôn cất. Xâm canh, xâm cư, xâm táng xong, ta mới phát lộ được thì rất khó thu hồi. Biên quan họ cãi lý với ta rằng, họ ở đất này đã lâu đời thì mới có nhà cửa, mồ mả chứ. Nếu như ta không đủ vũ lực để đòi lại, mà họ cũng không đủ lý, đủ lực để giữ đất lấn cướp phi pháp ấy, thì họ thương nghị. Rất chi là dẻo mềm, thôi thì mỗi bên chịu thiệt một ít, xin chia đôi mỗi bên một nửa phần đất tranh chấp. Đó là một cách con ạ. Cách này họ chỉ làm khi nước họ đang có quan hệ tốt với ta, hoặc là trong nước họ đang có loạn, hoặc là họ đang ở thế yếu. Chung quy, họ chỉ có quan hệ tốt với ta khi họ đang suy yếu. - Thưa phụ vương, vậy khi họ cường thịnh thì đối sách của họ với lân bang ra sao? Đột nhiên gương mặt nhà vua trở nên trầm buồn. Ngài chậm rãi dằn từng tiếng: - Con ạ, họ cường thịnh thì là một đại hoạ cho các nước lân bang. Nếu họ chưa chinh phục được, chưa thôn tính được thì các quốc gia lân bang phải thần phục họ, triều cống họ, và phải chịu là thân phận thần tử. Thái tử nghe vua cha nói, trong lòng sôi sục bầu máu nóng. Có nhẽ chàng không thể nào chấp nhận cái sự lấy thịt đè người ấy, bèn hỏi: - Bẩm phụ vương, nếu họ chinh phục được, thì họ làm gì ạ? Nhà vua cười, cái cười mới đau khổ làm sao. Nhìn con với vẻ cảm thông, vua nói: - Con à, nếu họ chinh phục được, thì mình phải làm nô lệ cho họ, họ muốn gì ở mình mà chẳng được. Họ chinh phục được thì họ bắt mình phải bỏ tất cả những cái gì của mình hiện có để theo họ. Bỏ cái gì à? Bỏ văn hoá của mình như phong tục, tập quán và các lề thói do tổ tiên mình truyền lại. Bỏ cả cách ăn, cách mặc của mình để phải ăn, phải mặc như người họ. Rồi cuối cùng là phải bỏ cả tiếng nói của mình để nói tiếng của họ. Thế là xong cuộc đồng hoá của họ. Qua vài đời là đào thải hết gốc gác Việt tộc, chỉ còn thuần tuý một thứ Hán nửa mùa thôi. Vua Thuận Thiên lại mỉm cười. - Vậy chớ con nghĩ sao? – Nhà vua hỏi. - Thưa phụ vương, nếu đúng như phụ vương nói, thì qua một ngàn năm nước ta bị người Tàu đô hộ, người mình phải trở thành người Hán cả rồi chứ ạ? - Hàng ngàn quốc gia nhỏ bé khác, sống xung quanh lưu vực sông Hoàng Hà đã bị như vậy đó. Vì thế, nước Trung Hoa ngày nay mới mênh mông như vậy, chứ hồi mới lập quốc, họ chỉ quanh quẩn trong khu vực của mấy nước Lỗ, nước Tề, nước Tống, nước Tần… cổ xưa mà thôi. Đất Bách Việt ở phía nam sông Trường Giang xưa, đâu phải là đất Trung Hoa. Thế mà nay tất cả đều là dân Trung Hoa, đất Trung Hoa trừ xứ Lạc Việt chúng ta. Vì sao ta không bị đồng hoá ư? Vì dân ta kiên cường không chịu từ bỏ tập tục của mình; không từ bỏ tiếng nói của mình; không chịu lấy chồng, lấy vợ người Hán. Nếu mất tiếng nói, mất phong tục tập quán và máu huyết bị pha loãng thì sẽ mất đứt dân tộc và mất luôn cả Tổ quốc con à. Trong khi vua Thuận Thiên từng giờ, từng phút giảng giải để khai mở cho vua nối về thuật trị nước và đối sách với các nước lân bang, thì tại cung của Vũ Đức vương, các vương là hoàng đệ của Đông cung thái tử Lý Đức Chính như Khai Quốc vương, Đông Chinh vương, Dực Thánh vương, họp bàn. Mở đầu, Vũ Đức vương nói: - Chư huynh đệ, chúng ta đều là con của phụ hoàng cả. Thế mà việc chọn lập, chúng ta không được đếm xỉa gì đến. Thật là vô lý. Nói rằng chủ về đức ư? Thì Đức Chính đã hơn gì anh em ta. Cùng là con của phụ hoàng cả, sao lại có người ưu đức có người thiểu đức. Chúng ta đã làm gì thất đức nào? Vả lại xưa nay có ai trị nước chỉ bằng đức? - Có! Có người trị nước bằng đức – Khai Quốc vương nói – Đó là Khổng phu tử, khi ông làm quan đại tư khấu tại nước Lỗ. Thật ra là ông mong mỏi có một xã hội đức trị thì đúng hơn. Vua nước Lỗ không chịu được, bởi lúc nào ông cũng lải nhải nói về đức. Cuối cùng, ông cũng phải bỏ nước Lỗ mà đi chu du thật là cực nhọc khắp thiên hạ, chẳng một nước nào chịu trao quyền chức cho ông. Rốt cuộc, ông cũng chỉ là một ông thầy rao giảng về đạo đức suốt cuộc đời. Nhưng dưới gầm trời, chẳng có một nước nào từ cổ chí kim, thực thi được một nền đức trị, mà chỉ mơ về sự đức hoá cũng như là sự thiện hoá xã hội thôi. Dực Thánh vương nghe các người anh em nói cũng thấy nong nóng phía vành tai. Chàng nói: - Có khi chúng ta phải cùng xin phụ hoàng cho mở cuộc thi tài. Ai đứng đầu thập bát ban, người ấy sẽ được kế vị. Nói xong, Dực Thánh vương cảm như mình bị hố to. Bởi nếu thi thố thì kiếm thuật, cung thuật không ai địch nổi Vũ Đức vương. Quyền thuật, đao thuật không ai sánh nổi Khai Quốc vương. Roi và thiết lĩnh không ai bằng Đông Chinh vương. Tự so sánh, rồi tự hỏi: “Còn ta, ta giỏi cái gì nào?”. “À, ta chỉ được mỗi cái sở đắc là thiết trùy, không thể so với mọi người được. Mà rồi có thi thố, có bình chọn cũng chẳng đến lượt ta. Lại còn thế lực nữa chứ. Mẹ của Vũ Đức vương đã khiến được phụ hoàng sủng ái. Các thầy văn thầy võ của Vũ Đức vương cũng là những bậc siêu phàm. Từ trong sâu thẳm của lòng mình, Đông Chinh vương vẫn cho rằng trong mấy người anh em, cả tài lẫn đức, không ai bằng huynh trưởng Đức Chính. Thế nhưng… Những cuộc bàn bạc như thế cứ mau dần. Mấy anh em cũng vì thế mà trở nên thân thiết, gần gũi. Đôi khi, các cuộc họp kín còn mời cả các thầy võ, thầy văn dự bàn. Trong số các thầy dạy võ, có Lưu Hoằng Định người Tống vốn là một tay kiếm khách bạt quần được Tống Chân tông cử về giúp Dương Trường Huệ, Đoàn Kính Chí xâm lăng nước ta, bị bắt cầm tù năm Giáp dần. Cho tới khi Vũ Đức vương phát lộ ra tài năng của Lưu Hoằng Định, rồi được phép của vua cha, Vũ bái Định làm thầy. Nay thấy các hoàng tử tụ họp bàn chuyện không phục vua nối đã lập. Cứ đà này, chắc họ sẽ bàn tới chuyện sát hại đông cung hoàng thái tử Lý Đức Chính. Và nếu như hạ sát được Đức Chính, sẽ đến lượt họ hạ sát nhau. Còn như việc này bại lộ, không những họ có tội mà ta cùng bị liên luỵ. Nghĩ vậy, Lưu Hoằng Định thấy không thể lẩn quất ở kinh thành được nữa. Tai bay vạ gió đến nơi rồi. Vào một đêm tối trời, y khoác tay nải trốn khỏi kinh thành, ra tận cảng Vân Đồn, trèo lên một chiếc tàu buôn nước ngoài. Từ đấy, không ai rõ tin tức Lưu Hoằng Định ở đâu nữa.