← Quay lại trang sách

Q1 Chương 33.

Từ bữa đi thăm lại hồ Dâm Đàm trở về, nhà vua cứ hâm hấp sốt về chiều, mồ hội rịn ra thấm hết cả lưng áo. Cứ một canh giờ, nội thị lại thay áo cho vua. Và khoảng cuối giờ hợi thì cất sốt, mồ hôi cũng ráo hẳn. Ngày hôm sau lại lặp lại y hệt ngày trước đó. Hội đủ các thái y danh tiếng để tìm ra phương thuốc chẩn trị, nhưng không một phương thuốc nào công hiệu.

Thấy trong mình ngày một khó ở, nhà vua biết mệnh mình đã sắp tận, bèn cho triệu tả hữu đến điện Long An để lập di chiếu. Trong số các tả hữu thân cận với nhà vua có thái uý Lý Trưng Hiền, viên ngoại lang Lý Nhân Nghĩa, thái phó Đặng Văn Hiếu, thái bảo Đào Thạc Phụ. Các quan đến đầy đủ, vua dụ: - Sinh diệt tụ tán là lẽ thường hằng của tạo hoá. Phàm ở đời hễ có sinh là có diệt. Ta cũng không nằm ngoài cái lý đó. Nay ta còn minh mẫn, muốn lập di chiếu truyền ngôi cho hoàng thái tử Lý Đức Chính là hoàng trưởng tử. Ta đã lập ngôi Đông cung cho Đức Chính từ năm Nhâm tí. Đức Chính vừa có đức độ vừa có phong thái của một bậc đế vương, là người hiểu thông kim cổ, giỏi việc trị loạn, ta tin Đức Chính có thể thay ta làm cho quốc gia hùng mạnh, hồn Việt thăng hoa. Nếu ta có mệnh hệ nào thì phải lập ngay Đức Chính là vua nối. Vậy theo lời ta vừa dụ, các khanh lập ngay tờ di chiếu để ta phê trước mặt các khanh. Sau đó các khanh cùng ký làm bảo chứng. Các khanh cũng phải thề trước ta, sau khi ta viên tịch, không ai được đổi ý. Các quan cùng rập đầu vái lạy. Di chiếu được lập tức thì. Nội thị viên ngoại lang Lý Nhân Nghĩa nâng tờ di chiếu cho vua đọc. Vua lại sai đọc to cho mọi người cùng nghe. Sau đó ngài châu phê, rồi lần lượt đưa cho bốn vị đại thần ký bảo chứng ở phía dưới. Lập xong di chiếu, vua ngậm ngùi nói với mọi người. - Ta vô cùng biết ơn các khanh đã cùng ta gánh vác việc nước. Nay mệnh ta đã sắp tận mà các khanh cũng đã luống tuổi. Trong cuộc đời phụng sự quốc gia, ta biết các khanh đã tận lòng trung với nước. Tiếc rằng ta hậu đãi các khanh không được như ý. Ta đã nói Đức Chính khi lên ngôi, phải trọng đãi các khanh. Thôi, các khanh về đi. Nói xong vua vẫy tay cho mọi người lui. Ai nấy chảy nước mắt cúi đầu vái lạy. Vua lại gọi: - Nhân Nghĩa ở lại với ta. Lý Nhân Nghĩa vừa phủ phục dưới chân long sàng, vua sai đuổi hết tả hữu và bọn nội nhân, bọn trung quan khác ra khỏi cung. Lại sai Nhân Nghĩa đi kiểm xét thêm một lần nữa. Khi Nhân Nghĩa đóng hết các cửa cung quay lại long sàng, vua nói: - Ta với khanh, tình là nội tộc, nghĩa là vua tôi. Nay ta sắp đi, muốn ký thác cho khanh một việc lớn. Khanh chưa làm hỏng một việc nào mỗi khi ta giao phó. Nhưng các việc khanh đã làm cho triều Thuận Thiên, chưa việc nào hệ trọng như việc ta sắp ký thác cho khanh đây. Nếu khanh chịu giúp, ta mới nói. Lý Nhân Nghĩa khóc mà tâu rằng: - Bệ hạ đã có lòng uỷ thác trước khi đi xa, thần dù da ngựa bọc thây, dù gan nát óc lầy cũng không từ nan. Nếu bệ hạ còn chút nghi ngờ, thần xin chết trước để bệ hạ thấy tấm lòng son. Nói rồi Nhân Nghĩa vụt chạy ra toan đập đầu vào cột điện mà chết. - Nhân Nghĩa! Nhân Nghĩa! Khanh mau lại đây. Nhà vua thét gọi lạc cả giọng. Cơn ho đến khiến nhà vua vừa đỡ ngực vừa rũ xuống. Lý Nhân Nghĩa vội chạy lại đỡ nhà vua rồi luôn miệng nói: - Bệ hạ! Bệ hạ! Thần đáng tội chết. Xin bệ hạ bình tâm ban thánh chỉ. Thần hứa sẽ tận lực. Ngồi thở một lát, mặt nhà vua đã hơi có sắc máu. Vua vẫy tay nói nhỏ: - Khanh ngồi sát vào ta đi. Lý Nhân Nghĩa lấy thân mình cho vua tựa. - Khanh đúng là nhân nghĩa, hệt như cái tên tổ phụ đặt cho. Ta chỉ tiếc vì không trọng dụng khanh được nữa, nhưng lòng tin cẩn với khanh, ta chưa bao giờ phải ân hận. Khanh biết đấy, ta sinh được nhiều hoàng nam. Đáng tiếc, ngôi vua chỉ có một. Con ta nhiều đứa có tài. Nhưng trị nước, đòi hỏi người có đức. Đức lớn bao trùm mới bao dong được kẻ dưới, mới chịu nhún mình mà dụng nhân tài. Mấy chục năm ròng, ta luôn kiểm xét các con để chọn người kế vị. Quả thật trong bọn chúng, chỉ có Đức Chính là hơn cả. Ta nghĩ vậy. Và triều quan ai cũng nói đúng như vậy. - Tâu bệ hạ, việc đó đã rõ rành rành, ngôi Đông cung đã lập. Nay bệ hạ lại có di chiếu. Nếu chẳng may bệ hạ thất lộc, thì triều đình cứ việc tuyên chiếu để tôn hoàng thái tử lên ngôi, bệ hạ còn phải lo gì nữa. Vả lại, các hoàng tử khác cũng đã an phận. - Thì ta cũng chỉ mong sự việc được như thế. Nhưng ta mơ hồ cảm thấy chúng nó sẽ nghịch mệnh. - Tâu, người có khả năng nghịch mệnh nhất là Khai Quốc vương, bệ hạ đã cho đi trấn Trường Yên rồi. Sao bệ hạ còn phải bận tâm trước lúc đi xa. Nhà vua cười, nụ cười méo mó nở trên gương mặt khắc khổ. Đoạn vua nói: - Ở đời cái chỗ không ngờ nhất lại là chỗ đáng ngờ nhất. Thôi thì cứ phòng bị là hơn cả. Vả lại, bữa trước chơi hồ Dâm Đàm, bỗng nhiên một trái trứng ngỗng trời đẻ rơi trúng vai bên tả của ta. Chiếc trứng vỡ nát, lòng đỏ, lòng trắng chảy tràn nửa thân áo ta. Bởi vậy, ta ngờ có chuyện người trong một bọc gây hoạ. Đó chẳng phải là điềm báo trước sao. Cho nên khanh cùng bọn người tâm phúc như Phụng Hiểu, Phùng Chân, Lý Thạc, Ngô An Ngữ… từ giờ không được rời Đức Chính nửa bước. Lại nữa khi ta đi, phải tuyên chiếu tôn Đức Chính lên ngôi đã, rồi mới được phát tang. Khanh nhớ nhé. Nói xong, nhà vua ngả xuống chồng gối xếp nằm nghỉ. Lý Nhân Nghĩa rời điện Long An thì trời đã chạng vạng tối. Ông không về nhà mình mà đi thẳng tới cung Long Đức. Thái tử hỏi han sức khoẻ vua cha và toan vào cung thăm viếng. Lý Nhân Nghĩa ngăn lại: - Hoàng thượng cùng tả hữu vừa lập xong di chiếu chiều nay. Điện Long An từ giờ phút này nội bất xuất ngoại bất nhập, thái tử không thể vào cung được nữa. Tất cả đều phải chờ tin tức từ điện Long An phát ra qua thái uý Lý Trưng Hiền. Lý Nhân Nghĩa cho hội Lý Huyền Sư, Lý Thạc, Phùng Chân, Lê Phụng Hiểu, Ngô An Ngữ, đô Sắn cùng các tướng tâm phúc để trao việc, phòng có biến. Lại nói kín nói hở vua Thuận Thiên đang lâm trọng bệnh. Qua đó, mọi người đều hiểu nhà vua sắp băng, và phải bảo vệ thái tử lên ngôi bằng mọi giá. Lê Phụng Hiểu cũng cho triệu đội dũng sĩ để giao phó công việc cho từng người. Thật ra thì từ đêm trước, thái tử đã mơ thấy một giấc mơ lạ… Cứ như là thần đã báo trước cho biết mọi việc. Vì vậy, mỗi việc làm, thái tử đều cân nhắc thận trọng. Lại sai Phụng Hiểu phải canh phòng nghiêm ngặt, phòng có biến, nhưng không được làm kinh động. Các vương Đông Chinh, Vũ Đức, Dực Thánh từ ngày biết vua cha lâm trọng bệnh đã cùng nhau nhóm họp tại cung của Vũ Đức vương để bàn bạc. Các vương đều nói: - Vua cha bất công. Vũ Đức vương mặt lạnh tanh nói: - Thử hỏi chúng ta kém gì Đức Chính. Chẳng qua Đức Chính có tài ton hót, nịnh bợ, nên được vua cha tin yêu. Lại bọn tả hữu của Đức Chính năng lui tới điện Long An, nói lót cho Chính. Phen này mà trừ được Đức Chính, ta thề sẽ bêu đầu hết bọn tả hữu của Chính. Cũng từ bữa đó, phủ binh của các vương đều cấm trại, và cử người giám sát điện Long An, giám sát cung Long Đức rất chặt chẽ. Ngay buổi chiều, thấy các quan đầu triều được triệu vào điện Long An như thái uý Lý Trưng Hiền, thái phó Đặng Văn Hiếu, thái bảo Đào Thạc Phụ, viên ngoại lang Lý Nhân Nghĩa, các vương đều đoán là có việc thảo di chiếu, và thiên tử thác mệnh. Giờ sửu, ngày mậu tuất tháng ba vua băng. Được tin, các quan đều kéo tới cung Long Đức mời hoàng tử Lý Đức Chính sớm mai về điện Long An để tuyên chiếu và vâng mệnh lên ngôi. Trong khi đó ba vương cũng đã sẵn sàng. Ai cũng biết, cung Long Đức nằm ở phía tây kinh thành, nên mỗi khi vào cấm thành, thái tử Lý Đức Chính thường đi cửa Quảng Phúc. Vì vậy, Vũ Đức vương, Dực Thánh vương hợp binh phục tại cửa này, chờ Đức Chính vào cấm thành là đánh úp. Còn Đông Chinh vương đem binh vào phục các nơi hiểm yếu trong Long thành. Các vương cũng cử người tâm phúc mật báo cho Khai Quốc vương tại Trường Yên, kíp ra tay phối hợp. Sáng ra, thái tử vào cấm thành từ cửa Tường Phù, tức là cửa phía đông kinh thành. Thật ra thì thái tử đã định đi cửa Quảng Phúc như thói quen thường ngày. Nhưng từ sáng sớm, con Huyền Đề đã nằm phục trước cửa tầu ngựa, nơi con Nê Thông đang đủng đỉnh nhai từng cọng cỏ. Tới khi có mã phu vào dắt ngựa ra đóng yên cương, và khi thái tử nhảy lên mình ngựa ra roi nhằm cửa phía tây kinh thành thì con Nê Thông quay ngoắt lại và cứ thế bổ vó theo con Huyền Đề dẫn đường từ phía trước. Nghĩ đây cũng là một điềm triệu, nhất là với con Huyền Đề thì thái tử đã có đôi lần chiêm nghiệm. Vì thế, thái tử khoát tay cho tả hữu quân quyền đi theo về cửa Tường Phù ở phía đông cấm thành. Thái tử vừa vào tới điện Càn Nguyên thì biết là đang có biến, liền sai đóng hết các cửa điện lại và cử các dũng sĩ canh gác nghiêm cẩn. Lúc này tại cửa Quảng Phúc hai vương Vũ Đức và Dực Thánh đang tung quân đánh gấp. Trong cấm thành, Đông Chinh vương cũng cho quân đi sục sạo tìm kiếm nơi ẩn náu của thái tử Đức Chính. Các vương đã bàn tính, sau khi trừ xong thái tử Đức Chính, sẽ hội quân tại điện Long An, ép các quan lập vua mới rồi mới phát tang Thái tổ. Tin tức các nơi cấp báo về điện Càn Nguyên, phủ binh của ba vương đang đánh rát lắm, sợ cấm quân không chống đỡ nổi, xin thái tử ra tay. Lý Đức Chính bèn nói với tả hữu rằng: - Ta đối với anh em chưa có một chút gì phụ bạc. Nay ba vương dám làm việc bất nghĩa như thế. Muốn chiếm ngôi báu, không coi di mệnh của tiên đế ra gì. Vậy ta phải làm gì đây? Các người hãy nghĩ giùm ta. Nội thị Lý Nhân Nghĩa nói ngay: - Đã gọi là anh em thì phải coi nhau như chân như tay, sống chết có nhau. Bên trong thì cùng nhau bàn bạc, bên ngoài đồng tâm hiệp lực chống giặc, giữ nước, giữ nhà. Nay tiên đế vừa băng, ba vương nhẫn tâm làm phản mưu hại thái tử để cướp ngôi. Vừa trái di mệnh vừa trái đạo lý; các vương đã phạm vào tội bất trung, bất hiếu, bất nhân, bất nghĩa. Vậy có còn là anh em nữa không, hay đã là cừu địch? Xin thái tử xuống lệnh cho bọn thần bắt các vương về trị tội. Thái tử với vẻ buồn rầu đáp: - Ta thật lấy làm xấu hổ, tiên đế vừa băng, chưa kịp khâm liệm, chưa kịp phát tang mà anh em đã chém giết lẫn nhau, để cho muôn đời sau còn có chỗ chê cười. Vừa lúc đó thái uý Lý Trưng Hiền cho quân vào bẩm: - Quân của Vũ Đức vương, Dực Thánh vương đang bủa vây điện Tập Hiền, điện Nhật Quang. Đông Chinh vương đang kéo quân về phía điện Cao Minh. Điện Càn Nguyên bị uy hiếp! Cấp báo! Cấp báo! Mọi người đang rối như ngồi trên đống lửa. Lê Phụng Hiểu lồng lộn như một con hổ đang muốn phá cũi sổ lồng. Trong khi đó hoàng thái tử Lý Đức Chính vẫn cứ điềm tĩnh, dường như là án binh bất động. Lý Nhân Nghĩa không còn giữ được bình tĩnh nữa, bèn lên tiếng gay gắt: - Tiên đế cho điện hạ là người: đức có thể nối được cái chí, tài có thể làm nổi việc lớn, nên đem thiên hạ phó thác cho điện hạ. Nay giặc đánh đến tận cửa khuyết rồi, mà còn ngồi đây nói đến điều nhân nghĩa kiểu đàn bà, thử hỏi đối với sự phó thác của tiên đế sẽ ra sao đây? Thái tử sầm mặt lại nói với tả hữu: - Ta há không biết điều đó sao. Chẳng qua ta muốn giấu tội ác cho ba vương, tưởng họ biết hối lỗi tự thẹn mà lui quân, ai dè họ lại rắp tâm làm loạn. Tình thế đã đến nước này, quả ta không còn chọn lựa nào khác. Các tướng nghe lệnh ta truyền: - Lý Nhân Nghĩa, Lê Phụng Hiểu, Ngô An Ngữ, Lý Huyền Sư, Dương Bình, Quách Thịnh, đô Sắn, cơ nào, đội ấy các ngươi ra tay đi! Hãy đốt ba phát pháo hiệu để các cánh quân khác của ta biết hiệu lệnh mà xông ra phối hợp. Các tướng khóc vì cảm động và phục lạy: - Chết vì hoạn nạn của vua là chức phận của chúng thần. Nay đã được chỗ đáng chết, chúng thần xin phụng mệnh. Ba phát pháo hiệu nổ vang như tiếng sét. Các cửa điện Càn Nguyên đều nhất loạt mở toang. Quân trong cung ào ra như lũ quét, mỗi người mang trong mình sức mạnh có thể địch tới cả trăm người. Nghe pháo hiệu, quân tả hữu kim ngô của Vệ Trúc, Phí Xa Lỗi phục trong cung Long Thuỵ, cung Thuý Hoa; quân tả hữu Vũ vệ của Đàm Thản, Đô Giản phục trong điện Giảng Võ, cung Nguyệt Minh cùng lúc ào ra vây bủa quân của ba vương. Lê Phụng Hiểu vỗ ngựa kéo quân xốc thẳng tới cửa Quảng Phúc. Con Huyền Đề vút lên như một mũi tên chạy trước ngựa của Phụng Hiểu để vòng về phía điện Tập Hiền. Đúng lúc ấy Vũ Đức vương, Dực Thánh vương cũng quặt ngựa lại vây lấy Phụng Hiểu. Và quân tả hữu kim ngô của Vệ Trúc, Phí Xa Lỗi cũng đuổi gần kịp hai vương. Lê Phụng Hiểu ghìm ngựa quát to kể tội các vương: - Tiên đế vừa băng. Bọn Vũ Đức vương đã ngấp nghé ngôi báu, không coi vua nối vào đâu, trên quên ơn tiên đế, dưới trái nghĩa tôi con. Vì thế, thần là Phụng Hiểu xin đem thanh gươm này để dâng! Nói xong vung gươm, tế ngựa xông thẳng vào Vũ Đức vương. Vương quay ngựa toan dùng miếng đà đao học được của Lưu Hoằng Định, bộ tướng của Dương Trường Huệ bị bắt làm tù binh trong trận đánh ở bến Kim Hoa năm Giáp dần, sau trở thành thầy dạy võ cho Vũ Đức vương. Song vì thấy vương chỉ mưu toan chuyện tạo phản, sợ cháy thành vạ lây, Hoằng Định đã bỏ vương đi từ lâu. Khi Vũ Đức vương vừa quay ngựa, lập tức con Huyền Đề lao vào đớp đúng bắp vế con ngựa của Vũ Đức vương. Ngựa của vương vừa khuỵu chân trước, Lê Phụng Hiểu lướt ngựa tới hươi đao, vương và cả con ngựa chưa kịp gượng dậy thì đầu của vương đã rơi “bịch” trước chân ngựa của Lê Phụng Hiểu. Phụng Hiểu hơi né mình lấy mũi đao gảy một cái, đầu của Vũ Đức vương tung lên, tay kia của Phụng Hiểu liền túm lấy. Ông đáp lại phía sau cho đám thuộc hạ bọc gói đem về. Lúc này máu từ cổ Vũ Đức vương mới kịp phun lên như một cây pháo bông đỏ lòm. Thừa thắng, Lê Phụng Hiểu tung quân đánh rát, lại sai quân đi chẹn bốn cửa thành. Phủ binh của ba vương chỉ là một lũ lính công tử, địch sao được với binh của triều đình, địch sao nổi với cường binh của Lê Phụng Hiểu. Vì thế bọn này bị truy đuổi, bị chém giết tơi bời, không một mống nào chạy thoát. Lê Phụng Hiểu tế ngựa sục khắp bốn cửa đông, tây, nam, bắc muốn tìm giết hết bọn Đông Chinh vương, Dực Thánh vương để trừ hậu hoạ cho nước. Bọn các vương do Vũ Đức cầm đầu, vì Vũ Đức được giới võ lâm tôn như một bậc cao thủ. Ấy thế mà khi gặp Lê Phụng Hiểu, chưa kịp giao đấu đã rơi đầu, khiến các vương khiếp sợ phải bỏ ngựa, quăng gươm, thay áo chạy vào cung Thuý Hoa nhờ đám cung nữ và hoạn quan che chở, vẫn còn chưa hết run sợ. Lê Phụng Hiểu trở về, nhung phục còn nhuốm máu đỏ tươi, vội quỳ trước linh cữu Thái tổ, tâu việc thắng trận. Sau đó trở lại điện Càn Nguyên báo cho thái tử hay, đã dẹp xong loạn ba vương. Thái tử nhìn nhung phục của Lê Phụng Hiểu vẫn còn vết máu tươi, lại nhìn gương mặt hiên ngang khí phách của viên dũng tướng mà tiên đế đã sáng suốt ban cho, để kết thành tâm phúc, lòng rưng rung cảm động, chàng nói: - Ta sở dĩ gánh vác được cơ nghiệp to lớn của tiên đế, lại giữ được toàn vẹn tấm thân của cha mẹ để lại, đều là nhờ vào sức của khanh. Thuở nhỏ ta đọc sử nhà Đường bên Tàu, thấy Uất Trì Kính Đức xả thân cứu vua gặp nạn. Đúng là không có Uất Trì Kính Đức quên thân cứu chủ, chắc là Tần vương[85] đã chết trước mũi giáo của Đơn Hùng Tín. Khi lớn lên, ta cứ bị chuyện này ám ảnh mãi và ta tự nghĩ, đời sau chắc không ai được như Kính Đức. Nay gặp nạn mới thấy Phụng Hiểu còn trung dũng hơn Kính Đức nhiều lắm. Thế mới biết lửa thử vàng… Cảm kích về lời khen của chủ, Lê Phụng Hiểu lạy hai lạy mà rằng: - Đức lớn của điện hạ đã cảm thấu cả trời đất. Hoá nên kẻ nào xâm phạm đến điện hạ, lập tức thần linh ra tay mà giết đi, bọn thần có công gì đâu. - Đúng là có trời đất, thần linh giúp rập, nhưng nếu không có sự trung dũng của chư khanh, thì cơ nghiệp của ta sao giữ được. Không nên quy công tất cả cho thần. Ngày hôm sau, trước linh cữu Thái tổ, quần thần tôn thái tử Lý Phật Mã lên ngôi, đổi niên hiệu là Thiên Thành. Đông Chinh, Dực Thánh đến cửa khuyết khóc lạy xin được tha tội, và xin được chịu tang Thái tổ. Từ điện Long An, nơi quàn di hài Thái tổ trở về cung Long Đức, vua Thái tông[86] thấy trong lòng cuộn lên nỗi bùi ngùi khó tả. Vua sai nội thị mở cung Dưỡng Tâm để ngài vào đó nghỉ. Gọi là nghỉ, nhưng thực ngổn ngang trăm mối. Mới chỉ một hai ngày qua, mà sao nhà vua cảm như công việc của cả trăm năm dồn nén lại, và nó bật tung ra như một cơn ác mộng. Nhà vua tự hỏi: – Có phải đức ta bạc hay kiếp trước ta mắc vào nghiệp chướng, nay phải trả nghiệp đây. Ai dè tiên đế nằm xuống chưa kịp khâm liệm, chưa kịp phát tang thì một lũ em đã rủ nhau nổi loạn. Ta không biết, nếu giết được ta thì chúng sẽ làm gì. Ba đứa ấy lòng tham đều chất ngất, sẽ chẳng đứa nào chịu cho đứa nào giữ ngôi tôn. Chúng sẽ dàn xếp với nhau thế nào. Chắc lại giết lẫn nhau một lần nữa. Trong ba đứa ấy, mưu mô thủ đoạn thì Vũ Đức vương đứng đầu. Đúng là nó chẳng chịu ở yên bao giờ. Vua cha đến khổ vì nó. Mặc dù người đã rất nghiêm khắc. Mới hay cha sinh con, trời sinh tính. Phụ vương đã từng căn dặn ta về mấy người anh em. Khai Quốc là kẻ có tài, lắm mưu. Làm tướng đánh trận thì giỏi, nhưng thiếu tính bao dong, nên người dưới khó ở. Vũ Đức thì hẹp lượng, lại sân si làm cho nó phải đoản mệnh. Phụ vương lại dụ, chúng nó mắc vào vòng tham dục của thế gian, chấp vào cái lý thế gian nên tự mình chuốc lấy phiền não. Khi nào hoạ đến, con gắng kìm nén cuồng nộ mà mở lòng từ ái với các em. Ta biết trước sau rồi tai hoạ sẽ đến, nhưng ta chưa đủ đạo lực để hoá giải. Phải chăng quả này là do nhân đã gieo trồng từ những kiếp trước. Đúng là hạnh phúc hay bất hạnh của mỗi con người đều tự mình tạo lập lấy. Không ngờ những điều tiên đế dự liệu nó lại đến sớm như vậy. Bây giờ ta biết tính sao đây. Triều Thái tông vừa lập, nếu luật pháp không nghiêm từ trong nhà, như người xưa thường nói “quân pháp vô thân”, thì làm sao mà nêu gương cho thiên hạ được. Nếu nghiêm phép nước, tạo phản là tội phải chém bêu đầu. Chẳng nhẽ mở đầu cho triều đại Thái tông lại là cái chết của ba người anh em ư? Nếu vậy, ta sẽ mắc tội bất nghĩa vì giết em, lại mắc tội bất hiếu vì không nghe lời tiên đế đã căn dặn lúc sinh thời. Ôi, những người anh em, sao các người làm ta khó xử. Nếu không trị tội các người, thì các tướng còn ai dám vì ta mà dấn thân vào nơi nước lửa. Mà trị tội các người có khác nào tay phải cầm dao chém vào tay trái. Việc này, ta phải hỏi mấy người tâm phúc. Đúng lúc ấy cung quan là Lý Huyền Sư rón rén bước vào. Thấy nhà vua thân tựa chồng gối xếp, tay bóp trán, mặt bơ phờ mệt mỏi, y khẽ bước đến gần, chắp tay cung kính, miệng mấp máy như người nói thầm: - Bệ hạ! Bệ hạ còn buồn nỗi gì nữa. Không thấy nhà vua bắt chuyện Lý Huyền Sư lại nhăn nhở: - Bệ hạ! Bệ hạ nên giải khuây đi. Cớ chi bệ hạ tự làm khổ mình đến thế. Đằng nào thì tiên đế cũng đã băng. Khi sinh thời, người từng dạy: sống chết là đạo của trời đất. Đời là bể khổ, nay tiên đế đã giải thoát khỏi kiếp nhân sinh đi vào cõi niết bàn rồi, hà cớ gì bệ hạ còn phải buồn. Hay vì cái loạn tam vương? Thì đã dẹp bỏ xong xuôi. Không còn gì làm cho bệ hạ phải lo nữa, vậy cớ chi bệ hạ phải buồn. Dù Lý Huyền Sư là người tâm phúc, lại dám xả thân vì chủ, nhưng sao Thái tông vẫn không hay biết y đang nói gì. Nhà vua chỉ cảm thấy một thứ âm thanh vo ve như tiếng nhặng kêu phía vành tai. Không kéo được Thái tông ra khỏi nỗi buồn trĩu nặng, Lý Huyền Sư quanh quẩn một lúc rồi cũng lủi ra ngoài. Phía hành lang, một thiếu nữ đang gục ngủ trên mặt kỷ. Huyền Sư núm tóc cô bé giật ngửa mặt lên. Thiếu nữ kêu: Ối! Ối! - Mẹ cha mày số đen rồi con ạ! Huyền Sư cất tiếng chửi tục. Người con gái vẫn còn ngái ngủ, mặt ngơ ngác. Nom gương mặt thiếu nữ chẳng khác một đứa trẻ mới lớn. - Mày mấy tuổi rồi? – Huyền Sư hỏi. - Dạ bẩm, con mười ba tuổi. - Đúng không? - Dạ đúng. Mẹ con bảo thế. - Mày tiến cung được mấy hôm rồi. - Dạ, con mới vào hôm nay. - Mày có biết mày vào đây làm gì không? - Dạ không. - Thôi được, mày tên gì? - Con tên là Gái. Nhưng vào đây các ông bảo tên con là Quỳnh Hoa. - Ai bảo? - Cái ông già không râu, mồm móm nói lắp, dạy con như thế. - Cha mày. Cụ ấy mà nghe mày nói thế, là không còn cái xương nào đâu con ơi. Ông mày đây còn phải sợ nữa là. Thôi được mày là gì Hoa? - Dạ Quỳnh Hoa. - Ừ thì Quỳnh Hoa, hôm nay tao định đưa mày vào hầu thiên tử giải khuây. Nhưng số mày không may, để hôm khác. Nhớ mặt tao nhá, nếu sau này được sủng ái phải đền ơn tao. - Con chẳng hiểu ông nói cái gì. - Thế mày vào đây làm gì? - Làm sao mà con biết được. Các quan bảo lệnh triều đình bắt đi. Con khóc. Mẹ con cũng khóc. Chỉ có bố con là không khóc, nhưng ông buồn lắm. Nếu ông cho con về nhà với bố mẹ, thì con nhớ ơn ông suốt đời. - Ngu ạ. Mày mà được hoàng thượng sủng ái thì cả họ nhà mày sướng. Huyền Sư lại dẫn người cung nữ mới tuyển trả về cung. Trong điện Dưỡng Tâm nhà vua thiếp ngủ đi lúc nào. Trong mơ: người, vật, lửa cháy, quân reo cứ diễn ra chập chờn. Bỗng thấy Vũ Đức vương ló mặt vào. Vũ không chào hỏi nói năng, mặt lạnh tanh. Vua hỏi: – Vương đệ đến ta có việc gì. Vũ hét lên: – Trả đầu ta đây! Y vừa dứt lời xong thì chiếc đầu rụng xuống lăn lông lốc, và một dòng máu đỏ phun lên từ cổ Vũ. Thái tông thét lên: Thích khách! Thị vệ chạy vào. Nhà vua mặt tái nhợt, mồ hôi lấm tấm trên vừng trán rộng. - Nước! Thị vệ dâng trà bổ dưỡng, uống xong, vua cho lui. Còn lại một mình trong cung, vua dần hồi nhớ giấc mơ hãi hùng. Lần giở lại mấy đêm trước, tức là trước khi ba vương khởi loạn một ngày, vua mơ thấy thần núi Đồng Cổ hiện về, nói các việc ba vương sẽ làm phản vào ngày hôm sau, hãy đem quân đánh dẹp ngay đi. Thức dậy, vua lấy làm lạ. Nhưng nhớ hồi năm Canh thân, tức chín năm về trước nhân chuyến nam chinh, thảo phạt người Chiêm, vua có ghé núi Đan Nê, vào làm lễ thần Đồng Cổ. Đêm ấy thần cũng báo mộng kỳ này đi đánh dẹp sẽ lập công lớn trở về. Thần hứa, sẽ đi theo hộ trì. Mọi việc diễn ra hệt như lời trong mộng. Vì thế lần này vua tin ngay, và đã có mật bàn với thái uý Lý Trưng Hiền đem các vệ Kim ngô, Vũ vệ phục tại các nơi hiểm yếu trước. Lại giữ đội quân Thần bổng và tướng hùm sói Lê Phụng Hiểu ở bên mình; và giấu nhẹm cánh quân này trong điện Càn Nguyên. Vì thế khi ba vương đem binh nổi loạn, vua vẫn giữ được bình tĩnh, và chỉ cho quân ra đánh dẹp khi các vương kia đã lộ hình tích là kẻ phản nghịch. Công ấy của thần lớn lắm, không thể không lập miếu thờ. Tuy nhiên, các việc này vua chỉ cho làm lặng lẽ chứ không hé lộ thiên cơ cho bất kỳ một người nào được biết. Sáng hôm sau thiết triều, dù đã cố nén giấu, vua Thái tông cũng không xoá nổi những nét u buồn, khắc khổ trên gương mặt một người trai non ba chục tuổi. Khai triều, nhà vua nói: - Ta rất xấu hổ với các quan về việc ba vương làm loạn. Vũ Đức vương tự mình làm nên tội chết, đã phải chết. Còn Đông Chinh vương, Dực Thánh vương hôm qua đã tới cửa khuyết lạy xin được tha tội và được chịu tang tiên đế. Ta vì tình cốt nhục chưa nỡ giết. Trộm nghĩ, còn phép nước thì sao. Chẳng nhẽ người trong hoàng gia, hoàng tộc thì có quyền đứng ngoài hoặc đứng trên phép nước chăng. Nhìn khắp lượt triều quan rồi dừng lại giây lâu, nhà vua lại tiếp: - Lòng ta đang rối bời, ta mong các khanh hãy giúp ta khu xử việc này, để sao ta không mắc tội bất nhân, bất nhẫn tàn sát cả anh em; nhưng cũng đừng để đương thời và hậu thế coi ta là kẻ trị vì nhu nhược đặt tình riêng trên phép nước. Nhân đây, ta tỏ lòng khen ngợi các khanh trong lúc hoạn nạn, đã chung sức chung lòng, cương dũng vượt qua hiểm nguy, sớm chấm dứt cuộc đầu rơi, máu đổ. Công ấy lớn lắm. Ta mong các khanh tận tâm giúp rập cho triều Thiên Thành hơn nữa. Hết thảy triều quan đều im lặng. Ai cũng cho việc này là muôn khó. Được tình thì thất lý. Được lý lại đoạn tình. Tội ác ba vương đã rành rành. Bạn nghịch là tội chém bêu đầu. Nhà vua có lượng tình thì cũng phải lĩnh án tam ban[87]. Các quan cứ rì rầm bàn tán, mãi không có người nào xuất ban. Nhà vua cũng nóng lòng, lúc thì nhìn Lý Nhân Nghĩa, lúc lại nhìn Lương Nhậm Văn, Lý Đạo Kỷ, Liêu Gia Trung… như là một sự cầu cứu. Mãi lâu sau Lương Nhậm Văn mới xuất ban tâu: - Thần trộm nghĩ, tội các vương đã rõ rành rành, không thể nào mà che bịt được. Thử hỏi, người trong nước, lúc này còn ai không biết tội các vương. Vì vậy, triều đình dứt khoát phải nghiêm xử. Lương Nhậm Văn dừng lại nhìn khắp lượt triều quan, xem ý tứ các quan thế nào. Xem ra các quan, ai cũng gật gù tán thưởng. Nhậm Văn lại chú mục vào đức kim thượng, thấy nhà vua mặt ủ buồn, chứ không tươi như lúc ta vừa xuất ban. Lương Nhậm Văn lại cất giọng sang sảng: - Tội của ba vương đã rõ ràng không có gì phải bàn cãi. Nhưng tội của những người dạy dỗ các vương thì sao? Theo thần, các bà thái hậu sinh ra các vương vì nuông chiều con thái quá, để các vương lộng hành, không thể nói là các bà không có tội. Vì vậy phải hạ phẩm cấp từ hàng thái hậu xuống phu nhân hoặc thục nhân, cung nhân hay nhũ nhân, nhụ nhân là tuỳ các quan nghị bàn và hoàng thượng y chuẩn. Vậy còn các bậc sư phó, tức những người thầy dạy của các hoàng tử thì sao? Thần nhớ, có lần còn sinh thời Thái tổ, người đã cho triệu tất cả các vị sư phó đến dụ rằng: “Ta giao phó các con ta để các ông dạy dỗ cho nên người. Nếu các con ta trở thành người trung hiếu, công các ông lớn lắm. Nếu các con ta hư hỗn hoặc mắc vào vòng lao lý, tội các ông cũng lớn lắm…”. Trong những năm qua triều đình đã tri ân các bậc sư phó, trọng đãi, hậu đãi như thế, Thái tổ vẫn chưa cho là đủ. Thế mà nay ba vương, tức là các học trò của các vị mắc vào tội đại nghịch, chẳng nhẽ các vị lại vô can sao? Chưa có chứng cớ để nói các vị sư phó là tòng phạm, nhưng chuyện rõ rành rành là các vị giáo hoá học trò không thấu đáo phận vua tôi, không đạt tình hiếu đễ. Dạy học trò trở nên bất trung, bất hiếu mà thầy vẫn nhởn nhơ hưởng lương hưởng lộc sao? Thiết nghĩ triều đình phải thu lại ruộng lộc điền của các ông sư phó này, bãi bỏ cái danh nghĩa sư phó, đuổi về quê quán làm thứ dân, và phải chịu phần lao dịch. Xem ra phần nghị tội các bà thái hậu và các vị sư phó của Lương Nhậm Văn khiến các quan ai nấy đều có vẻ tâm phục. Còn về phần các ông hoàng đã phạm tội thì sao? Lương Nhậm Văn lại nhìn các triều quan thấy ai nấy đều có vẻ căng thẳng. Ngay nhà vua cũng bần thần. Thái tông tự nghĩ: Y luận tội các bà thái hậu, các ông sư phó, rồi y đưa ra cách xử rất công minh, không ai có thể bắt bẻ. Nếu như bây giờ, y lại buộc các vương vào tội đại nghịch mà xử thì sao? Kể cũng khó mà bác được y. Đành rằng, ta có thể dùng quyền tối hậu mà phán xét. Nhưng đó là chuyện thế bất đắc dĩ. - Còn tội của tam vương thì sao? – Lương Nhậm Văn cao giọng hỏi: – Vũ Đức vương đã thọ án chém. Việc ấy là xứng đáng. Thần xin bệ hạ sớm ban thưởng cho Vũ vệ tướng quân Lê Phụng Hiểu để khuyến khích người trung dũng. Đối với Dực Thánh vương và Đông Chinh vương tội đáng bêu đầu nhưng các bà thái hậu, các ông sư phó đã đồng chịu tội nên có thể giảm bớt bằng cách tha cho sinh mạng, nhưng từ nay không được phép lập phủ binh nữa, nhằm tránh hậu hoạ. Dám xin bệ hạ minh xét. Nói xong Lương Nhậm Văn vái nhà vua hai vái, quay vái các đồng liệt một vái rồi lui về chỗ. Các quan đều cho cao kiến của Lương Nhậm Văn là thấu tình đạt lý. Đành rằng cho các vương hưởng án ấy là quá nương tay. Nhưng như nhà vua đã nói, ngài không muốn buổi khai triều của thời đại Thiên Thành, lại cũng là buổi khai đao với mấy người anh em ruột thịt. Về phần nhà vua, thật ngoài tầm mong đợi của ngài. Vừa không mang tiếng giết người đồng tông, vừa không thả lỏng kỷ cương pháp độ, lại vừa ngăn lấp hậu hoạ. Vua Thái tông đưa hai tay sửa lại cái mũ bình thiên cho ngay ngắn, mà nó vốn đã ngay ngắn. Sửa lại nếp áo long bào, thả vạt trước cho phủ kín cả đôi hia, tay cầm chiếc kim hốt giơ cao, vua phán: - Ta thấy những lời phân giải của Lương Nhậm Văn là hữu lý, hữu tình. Theo ta, không còn cách nào tốt hơn thế. Nếu các quan không có ai phản bác thì ta y chuẩn. Dưới sân rồng các quan đều hô to: - Thiên tuế! Thiên tuế! Thiên thiên tuế! Lời hô ấy có nghĩa là mọi người đã đồng tâm nhất trí. Vua lại nói, ta muốn nhân cơ hội này để chấn chỉnh nội các. Vậy các khanh tự nghĩ, ai xứng chức nào được tự mình đề xuất, hoặc đề xuất cho người khác. Nhưng phải công tâm, phải chịu trách nhiệm về các việc đề cử ấy, tức là phải có bảo cử. Ai vì tham lam hoặc kéo bè kết cánh một cách xằng bậy mà đẩy nhau lên, xét tài đức đều không xứng chức, tất bị biếm, bị bãi. Việc này phiên chầu sau, ta sẽ quyết. Vua phảy chiếc kim hốt và phán: - Bãi chầu!