← Quay lại trang sách

Q1 Chương 32.

Bữa nọ, nhà vua thấy trong người nhẹ nhõm, lòng đang phấn chấn, tự dưng lại nhớ cảnh Dâm Đàm, bèn gọi nội thị vào phán: - Ngươi nói viên đô uý đô Tùy long, soạn sửa lâu thuyền Kim Phượng, nửa giờ nữa ta sẽ dùng đến.

Lại cho gọi hoàng thái tử Lý Phật Mã vào chầu. Hoàng thái tử vừa ló vào cung, nhà vua liền đứng dậy vỗ vai chàng rồi kéo ra phía Long Trì – Con đi cùng ta. Chiều nay ta muốn ngoạn cảnh Dâm Đàm. Hoàng thái tử lặng lẽ bước theo vua cha xuống lâu thuyền. Kim Phượng là một trong bốn lâu thuyền mà đức Thuận Thiên ưa dùng. Lâu thuyền không lớn, chỉ có hai tầng. Tầng dưới chứa các đồ ngự dụng để dâng đức kim thượng trong khi du ngoạn như trà, rượu, các đồ ăn nhẹ cùng nhiều vật dụng khác. Lâu thuyền gắn hai chục mái chèo cùng bốn mươi trải thủ cực khoẻ thay nhau chèo để giữ cho thuyền lúc nào cũng đi nhanh. Nếu cần đi gấp, mỗi mái hai tay chèo, thuyền đi chẳng kém gì sức ngựa phi. Tầng dưới của lâu thuyền đóng kín như thuyền chiến, từ ngoài nhìn vào mạn chỉ thấy các mái chèo bổ nước đều tăm tắp, chứ không thấy trải thủ. Tầng trên chia làm ba khoang, mỗi khoang là một phòng. Khoang lái, dành cho mười lính hộ vệ trong đội hổ bôn. Khoang giữa, vua ngự. Khoang mũi, dành cho mấy ả a hoàn hầu hạ vua. Khoang vua ngự, sàn ghép thuần gỗ thơm như tùng, bách. Vách thuyền là những con tiện bằng gỗ đinh hương vừa thơm vừa chắc. Hai bên vách thuyền treo loáng thoáng vài bức tranh thêu cảnh ngư-tiều-canh-độc, cảnh Yên Tử sơn, Tản Viên sơn nom sống động như các cảnh đó đang thị hiện. Mới non chiều, mặt trời đang chênh chếch phía Tản Viên sơn. Hơi nước bốc như khói, như sương giăng trắng mặt hồ. Những cánh rừng rậm rì trên những hòn đảo nhấp nhô trong hồ lúc ẩn lúc hiện, nom như cảnh sắc thần tiên. Nhà vua chợt ngửng nhìn lên bầu trời chói nắng. Cái nắng thật là mạnh, những tia hồng hồng rọi xuống cố chọc thủng màn sương khói bao phủ mặt hồ mà không thể nào lách xuống được. Đầu xuân, được một ngày nắng như thế này thật là hiếm hoi. Tuy trời nắng, nhưng vẫn giá ngăn ngắt. Vua Thuận Thiên đang ngước nhìn về phía trời tây, gắng tìm qua phía bầu trời trắng đục màu sữa kia, xem đỉnh Ba Vì, đỉnh Tản Viên nằm ở chỗ nào. Thật ra đỉnh Ba Vì, đỉnh Tản Viên sơn nằm ở chỗ nào, thì ngay trong đêm tối nhà vua cũng nhìn thấy nó ở trong lòng. Tuy nhiên, lúc này nhà vua vẫn muốn nhìn thấy nó như nhiều lần qua lại vùng này nhà vua đã nhìn dãy Ba Vì hiển hiện như một bức trường thành ở phía tây, và dòng sông Cái có sắc nước đỏ ngầu tựa như một lưỡi kiếm khổng lồ ở phía đông, chặn lối vào của giặc từ phương bắc. Từ khi còn làm chức quan nhỏ dưới triều Lê Hoàn, Lý Công Uẩn thường từ Hoa Lư qua lại vùng này để về quê hương Dịch Bảng, hoặc từ Dịch Bảng qua đây để vào kinh thành Hoa Lư, nhà vua đã thuộc nằm lòng tất cả. Nhà vua bèn vẫy hoàng thái tử lại gần, ngài chỉ tay ra mặt hồ, lại chỉ lên bầu trời, rồi khoát tay vòng từ phía đông sang phía tây và hỏi: - Con có thấy non sông ta thật là cẩm tú không? - Bẩm phụ vương, đất nước ta không những đẹp mà còn hùng vĩ nữa. - Đúng như con nói. Chỉ tiếc bữa nay trời mù sương quá. Nếu không, dãy Ba Vì kia và dòng sông đỏ lựng này hiển lộ, con mới thấy nó khả ái dường nào. Vừa nói, vua Thuận Thiên vừa chỉ về phía tây, rồi ngài ngoái tay chỉ về phía đông. Hoàng thái tử thấy vua cha bữa nay như khoẻ ra, như có điều gì vui lắm người đang ấp ủ ở trong lòng. Đáp lời cha, Lý Phật Mã nói: - Trình phụ vương, con đã được phụ vương nhiều lần răn dạy về thế đất của Thăng Long. Phía tây, dãy Ba Vì đột khởi lên như một bức tường thành, lại như một chiếc lưng ngai làm điểm tựa vững chắc cho Thăng Long, mà nhìn từ xa, những đỉnh núi như những mãnh hổ đang ngồi phục với thế thật là vững chãi. Lại phía đông, dòng sông uốn lượn như một con thần long đang cuộn mình. Và dòng sông đỏ lựng phù sa kia cũng tựa như một lưỡi kiếm thép khổng lồ lúc nào cũng nung đỏ để chặn bước tiến của giặc dữ phương bắc. Thái tử hạ giọng: - Phụ vương đã dạy như thế, sao con dám nguôi quên. Bẩm phụ vương, chẳng cần trời quang mây tạnh, ngay cả ban đêm, nhắm mắt lại con vẫn thấy núi Tản, sông Lô hiển hiện ở trong đầu. Nhìn con, nhìn bầu trời trắng đục, ánh nắng mờ mờ, nghe tiếng những mái chèo khua nước đều đều, nhà vua nở một nụ cười hiền hậu, ngài vỗ vai hoàng thái tử, giọng trìu mến: - Con à, cái thế rồng cuộn hổ ngồi mà con vừa nhắc lại, đâu phải ý của ta. - Bẩm phụ vương, ngoài phụ vương ra, còn ai đủ kiến văn nhìn ra những điều kỳ bí đó trong khu linh địa này. Nhà vua nhìn con mỉm cười: - Vậy con thử đoán xem, ở nước ta, ai có con mắt nhìn thấu tám cõi đó. Thái tử chau mày, dường như chàng đang kiểm xét trong trí nhớ của chàng xem có những đấng bậc nào có tài quán thông khiến phụ vương cũng phải tâm phục làm vậy. Chợt có một cái gì đó vừa loé ở trong đầu, thái tử vội chắp tay: - Bẩm phụ vương, con ngờ rằng người kỳ tài ấy là đức Vạn Hạnh thiền sư. Nói xong chàng ngửng nhìn vua cha, chờ một ý cha ban. Vua Thuận Thiên mỉm cười khiến gương mặt ngài như sáng lên, ngài vỗ vai con xác nhận: - Đúng vậy con ạ. Chính đức Vạn Hạnh đã chỉ ra những điều bí ẩn đó. Và ngài khuyên với ý xa xôi từ khi ta còn giữ một chức quan nhỏ trong cấm đình dưới triều Lê Long Đĩnh. Nhớ một bữa ta với ngài cùng đi từ hương Dịch Bảng về Hoa Lư. Khi qua vùng Dâm Đàm ngài sai dừng thuyền lại để ngài xem ngắm núi sông. Đoạn ngài nói với vẻ bâng quơ: “Đây mới chính là đất của đế đô muôn đời. Ta chỉ tiếc nhà Lê với nhãn giới thiển cận cứ thủ hiểm kinh đô ở nơi hang động, khiến thế nước không thoát ra được, không hanh thông lên được”. Thả tầm mắt ra bốn hướng chợt nhà vua bắt gặp một đàn sếu bay ngang đầu. Trời mù sương sếu phải bay thấp nên nghe rõ tiếng chim đập cánh. Đàn chim bay đen cả bầu trời. Chúng bay theo hình chữ bát[84]. Nhô lên trước hình chữ bát là một tốp dẫn đầu chừng năm con bay theo hàng dọc. Đầu đàn phải là con chim khoẻ nhất, khôn nhất và định hướng bay chính xác nhất. Tốp đầu đàn thường có từ ba đến năm con, phòng khi con đầu tiên gặp rủi ro thì con tiếp theo thay thế. Do đó hành trình của cả đàn không bao giờ bị rối loạn hoặc lạc hướng bay. Như là một sự lạ, bởi chưa bao giờ nhà vua bắt gặp một đàn chim đông đến như vậy, ngài bèn ngước nhìn. Bỗng từ đâu đó, như có ai thả rơi một vật khá nặng trúng vai nhà vua. Vật lạ đánh trúng mỏm xương vai phải của ngài ngự. Thấy nhói đau, ngài vội so vai và cũng có phần hơi hoảng sợ nữa, tưởng như có thích khách. Đám a hoàn vội hô hoán: - Bệ hạ! Bệ hạ! Trứng ngỗng trời! Trứng ngỗng trời! Nhà vua ngoái nhìn bả vai thấy lòng trắng, lòng đỏ trứng rớt nhoe nhoét cả long bào. Mấy a hoàn xúm vào lau áo cho vua. Thái tử sáp lại gần vua cha. Lòng chàng bối rối không biết đây là điềm lành hay điềm gở. Mặt nhà vua hơi biến sắc. Chắc ngài nghĩ đến một điềm triệu gì đây. Nhưng nhà vua tự trấn tĩnh ngay. Ngài đặt tay lên vai con và lại tiếp tục câu chuyện đang nói dở: - Này con! Nhưng người phát lộ ra vùng đất này tụ hội anh linh tú khí trước cả đức Vạn Hạnh, lại chính là Cao Biền kia. Cao Biền được Đường Hàm Thông phái sang làm Tiết độ sứ cai quản đất này từ năm Bính tuất (866), y đã chọn nơi đây làm Tiết trấn. Chính y cho đắp La thành vòng quanh tới một nghìn chín trăm tám mươi hai trượng. Lại đắp đê bao không cho nước tràn vào tới hai nghìn một trăm hai mươi nhăm trượng. Và đi xem xét hình thế núi Tản sông Lô, thấy đất này có vượng khí đế vương, nên y đã cho đào đắp, yểm trấn nhiều nơi nhằm triệt long mạch. Nghe vua cha nói “Cao Biền triệt long mạch”, hoàng thái tử giật mình hỏi lại ngay: - Bẩm phụ vương, Cao Biền trấn yểm thế có gây hoạ hại gì cho đất nước mình không ạ? - Việc núi sông hình thành là do Trời đã an bài. Nước ta có vùng linh địa này cũng là tự Trời bày xếp cả. Ấy là mệnh trời. Cao Biền không tự lượng sức dám chống lại thiên đạo. Lúc đầu y cũng có làm cho thế nước ta chao đảo. Nhưng sau, núi sông lại liền mạch, việc yểm trấn trở nên vô dụng. Đó chẳng là ý trời ư? Ngay phía tây thành Đại La, Biền đã yểm dưới hố sâu tới cả ngàn cân sắt, nhưng trời nổi sấm sét đánh bật tung giữa một đêm trăng sáng, khiến Biền phải run sợ mà từ bỏ dã tâm. Cho nên sau này nối nghiệp ta, con phải nhớ truyền đời, chính nơi đây – chính cái hồ Dâm Đàm này là một đại huyệt của nước Nam. Đây là vùng tụ khí của cả miền linh địa; hồ này chính là não thuỷ của Thăng Long. Vậy nên phải giữ để cho không bao giờ nước hồ cạn kiệt, không được san lấp mặt hồ. Nhà vua bỗng nghiêm trang lạ thường. Ngài nói dằn từng tiếng: “Con phải nhớ nằm lòng lời ta dặn đây: DÂM ĐÀM TUYỆT THĂNG LONG DIỆT”. Thái tử như đã lãnh hội được tính nghiêm cẩn trong lời vua cha ký thác, chàng đáp: - Bẩm phụ vương, con xin ghi lòng tạc dạ. Lâu thuyền vẫn rẽ nước đi loanh quanh mấy hòn đảo. Càng về chiều, sương khói càng bốc lên mù mịt, che lấp cả tầm nhìn. Chỉ vài chục trượng đã không nhìn rõ hình thù các vật phía trước. Vì vậy, có khi thuyền đi sát vào bãi sâm cầm, cả người và chim đều không nhìn thấy nhau, chợt động nước, chim vút bay lên, người chỉ nghe thấy tiếng vỗ cánh rào rào mà đoán đàn chim đông đúc tới mức nào. Trời mỗi lúc mỗi mù mịt thêm. Thuyền không dám đi nhanh nữa, sợ va vào các thuyền câu, thuyền chài lưới, hoặc đâm vào các đảo chi chít cây rừng. Người cầm lái đã phải gõ chuông làm tín hiệu cho các thuyền lạ biết mà tránh. Nhìn bầu trời càng lúc càng trắng đục như sữa, nhà vua bảo con: - Đất nước ta tuy cẩm tú, nhưng cũng là miền đất lam chướng, người phương bắc đến đất này chỉ mắc bệnh thời khí mà chết. Vì vậy sứ nhà đông Hán sau khi ở nước ta về đã can gián vua họ rằng: “Xứ ấy ở xa ta hàng vạn vạn dặm. Đường đi hiểm trở, sông nước mịt mùng. Quân ta có đánh chưa chắc đã lấy được nước ấy. Dẫu có lấy được cũng không ở được, bởi khí hậu lam chướng. Quanh năm ẩm thấp, sương mù đến nghìn nhận, chim còn chẳng nhìn thấy đường bay, đâm vào nhau rơi xuống chết trắng cả mặt đường…” Nhà vua ngừng lời nhìn ra bầu trời bốn bề mù mịt khói sương. Gió xuân hây hẩy, đem theo cái mát lạnh của mặt hồ phả vào khoang thuyền. Vua Thuận Thiên rùng mình ớn lạnh. Thái tử khoát tay chỉ vào vai nhà vua, mấy ả a hoàn vội lấy áo ấm khoác lên vai ngài ngự. Lý Phật Mã nhìn sắc mặt vua cha như có phần hồ nghi về sức khoẻ của ngài. Chàng hỏi: - Bẩm phụ vương có thấy trong người khó ở không ạ. Nhà vua lắc đầu. Chàng lại hỏi: - Bẩm phụ vương, người Hán biết đất ta hiểm trở, lại cũng biết đất ta lam chướng. Nhưng nối đời họ vẫn không từ bỏ mưu đồ xâm lấn. Từ Tần, Hán, Ngô, Tấn, Tề, Lương, Tuỳ, Đường rồi lại Tống, chẳng triều đại nào chúng không dòm ngó đất ta. - Đúng thế đấy con ạ. Đó là thói tham bẩn của một con ác thú. Về phần ta, có giữ được nước hay không đều như ở sức ta cả. Ta yếu, thì họ xâm lăng, họ đặt nền thống trị. Ta mạnh, thì họ xin rút quân, xin giảng hoà. Trước khi rút, thế nào họ cũng ngoạm một miếng giang san của ta, để ta cứ phải đòi đi đòi lại trong thế giằng co. Rồi cũng lại từ mảnh đất giằng co ấy, họ vin vào làm cớ để khai lại cuộc chiến khi nào họ đủ lực. Thành thử sống chung với họ rất chi là khó chịu. Họ trở mặt như trở bàn tay, mình nhu nhơ một tí là mất nước như chơi. Thái tử thở dài, hỏi lại: - Bẩm phụ vương, thế có cách nào tránh được can qua không ạ. - Có chứ con. – Vua Thuận Thiên nói với con bằng một giọng âu yếm, cứ như chàng còn trong độ tuổi thiếu niên – Tránh được con ạ, nhà vua nói tiếp. – Nhưng ta phải mạnh về binh lực, giàu về lương thảo, khí giới. Dân ta phải cùng một lòng một dạ giữ nước. - Tâu phụ vương, có cách nào làm cho thế nước được như phụ vương nói. Như nước ta hiện nay binh đã đủ mạnh chưa, lương thảo đã dư dả chưa. - Này con! Con thử tính xem từ khi cha được nước tới nay là bao nhiêu năm rồi? - Thưa phụ hoàng, đã sang năm thứ mười tám rồi. Chẳng lẽ người không nhớ sao? - Tính năm thì là mười tám năm đấy, nhưng thực ra ta mới trị vì có mười bảy năm, mùa xuân này mới là mùa xuân thứ mười tám của triều Thuận Thiên. Vậy con có biết ta tha tô thuế cho dân bao nhiêu năm không? - Dạ, khi phụ vương tha tô thuế là lúc con còn nhỏ. Nhưng xem trong biên niên sử, con biết dân được tha ba lần, hai lần đầu, mỗi lần ba năm; lần thứ hai chỉ có một năm rưỡi thôi. Con không hiểu phụ vương tha tô thuế nhiều như vậy thì nhà nước lấy gì nuôi quân, nuôi bộ máy cai trị. - Tha tô thuế cho dân nhiều làm vậy, nhưng có mất gì của ta, mất gì của triều đình. Ngược lại, triều đình còn nhân đó có lợi nhiều lắm. Ta nói con nghe, trước hết là việc binh, ta dùng chính sách ngụ binh ư nông. Vậy là ta có một đội quân cực lớn, triều đình lại đỡ phải chi phí tốn kém. Hằng năm, cứ tới vụ nông nhàn tháng ba, tháng tám xuân thu nhị kỳ, ta tập trung tất cả nông phu trong toàn cõi từ mười tám đến bốn mươi nhăm tuổi đi luyện tập. Triều đình chỉ cử người thành thạo việc binh về huấn dạy cho họ các thứ binh khí mà trong quân đang dùng, cũng như các thuật đánh thành, đánh quân phục, thuật hành binh… Ngay đến cả áo quần tập luyện cho tới việc ăn uống, người nông phu cũng đều phải tự lo hết. Thế mà họ vẫn vui vẻ chấp thuận. Ngừng lời, nhà vua nhìn hoàng thái tử với một vẻ như là mãn nguyện. Chợt vua lại nói: - Con thử nghĩ xem, ta giấu việc nguy hiểm, chính là việc binh ấy, vào cái chỗ nhàn nhã nhất, tức là nơi thôn ấp đồng quê, nghĩa là ta tin vào dân như ta tin vào chính ta vậy. Do được tha tô thuế, lại không bị ép buộc phải xa nhà, người nông phu vì thế càng ráng sức làm ăn để thoát khỏi cảnh đói nghèo. Ngoài tha tô thuế liền năm, ta còn cấp thêm đất ruộng, lại khuyến khích khai hoang vỡ hoá, rồi cho sở hữu luôn đất ấy. Còn thuế khoá chung trong toàn xã hội, ta chỉ quy về sáu sắc thuế đánh vào các nguồn lợi từ rừng và biển. Vả lại, nếu ta có thu số thuế gấp cả chục lần số thuế ta đã tha cho họ, vị tất đã nuôi nổi đội quân lớn như vậy. Không những thế, triều đình còn bị dân oán nữa. Một khi đã được tha tô thuế, người dân còn có lý gì để oán ta. Còn có lý gì để không ráng sức làm giàu cho chính mình. Khi họ đã có của ăn của để mà kẻ nào dám động đến quốc thổ ta, ắt kẻ ấy tự chuốc lấy thất bại. Bởi toàn thể đất nước ta, mỗi người dân sẽ là một người lính, nước có giặc là họ lập tức ra mặt trận ngay, vì rằng ai ai cũng đều được tập tành huấn hỗ rồi. Mà đi chiến đấu là để bảo vệ chính mình. Việc nuôi dân, nuôi quân như thế, con hiểu rồi chứ. Nhà vua nói và lặng nhìn thái tử. - Bẩm phụ vương con hiểu ạ. Con hiểu cả cái ý sâu xa, cao cả của việc phụ vương liền năm tha tô thuế, là nhằm nuôi vỗ sức dân lâu dài, nhằm hưng thế nước. Vâng con hiểu. - Còn việc nuôi bộ máy cai trị cũng không tốn kém nhiều đâu con ạ. Những chức dịch nơi hương ấp do dân bầu ra, dân sẽ góp trả họ bằng công lao dịch. Chẳng hạn mỗi người dân đến tuổi trưởng thành mỗi năm phải góp cho nhà nước mười lăm ngày công để cấy ruộng công và làm các việc công ích khác, thì trích cho xã trưởng từ một trăm đến một trăm năm mươi ngày công tuỳ số dân của hương ấp. Các quan từ châu, quận đến lộ và các quan làm việc tại triều, được trả theo số lúa được quy định theo từng cấp bậc. Số lúa ấy lấy từ ruộng công điền. Ngoài ra còn được triều đình cấp thêm đất ruộng tại nơi hương ấp. Lâu thuyền vẫn lướt nhẹ trên mặt hồ mù sương. Tiếng gõ mảng lanh canh của mấy chiếc thuyền đang bủa lưới khiến người lái thuyền phải đổi hướng. Thuyền rẽ ngoặt sang một góc khuất nơi một hòn đảo lồ lộ như một trái núi giữa hồ, bất chợt đâm vào một đàn sâm cầm đang dập dềnh trên mặt nước, chúng hốt hoảng lao vút khỏi mặt hồ, tạo thành những tiếng động rào rào như trời chợt đổ cơn mưa đá. Nhìn sát những gương mặt dịu hiền của mấy ả a hoàn, lại nhìn cảnh đất nước thanh bình, giàu thịnh như một xứ sở thần tiên, vua Thuận Thiên bỗng động lòng trắc ẩn nhớ cảnh đất nước điêu linh dưới triều ác vương Lê Long Đĩnh. Lại nhớ đến công lao vun đắp cho ngôi nước của các bậc thiền sư như thày Vạn Hạnh, thày Đa Bảo cùng biết bao bậc thiện trí thức khác. Vậy mà các ngài đã lần lượt bỏ ta mà nhập niết bàn. Lòng rưng rưng nhà vua gọi con: - Này Phật Mã! Thái tử vẫn đứng cách nhà vua chưa đầy hai bước chân, chàng bèn ngoảnh lại: - Dạ thưa phụ vương có điều gì dạy con ạ. - Con nhớ kỹ điều ta sắp nói đây. Mắt nhà vua như nhìn vào xa xăm. Đoạn ngài chậm rãi. Mỗi lời nói như được ủ bọc từ tim óc nhà vua bỗng nhiên bật nảy ra. – Này con, ta sở dĩ được nước, công lao chủ yếu từ nơi các bậc đại thiền sư, bản thân ta cũng được sinh ra và được giáo dưỡng từ nơi cửa Phật. Vậy là triều đại nhà Lý ta gốc ở Phật. Cho nên trách phận của con sau này vừa phải giữ nước, vừa phải giữ đạo. Giữ sao cho đạo hoà được vào đời, nhưng không được đời quá, không được thế tục quá. Thế tục quá thì đạo suy. Nhưng cũng đừng siêu việt quá. Siêu việt quá thì đạo nhạt, vì dân không theo được. Suốt một đời hành hoá, ta nghiệm ra điều này: Nước là nhân của đạo, đạo là hồn của nước, chúng dân là nhựa sống của cả hai thứ đó. Nói xong, nhà vua vỗ nhẹ vào hai vai thái tử rồi ngài lui vào lâu thuyền, và khoát tay cho thuyền quay mũi, còn ngài ngồi kiết già trên tấm toạ cụ, mắt lim dim thả hồn vào đại định.