← Quay lại trang sách

Q1 Chương 35.

Lại nói đến Khai Quốc vương tức hoàng tử Bồ được vua cha cho trị nhậm phủ Trường Yên từ tháng sáu năm Quý sửu, tới nay kể đã mười lăm năm. Khai Quốc vương là người có tư chất thông minh từ nhỏ. Học đâu nhớ đấy, nhưng không thiên trọng nghiệp văn. Càng lớn, hoàng tử càng muốn tìm kết thân với các bậc hào kiệt trong thiên hạ. Lại thích giao du với các cao thủ võ lâm, và thường tổ chức giao đấu giữa các môn phái để tìm ra các bậc siêu tuyệt, trước là để đo sức mình với thiên hạ, sau đó là chiêu tập về tụ dưới trướng, vừa để tăng sức mạnh, vừa để tăng vây cánh. Ít lâu nay, các hoàng tử Đông Chinh vương, Dực Thánh vương, Vũ Đức vương thường hay đi lại thăm viếng phủ Trường Yên, và cũng có đôi lần Khai Quốc vương về Thăng Long đáp lễ.

Dò xét ý tứ, thấy con đường mình đã ngầm chọn với cao vọng của các vương xem ra không hợp nhau. Khai Thiên vương đã tỏ lộ cái mầm vương đạo, nên được vua cha chọn lập từ sớm. Ta được xem như một kẻ ương gàn, nên vua cha đuổi ra Trường Yên trấn trị. Chính cư sĩ Đinh Thành xui ta xin vua cha cho ra Trường Yên. Ngày đó còn nhỏ tuổi, đôi lúc nhớ kinh thành, nhớ mẫu hậu, nhớ nhũ mẫu nên nhiều lúc ta cứ oán vua cha đẩy đi miền sơn cước. Nhưng lớn lên, ta ý thức được đây là miền đất thủ hiểm vô song. Chính Đinh Tiên Hoàng nhờ đất này mà nên nghiệp đế. Đúng là trong hoạ có phúc. Vì vậy ta đã không ngừng chỉnh bị binh lực, và đã rèn luyện trong tay có một đội tinh binh vào hàng xuất quỷ nhập thần. Lại nữa, các cao thủ võ lâm trong vùng đều một lòng quy phụ. Chỉ cần ta hô một tiếng, lập tức các anh hùng, hảo hán sẽ nhanh chóng tới chầu. Sẵn có sức mạnh về binh lực, lại có cả uy lực, và võ công của bản thân Khai Quốc vương cũng vào hàng thượng thặng, kết hợp với tính hiếu thắng và cả hiếu kỳ nữa, nên vương đã cùng với bọn bộ hạ mặc các đồ giả trang, đeo mặt nạ của các loài ma quỷ đón đường cướp bóc khách thương, hoặc xông vào các làng gây nhiễu loạn cho các nhà giàu có. Các xã quan, hoặc châu, quận tâu lên các việc vừa xảy ra, thì lập tức vương sai họ phải tìm ra manh mối, bắt kẻ đầu sỏ giao nộp; nếu không sẽ bị trừng trị. Thế là các chức dịch thảy đều sợ hãi, không dám tâu báo về phủ hoặc về triều đình. Thật ra thì cả người dân lẫn chức dịch đều biết Khai Quốc vương là kẻ ném đá giấu tay. Nên không có một ai dại gì mà tố giác. Từ đó, Khai Quốc vương mặc sức hoành hành trong giới lục lâm. Nhưng các việc đó chỉ diễn ra vào ban đêm, và cũng chỉ xảy ra mang tính nhất thời, còn ban ngày thì luật pháp vẫn được nghiêm giữ. Thảng có kẻ nào dùng quyền thế, dùng sức mạnh mà uy hiếp hoặc đè nén, cướp bóc kẻ yếu, sự việc được phát giác thì Khai Quốc vương trị tội rất nặng. Thành thử dân chúng và cả quan lại trong phủ Trường Yên, vừa tin sợ vương lại vừa nghi ngờ vương, đôi khi oán vương. Được tin vua cha vừa băng, các vương ở Thăng Long đang nổi loạn, Khai Quốc vương bèn họp tả hữu. Vương nói: - Tiên đế vừa băng. Ngôi nước đã lập. Đông cung chưa kịp tức vị thì các vương đã nổi lên tranh cướp ngôi báu. Ta ở xa Thăng Long. Vả ta cũng biết việc này thế tất sẽ xảy ra, nhưng ta không tham dự. Đất nước hẳn lại phân ly như thời tiền Đinh mà thôi. Nay thời cơ đã đến. Trong lúc các vương còn mải tranh chấp ngôi trời, không phòng bị, ta định nhân cơ hội tiến binh để mở mang cương thổ, chẳng hay ý các ông thế nào? Hai viên tả hữu vũ vệ cùng xuất ban xin nói. Nom hai viên tướng oai phong lẫm liệt, mặc dù họ không mang theo binh khí, không mặc nhung phục, Khai Quốc vương có vẻ bằng lòng lắm. Thuận tay, vương chỉ vào viên tả vũ vệ: - Tướng quân nói thử ta nghe. Tả vũ vệ Đinh Trọng Toán năm nay ba mươi hai tuổi, vốn là một tay thợ săn nổi tiếng, vừa có tài thiện xạ, vừa có sức khoẻ hơn người. Nhưng nổi tiếng nhất là lần y tay không đánh chết con gấu ngựa, khi con vật này nhảy chồm lên định cướp đõ ong mật trên tay Trọng Toán giữa một khu rừng rậm. Đinh Trọng Toán đứng thẳng người, tay đưa lên vuốt nếp áo, rồi vuốt nhẹ một bên hông, theo thói quen của một võ tướng thường hay rờ vào chuôi kiếm đeo ở bên sườn. Đoạn y nói: - Bẩm đại vương, đại vương như con cá kình bị hãm nơi đầm ngòi chật hẹp không thể vẫy vùng cụng cựa; nay nước tràn, đê vỡ thì đâu cũng là biển cả, không nhân cơ hội này mà dấn lên, thử hỏi đại vương còn chờ chi nữa? Khai Quốc vương gật gật mái đầu đen nhức, tỏ vẻ hài lòng về viên bộ tướng. Vương lại hỏi: - Ngươi bảo ta dấn lên là dấn lên cái gì? Ngươi nói rõ ta nghe. - Tâu, dấn lên tức là đánh thôi. Đem quân toả ra bốn phía mà mở mang cương thổ. Nếu các vương, mỗi vương hùng cứ một phương thì ai có nhiều đất, nhiều dân hơn thì người ấy làm bá chủ thiên hạ. Trọng Toán ngừng lời, nhìn thẳng về phía Khai Quốc vương, y nhấn mạnh: – Cái chí của đại vương chẳng phải thế sao? Khai Quốc vương không đáp lời Đinh Trọng Toán, mà quay về phía hữu vũ vệ Nguyễn Quang Nhường, vương nói: - Ta muốn nghe cao ý của tướng quân. Nguyễn Quang Nhường liền đứng phắt dậy, vái Khai Quốc vương hai vái: - Bẩm đại vương, nếu đại vương thấy việc nên làm, phải cấp kỳ làm ngay, không do dự; do dự là thời cơ qua đi, sẽ hỏng cả đại sự. Vẻ ngập ngừng nửa muốn nói tiếp nửa lại e ngại. Thoáng Khai Quốc vương đã đoán biết tới tám chín phần tâm trạng của Nhường, vương liền giục: - Tướng quân cứ nói thẳng ý nghĩ của mình. Đây là lúc luận bàn, ta muốn nghe các người nói đúng điều các người nghĩ, phải trái mặc lòng, không ai bắt bẻ. Thấy chủ tướng mở lòng, Nguyễn Quang Nhường lại tiếp: - Tâu đại vương, đúng như ý của quan tả vũ vệ, ai chiếm được nhiều đất, nhiều dân, người đó sẽ nắm phần ưu thắng, sẽ làm bá trong thiên hạ. Theo thiển ý của thần, đại vương không nên kéo binh về kinh sư. - Tại sao không đem binh về kinh sư? – Khai Quốc vương chẹn ngang bằng một câu hỏi. Nguyễn Quang Nhường nhìn thẳng vào chủ tướng, lại nhìn vào đám quần hùng và mưu sĩ, đoạn thong thả nói: - Đem binh về kinh sư có hai điều thất lợi: Thứ nhất là công nhiên chống lại triều đình. Dù ngôi tôn thuộc về ai thì lập tức người ấy cũng cho đại vương là làm phản. Đại vương không thể biện minh với ai được. Điều thất lợi thứ hai là binh của đại vương sao hùng hậu bằng binh của triều đình. Vạn nhất mà xảy ra huyết chiến, đại vương có nắm chắc phần thắng về mình không, có bảo toàn được binh lực không? Trái lại, bây giờ đại vương tản binh ra tứ phía mà chiếm đất, có khác chi đi vào chỗ không người. Bởi tinh binh đã tập hợp hết về triều, còn lại đám dân binh sao dám đương đầu với đại vương. Thế là đại vương dùng sức quân nhàn rỗi mà vẫn mở mang được cương thổ. Việc ấy, xưa nay ít người làm được lắm. Nói xong Nguyễn Quang Nhường vái Khai Quốc vương hai vái rồi lui về ban. - Tướng quân nói rất hợp ý ta! – Khai Quốc vương khen. Vậy thời bên văn ban các ông có ý gì khác không. Nói xong, Khai Quốc vương nhìn khắp mấy người giúp rập mà vương thường coi là mưu sĩ, nhưng không thấy một ai nhúc nhích. Chợt thầy đồ Lương Thúc Bằng nắn lại chiếc khăn lượt, sửa lại hàng khuy áo, rồi đứng dậy vái Khai Quốc vương một vái và nói: - Lương Thúc tôi xin có nhời. - Ấy chết, sao sư phụ lại xử thế làm ta trở thành kẻ thất lễ với thầy. Dạ xin thầy cho nghe cao ý. - Thần không thể không nói, bởi chưng đức Thuận Thiên đã giao phó cho thần giáo hoá hoàng tử biết biện biệt những điều phải quấy. Nay đức tiên đế vừa băng, việc tang chưa đâu vào đâu, các hoàng huynh, hoàng đệ đã nổi dậy tranh cướp ngôi trời. Nay đại vương lại đưa quân đi chiếm đất, thiết tưởng việc ấy không hợp với đạo Trời và cả lẽ người nữa. Băn khoăn giây lát, Lương Thúc Bằng lại nói: – Nếu hoàng tử quyết làm việc này, Lương Thúc tôi xin liều chết mà nói rằng, ngài đã phạm vào tội bất mục đối với các vương huynh, vương đệ; còn đối với tiên đế, ngài phạm tội đại bất hiếu, dám xin vương nghĩ lại. Càng nghe viên sư phó nói, Khai Quốc vương càng thấy bức bối, khó chịu, mặt hoàng tử đỏ phừng phừng, nếu không kìm nén, ắt đã có hành vi thất lễ với người thầy học. Vái thêm một vái – xin vương đại xá, rồi Lương Thúc ngồi xuống ghế. Cái dáng ông vẫn khòng khòng của một người lớn tuổi. - Còn ai can nữa thì nói mau đi! – Bỗng Khai Quốc vương nói như người hét: – Ta đang muốn nghe đây! Lại một vị sư phó nữa đứng lên. Ông này trẻ hơn, tuổi ngoại tứ tuần, dáng người to khoẻ, giọng nói oang oang. Ông được triệu vào phủ Trường Yên để dạy hoàng tử về các môn thiên văn, địa lý. Vái hoàng tử một vái, ông nói luôn: - Tôi không nghĩ như Lương tiên ông. Theo tôi, hiếu là ở trong lòng, mục là ở trong lòng. Nay các vương kia ở gần kề tiên đế, kíp khi tiên đế vừa băng, triều đình còn chưa kịp phát tang, trong ngoài còn chưa hay biết mà các vương đã khởi sự. Thử hỏi các vương kia có nghĩ đến hiếu, đến mục không. Nay thời cơ đến mà không túm lấy ngay, e rằng tới ngày nào đó thầy trò lại không có chỗ nương thân. Theo thiển ý của thần, nếu hoàng tử thấy việc thuận thì cứ làm liền đi, kẻo rồi lại hối không kịp. Sư phó Nguyễn Thiếu Kiệt nói xong vái Khai Quốc vương một vái, ông ngồi xuống nở nụ cười mãn nguyện, như tự tưởng thưởng cho cao ý của chính mình. Tranh cãi râm ran mãi, người nói “nên”, người nói “không nên”, nhưng tựu trung “phe chiến” đông hơn “phe hoà”. Khai Quốc vương lại một lần nữa gặng hỏi: - Các ông có ai còn ý gì nói nốt ta nghe. Cư sĩ Đinh Thành từ nãy vẫn lắng nghe mọi người nói. Ông thấy có nhiều điều hợp với ý ông. Nhất là ý tưởng của hai viên tả hữu vũ vệ. Thật ra đó là bài bản mà ông đã bày xếp. Chính ông gà cho hoàng tử xin với vua Thuận Thiên để về trấn tại đất này. Nay thời cơ đến nhẽ ra ông phải là người đứng lên phất cờ chứ. Thế mà Khai Quốc vương đã quên khuấy cái việc vì sao vương được về đất này rồi. Sự thể thế này, có nhẽ ta cũng phải quên ngay cái công ta khơi mào, nếu không trước sau rồi cũng mang hoạ vào thân. Nghĩ vậy, Đinh Thành lại nhìn ông sư phó, tức thầy đồ Lương Thúc Bằng đang ngồi bó gối ở góc kia. Gương mặt ông ta an nhiên bình thản như mặt nước hồ thu, mặc dù ông ta vừa táp vào mặt Khai Quốc vương những lời búa bổ. Ta chắc chẳng bao lâu nữa rồi ông ta cũng được mời khéo về quê. Nhưng quả thật ông ta là người có nhân cách cao, trong đám các ông thầy và đám mưu sĩ tại phủ Khai Quốc vương này. Không ai nói nữa, Khai Quốc vương đi đến quyết sách: - Theo ta, phải đánh cấp kỳ ba mặt đông, tây, nam. Còn bắc án binh bất động. Các tướng nhao nhao hỏi: - Sao đại vương lại kiềng mặt bắc? - Thì đánh chó phải ngó chủ chứ. Các người không biết mặt bắc là mặt tiếp cận với Thăng Long sao. Ở đây, các vương huynh, vương đệ của ta đang tranh chấp. Vả lại phương ngôn có câu “ăn tìm đến, đánh nhau tìm đi” kia mà. Vậy các tướng hãy nghe ta nói đây. Khai Quốc vương dõng dạc tuyên lệnh: - Tả vũ vệ Đinh Trọng Toán, lĩnh một ngàn quân tiến về mặt đông. - Hữu vũ vệ Nguyễn Quang Nhường, lĩnh một ngàn quân tiến về phía nam. - Đô thống Lý Khôi Nguyên, lĩnh một ngàn quân tiến về phía tây. - Các tướng nghe kỹ điều ta dặn đây! Các người phải tìm mọi cách tâm phục bọn đầu lĩnh để chúng đầu hàng, tránh mọi sự đổ máu. Sau khi chiêu vỗ xong, lại cho ở nguyên chức cũ, bổng lộc giữ nguyên không suy suyển. Cấm ngặt việc xua quân vào thôn ấp cướp của, giết người gây xáo trộn nhân tâm. Bởi cái đích của ta là mở mang cương giới, cho nên việc chiêu an không được xem thường. Kẻ nào trái lệnh, ta cho các tướng được quyền chém trước, tâu sau. Các tướng cứ vững lòng tiến quân, đích thân ta trọng trấn Trường Yên và nghe ngóng động tĩnh từ Thăng Long, chờ các tướng báo tiệp về. Một phát pháo hiệu nổ vang. Các tướng lần lượt dẫn quân ra khỏi cửa thành. Khai Quốc vương vừa quay vào nơi trướng hổ thì có sứ từ Thăng Long về cấp báo: “Ba vương nổi loạn. Vũ Đức vương, Dực Thánh vương phục quân cửa tây, đón giết thái tử vào cung. Nhưng thái tử lại đi cửa đông. Lê Phụng Hiểu đem quân ra nghênh chiến. Chưa giao đấu được hiệp nào Vũ Đức vương đã bị Lê Phụng Hiểu chém bay thủ cấp. Phủ binh của các vương tan tác. Đông Chinh vương, Dực Thánh vương đầu trần, chân đất đứng sau cửa khuyết xin hàng. Thăng Long đã yên trở lại”. Khai Quốc vương tâm trạng rối bời. Thế chân vạc không còn nữa, ta biết tính sao đây. Quân vừa ra khỏi thành, vị tất đã gọi được chúng về. Lỡ triều đình đem binh đến chiêu an thì sao. Về với Phật Mã hay chống lại Phật Mã đây? Phật Mã là đương kim thiên tử. Chống lại Phật Mã là chống lại triều đình. Ta nhân danh gì để chống lại Phật Mã? – Hỏi tội Phật Mã giết hại anh em ư? Không được. Vũ Đức nổi loạn. Tam vương nổi loạn, cả Thăng Long đều biết. Ta chống Phật Mã là danh không chính. Danh không chính thì ngôn khó thuận. Bởi kéo binh về Thăng Long là phải phát hịch. Lời hịch viết sao đây? Không viết được gì cả. Bởi nó nghịch nhĩ, trái đạo. Đã trái tai lại trái đạo, còn ai theo mình nữa. Khó thay! Vậy ta phải làm gì đây? Ra hàng ư? Ai đánh mà ta hàng. Thôi thì án binh bất động là thượng sách. Khai Quốc vương sai các tướng đem binh chặn các đường hiểm yếu từ Thăng Long đổ về Trường Yên, còn mình ở tại trung quân để nghe ngóng động tĩnh.