Q1 Chương 36.
Tham tri chính sự Lý Mật dâng sớ hạch tội Khai Quốc vương. Một là thiên tử băng mà không về chịu tang.
Hai là vua mới nối dòng đại thống mà không về chầu. Ba là nhân cớ nước nhà có tang mà xua quân đi bốn phía mở mang cương thổ mưu bạn nghịch. Phạm một trong ba tội ấy đã phải chém bêu đầu, thế mà Khai Quốc vương lại phạm cả ba trọng tội, xin bệ hạ sớm trừng trị để giữ nghiêm phép nước. Lý Mật vừa vái nhà vua lui về chỗ thì Đỗ Sấm, Hữu gián nghị đại phu cũng xuất ban tâu: - Bệ hạ, mấy hôm nay bên Thượng thư sảnh, Trung thư sảnh đều nghị bàn việc Khai Quốc vương làm phản. Tội của Khai Quốc vương đã rõ rành rành, như bên Thượng thư sảnh đã cáo giác, qua lời sớ mà quan Tham tri chính sự Lý Mật vừa tuyên. Xin bệ hạ sớm trừ bỏ, đừng để cái ung nhọt ấy làm suy yếu cả quốc gia. Tâu bệ hạ, ngay cả hai nước thù địch, thì cũng không nhân chuyện nước kia có tang mà đem quân vây đánh. Ngay cả hai nước đang đánh nhau mà một bên có quốc tang, bên kia lập tức hưu chiến. Chúng thần không hiểu Khai Quốc vương là hạng người nào, lại dám ngang nhiên giày xéo lên kỷ cương lễ luật như vậy. Đỗ Sấm nhìn thẳng lên ngai vàng, nơi nhà vua đang ngự, với vẻ cương nghị, ông nói tiếp: – Tâu bệ hạ, nếu không sớm trị tội Khai Quốc, thì trong nước sẽ xảy ra huyết chiến, xảy ra huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt. Nếu không nghiêm trị Khai Quốc người trong nước ắt chia lòng, luân thường đạo lý lại lâm vào rối nát như thời Long Đĩnh Ngọa triều mà thôi. Vua Thái tông lòng ngổn ngang trăm mối. Vua cha chết còn chưa kịp mai táng, thì ba người anh em nổi lên định cướp ngôi. Nhờ phúc lớn ta dẹp yên, lại đến Khai Quốc vương làm phản. Các quan cáo giác không phải là vô cớ. Thật là nhục cho gia đạo, nhục cả quốc thống. Nhà vua còn chưa kịp huấn dụ gì thì nội lệnh sử Hoàng Thúc Phương đã lại xin nói. Vua biết người này lòng dạ thẳng ngay, nhưng nếu lại phải nghe những điều cáo giác đau lòng nữa, ta sao chịu nổi. Hoàng Thúc Phương một lần nữa giơ cao chiếc hốt. – Thần, nội lệnh sử xin bệ hạ cho được tâu ạ. Nhà vua miễn cưỡng gật đầu. Hoàng Thúc Phương bước ra khỏi ban, vái nhà vua hai vái rồi nói: - Tâu bệ hạ, thần không biết phải chép cái gì vào chính sử đây. Tưởng rằng cái hoạ Lê Long Đĩnh giết Lê Trung tông chỉ xảy ra một lần trong lịch sử nước ta. Thái tổ cao hoàng đế triều ta là một bậc học thức tinh thuần, lại xuất thân từ cửa Phật, nên từ khi triều Thuận Thiên trị vì, đã đem lại không biết bao điều tốt lành cho nhân quần xã hội. Biết bao thuần phong mỹ tục mới được hình thành trong mấy chục năm nay. Thái tổ rất coi trọng việc khai trí cho nhân chúng, hoá nên Thái tổ càng coi trọng việc giáo hoá cho các hoàng tử. Mỗi hoàng tử có tới mấy ông sư phó. Thuần chọn các bậc thầy văn, thầy võ vào hàng đệ nhất trong thiên hạ để giáo hoá. Tưởng được học hành dạy dỗ như vậy, các vương phải là những tấm gương cho thiên hạ soi vào. Nay vì lòng tham, sân khởi động, đã làm các vương trở thành sói lang, không những để hận cho nhà, mà còn là mối nguy hoạ cho xã tắc. Thử hỏi lấy gì mà gột rửa được vết nhơ này. Hoá nên, bệ hạ phải nhanh chóng trị tội Khai Quốc, để yên lòng thiên hạ. Nếu không, người hiền sẽ bỏ bệ hạ mà đi, người trí cũng bỏ bệ hạ mà đi. Tới lúc ấy, sự thể còn nguy hơn là nước có giặc. Xin bệ hạ lưu tâm. Khu mật viên Xung Tân xuất ban xin nói: - Tâu hoàng thượng, việc các đồng liêu của thần vừa trình bệ hạ, là việc không thể trì hoãn được nữa. Thần cũng không có ý gì khác. Duy có một điều để yên lòng thiên hạ, để đoạn diệt sự dòm ngó, chúng thần xin bệ hạ cho lập ngay ngôi Đông cung. Các quan còn nhiều người giơ cao hốt xin nói. Nhưng nhà vua cho như thế là đủ, nên vẫy tay cho mọi người an toạ. Nhà vua nói: - Những điều các khanh vừa tâu, đều là nỗi bức xúc của trẫm. Việc dẹp loạn Trường Yên, trẫm sẽ thân chinh. Nhân đây trẫm y chuẩn việc sách phong hoàng tử Nhật Tôn làm Đông cung thái tử. - Chư khanh! – nhà vua nói, giọng cảm động. – Tại đây, nhiều người theo Thái tổ từ ngày mở nước, xiết bao khó nhọc, và không thể nói là đôi lúc không có hiểm nguy. Vì thế, có người đã phải bỏ cả mạng sống của mình ngoài chiến trận hoặc nơi biên tái. Nhiều vị tuổi cao, sức yếu không thể tiếp tục công việc mỗi ngày một nhiều hơn, nặng nhọc hơn. Vả lại, ở đời không có vật gì lại không thay đổi cả. Chức quan cũng thế thôi, khi thăng, khi giáng đều theo tài đức và công lao mà sắp đặt. Hơn nữa còn biết bao người trẻ tuổi có tài mà không được cất nhắc vào việc. Vậy nên, ta nhất loạt thăng cho mỗi quan một bậc. Và từ sáu mươi tuổi, nhất loạt hồi hưu. Ai chưa đến tuổi, nhưng vì sức yếu, hoặc ai tuổi còn trẻ, sức còn khoẻ mà thấy không đủ tài đức gánh vác công việc, đều có thể xin nghỉ để còn được hưởng chế độ hưu quan. Chớ để khi ta khảo khoá mà thải, loại thì không được cấp hưu bổng nữa. Ta đã nói, mọi người đều nhất loạt được lên một bậc kể cả tại chức hay hồi hưu. Phần đất ruộng cấp cho các hưu quan, tuỳ theo chức tước và công lao mà được hưởng, đúng lệ mà tiên đế đã đặt ra. Ta vẫn muốn cấp cho các quan nhiều hơn thế, nhưng ruộng đất thì không sinh sôi mà con người ngày một nhiều thêm. Thử hỏi, vua tôi lấy đất ở đâu mà chia mãi cho nhau. Vậy, các khanh tạm bằng lòng như các pháp độ từ thời tiên đế. Sau đây, ta tuyên cáo một số quan chức đầu triều. Là ta căn cứ vào tài đức của mỗi người được bộc lộ qua công việc, mà ta để ý từ cả chục năm qua. Trong số đó cũng có những người mới nổi gần đây. Sau tuyên cáo này, nếu bên Khu mật viện thấy ai không xứng ở chức thì cáo giác. Các quan ở các đài, sảnh, viện thấy có điều gì bất như ý đều có thể làm sớ tâu lên. Lại nữa, các quan đã được ta cất nhắc, nhưng thấy không xứng chức, hoặc chức chưa xứng với tài đều có thể khải về. Việc dẹp quân phản Trường Yên, ta sẽ thân chinh. Thái phó Ngô Thượng Đình, thái uý Nguyễn Quang Lợi, Đô thống thượng tướng quân Lê Phụng Hiểu, uy vệ thượng tướng quân Vũ Ba Tư đi theo quân cùng ta. Nội trong ba ngày, thái uý Nguyễn Quang Lợi phải điều đủ năm vạn quân để đúng giờ dần ngày canh ngọ khởi binh đi đánh Trường Yên. Việc lưu thủ kinh sư ta trao cho Lý Nhân Nghĩa, Lương Nhậm Văn đồng giám quốc. Đúng ngày giờ ba vạn quân gồm các chủng kỵ binh, tượng binh, bộ binh lục tục ra khỏi kinh thành. Hai vạn thủy binh từ hồ Dâm Đàm qua nẻo Nhuệ Giang mà vào Hoàng Giang. Kiệu vua vừa ra khỏi cửa Đại Hưng, thì gặp một đám trẻ vừa trai vừa gái chơi trò chồng nụ chồng hoa và đá cầu lông gà. Nom thấy cảnh vui mắt, vua bảo tả hữu dừng kiệu, rồi sai người đem cho lũ trẻ mỗi đứa một tiền. Đoạn vua bảo thái uý Nguyễn Quang Lợi, điềm triệu trẻ con chơi vui thế này, ta chắc việc chinh phục Trường Yên sẽ thuận lợi, không đổ máu. Quân đi nườm nượp, cờ xí rợp trời. Voi ngựa hí vang, dân chúng kinh kỳ đổ ra xem như đi trảy hội. Đúng giờ mùi ngày nhâm thân, năm vạn quân triều đình đã hình thành thế bao vây Trường Yên. Vua Lý Thái tông gửi cho Khai Quốc vương tờ cáo trạng: “Ta gạt nước mắt viết hịch này. Tiên đế băng chưa kịp phát tang thì tam vương nổi loạn. Nay di hài của tiên đế vẫn còn quàn tại điện Long An chờ vương đệ về chịu tang. Ai ngờ vương đệ chia lòng, đoạn tình cốt nhục, đang tâm làm phản. Các quan dâng sớ hặc vương đệ phạm ba trọng tội: - Một là thiên tử tạ thế mà không về chịu tang. - Hai là vua mới nối dòng đại thống mà không về chầu. - Ba là nhân cớ nước có tang xua quân gây hấn mưu chia cắt núi sông, phá tán cơ nghiệp mà tổ tông tạo dựng. Vương đệ thừa biết, phạm một trong ba tội ấy cũng đủ rơi đầu. Nay ta đem đại binh đến hỏi tội. Nhược bằng biết hối lỗi ăn năn, sớm liệu quy hàng thì nể tình máu mủ ruột rà, ta sẽ mở đường hiếu sinh. Nếu chẳng biết liệu sức mình, manh tâm chống trả, buộc ta phải ra tay thì thành tan ngói vỡ, ta không dám đảm bảo sự tồn sinh của các người”. Khai Quốc vương cử ba ngàn quân và các tướng giỏi đi khua khoắng khắp nơi. Nói rằng chiêu an, nhưng quân đã quen thói hà hiếp dân nên đi đến đâu cũng xảy ra chuyện cướp của, đánh người, hãm hiếp đàn bà con gái. Thành thử lòng dân phẫn uất. Nay muốn thu quân về chống đỡ thì không kịp nữa. Trong thành chỉ còn hơn một ngàn quân, so với năm vạn quân hùm sói của triều đình, khác nào đem trứng mà chọi với đá. Còn một nhúm tả hữu, vương cho nhóm họp luận bàn. Chẳng ai có cao kiến gì hơn là việc quy phục triều đình, giữ tình hoà hiếu, trọn đạo vua tôi là thượng sách. Trước tình cảnh khốn cùng, dù có tham vọng đến mấy, mưu mô đến mấy cũng đành khoanh tay thúc thủ. Khai Quốc vương sai người trói mình rồi đem ấn, kiếm cùng chìa khoá bốn cổng thành tới trước kiệu Thái tông xin hàng. Vua hạ lệnh quan quân vào thành ai dám xâm phạm đến cái tơ cái tóc của dân, hà hiếp dân thì chém. Quân sĩ giữ nghiêm quân lệnh, nhân dân trong thành Trường Yên nô nức kéo nhau ra đứng đầy đường, tung hô vua mới. Lại dắt trâu, bò đem dê lợn cùng rượu dâng biếu để vua khao quân. Vua vỗ về uý lạo. Cả thành Trường Yên đều thoả dạ thoả lòng. Vua tuyên chỉ áp giải Khai Quốc vương và liêu thuộc về hết Thăng Long. Từ Trường Yên về, vua xuống chiếu tha tội chết cho Khai Quốc vương, Đông Chinh vương, Dực Thánh vương, cho khôi phục tước hiệu, nhưng buộc tất cả đều phải ở lại Thăng Long, không được dời đi nơi khác, không được tái lập phủ binh. Lại cho cả mấy người cùng được chịu tang Thái tổ, hằng ngày được phép vào điện Long An túc trực bên linh cữu và dâng cơm, làm lễ chiêu tịch diện. Vua lại dụ: “Tiếc thay, các người không phải không có tài, chỉ vì tự phụ, không chịu nghe lời giáo huấn của tiên đế mà trở nên bất hiếu, bất trung, nêu gương xấu cho thiên hạ. Lại để thiệt cho nước. Nước mất người tài là yếu suy thế nước. Nay các người đang đối mặt với một sự thật là các người thiếu đức vì không gạt bỏ được tham-sân-si. Nếu dám đương đầu với nó một cách kiên cường và thắng được nó, các người vẫn còn cơ hội đem tài ra giúp nước. Các người học Phật, sao không thấm nhời Phật dạy. Các người có nhớ là Phật từng nói: “Nếu con thắng được một người, con là lực sĩ. Nếu con thắng được một trăm người, con là võ sĩ thượng thừa. Nhưng nếu con thắng được chính con, con mới là võ sĩ siêu tuyệt”. Vậy chớ các người có nhớ nhời Phật dạy ấy chép ở Kinh nào không? Từ nay, ta trông đợi nơi các người, gắng tu chính cái tâm để có thể thắng được chính mình, để trở thành người hữu dụng cho nước…” Các vương đều cúi mặt nghe lời dụ. Chẳng biết trong lòng đang xót xa, ân hận để rồi đổi lỗi, hay đang âm mưu một điều gì khác nữa. Hữu ty dâng sớ nói nhà vua sai xây toà miếu tại bên hữu thành Đại La, phía sau chùa Thánh Thọ trên đất làng Yên Thái, đến nay đã xong, xin nhà vua đến duyệt xét. Vua đến xem lấy làm hài lòng. Lại cho đòi trung thư thị lang Liêu Gia Trung đến dụ: - Đền này thờ thần Đồng Cổ. Công của thần lớn lắm, độ trì cho nước vững từ thời Hùng Vương. Lại năm Canh thân, vâng mệnh tiên đế ta đem quân đi đánh Chiêm Thành, qua đền thờ thần ở núi Đan Nê Châu Ái, ta có vào lễ và xin được thần trợ giúp. Đêm thần về báo mộng sẽ giúp cho thắng trận. Trận ấy, ta thắng lớn, trên đường về ta lại ghé Đan Nê để tạ thần. Ta cũng hứa, khi nào lên ngôi sẽ lập đền thờ. Lại gần đây khi Thái tổ sắp băng, thần cũng báo mộng cho ta hôm sau ba vương làm loạn, sớm trừ đi. Do đó, ta cắt cử các tướng phòng bị trước. Nên khi việc xảy ra là dẹp ngay được. Ta cho khanh hay lai lịch của thần như vậy, để khanh biết mà viết hoành phi, câu đối. Cấm khanh không được tiết lậu thiên cơ. Khanh phải cử ngay người vào đền Đồng Cổ ở Đan Nê mà sao thần phả, rồi rước hèm về thờ tại đây. Hậu cung bày gì hả. Rước một cỗ ngai rồi đặt thần vị của Ngài vào đây. Ngoài ra phải có một chiếc trống đồng đặt trên kỷ sơn son thếp vàng, để tượng trưng cho linh ảnh của thần. Đúng rồi, đặt trống trong hậu cung, ngay phía trước ngai. Tả hữu ban, thờ thần nào hả. Tả ban thờ Thái thượng lão quân. Hữu ban thờ Phật. Khanh còn không biết nước ta theo về tam giáo sao. Hôm sau, vua lại đến thăm đền Đồng Cổ, xem công việc đã hoàn tất chưa. Trong hậu cung đã lập xong ban thờ đúng như ý vua. Tả ban, các đạo sĩ trong quán Thái Thanh đang loay hoay đặt tượng Thái thượng Lão quân. Mấy người khác đang hí húi vẽ hình bát quái trước bệ thờ. Hữu ban đã đặt xong tượng Phật tổ Thích Ca Mâu Ni. Vách khuôn hai bên bệ thờ, các thiền sư đang bàn bạc nên viết câu đối nào cho phù hợp. Vua đi qua thấy sẵn bút mực bèn cầm lấy một cây, viết luôn tám chữ: Sinh diệt diệt dĩ Tịch diệt vi lạc Qua tám chữ, nhà vua muốn chỉ cho thế gian, nếu dứt bỏ được ý niệm về sự sinh diệt, thì sẽ hiểu cõi tịch diệt. Tức là cõi niết bàn. Các bậc cao tăng, các đạo sĩ đều khen lời văn giản dị, ý tứ cao siêu. Đúng sáng ngày hai mươi nhăm tháng ba, giờ dần, các quan từ nhất nhị phẩm tới hàng thất bát cửu phẩm, không sót một ai, đều phải có mặt trước sân rồng. Rồi cờ giong trống mở đi về phía đền Đồng Cổ. Dân chúng kinh kỳ thấy lạ, đổ ra xem vua và các quan dẫn bộ về phía đông Long thành. Dân chúng đều lấy làm lạ, bởi từ thượng cổ chưa có một hội nào, một cuộc lễ rước nào mà đích thân nhà vua đi đầu và tất cả triều quan lục tục theo sau. Chỉ xem áo xiêm, mũ mãng, đai hia cùng nhìn rõ mặt rồng, nhìn tường tận từng viên quan cũng đã làm dân chúng thành Thăng Long thoả chí tò mò. Dân cứ nườm nượp đi theo đoàn rước về tới một ngôi đền thật là khang trang, to đẹp mà trước đó vài tháng chỉ là khu đất trồng rau của chùa Thánh Thọ, khiến mọi người sững sờ, tưởng như một phép lạ. Khi vua và các quan tới cửa đền liền đi vòng về bên tả, qua một đàn đất mới đắp, cờ xí cắm la liệt quanh đàn. Đi hết một vòng thì đứng dàn thành hàng lối, đội ngũ tề chỉnh. Tất cả gươm, giáo đều treo trước thần vị. Một hoà thượng cùng một đạo sĩ nâng bát huyết pha rượu trắng, lấy từ các con vật hiến tế dâng lên hoàng thượng. Vua uống một ngụm rồi truyền cho tất cả các quan. Uống xong, viên quan chủ tế đọc to lời thề: “Làm con bất hiếu, làm tôi bất trung, xin thần minh giết chết!”[89]. Mọi người hô theo: “Giết chết!” “Giết chết!” “Giết chết!” Lời thề được đọc ba lần. Lời đế vang lên chín lần. Tiếng “giết chết” lanh lảnh, vang xa. Ai nấy nghe được đều khiếp sợ đến dựng cả tóc gáy. Lễ uống máu đọc lời thề thiêng trước thần Đồng Cổ, trở thành cuộc lễ hằng năm của triều đình. Những năm sau đó, dân chúng kinh kỳ thấy hay hay, bèn táp vào đó một số trò diễn như tích Mục Liên – Thanh Đề, tích bà Chúa Ba tức Phật Bà, tích Tiểu Kính Tâm cùng một số trò chơi dân dã, nên lễ thề thần Đồng Cổ đã biến thành Hội thề Đồng Cổ, mà phần lễ của triều đình, phần hội là của dân chúng. Có điều tháng ba là tháng có Quốc kỵ, tức là giỗ Lý Thái tổ, nên Hội thề Đồng Cổ chuyển sang ngày mùng bốn tháng tư. Các quan ai vắng mặt trong hội thề phải chịu hình phạt đánh trượng trước sân đền. Ai tái phạm thì cách quan, đuổi về làm thứ dân. Suốt triều đại nhà Lý kéo dài hai trăm mười lăm năm, tiếp nhà Trần một trăm bảy mươi nhăm năm nữa, hội thề Đồng Cổ vẫn nghiêm giữ, nhưng kẻ làm con bất hiếu, kẻ làm tôi bất trung sao cứ mỗi ngày mỗi nhiều thêm? Ít bữa nữa tới kỳ bách nhật, triều đình làm lễ an táng Lý Thái tổ, thế là triều Thuận Thiên khép lại, triều Thiên Thành mở ra. Vận hội nước nhà thịnh suy, thăng giáng hãy xem sự điều hành chính sự của vua mới.