CẢNH 6 Weehawken, New Jersey-Thứ Năm, Ngày 10 Tháng 9-2 Giờ Chiều
Thanh tra Thumm bước ra khỏi chuyến phà cập bến ở Weehawken, ông nhìn quanh quất, gật đầu cộc lốc với một anh cảnh sát New Jersey đang tha thẩn canh gác gần lối vào con phà Mohawk bỏ trống, nhác thấy ông đã rập người thẳng đơ ở tư thế nghiêm chào. Ông rảo bước ngang qua chỗ phòng đợi phà rồi ra đến bên ngoài.
Ông băng qua lối vào bến rải sỏi và bắt đầu leo lên con đồi dốc dẫn từ bến tàu và cầu tàu lên tận đỉnh của kè đá. Dọc đường hì hục leo lên, ô tô ngược chiều ngang qua mặt chạy chầm chậm theo đường dốc xuống; ông ngoái lại và ngắm nhìn phía dưới chỗ mình đang đứng, cả một quang cảnh rộng rãi bao quát cả dòng sông và thành phố với những chóp nhà lô nhô như những ngọn tháp canh bên kia bờ. Thế rồi ông lại leo tiếp.
Lên đến đầu dốc ông tìm đến một anh cảnh sát giao thông và bằng chất giọng nam trung cộc cằn đến lạc nốt của mình ông hỏi thăm đường ra đại lộ. Ông tiếp tục cuốc bộ băng qua lối xe chạy rộng rãi rồi men theo những con phố rợp bóng cổ thụ, cũ buồn, vắng lặng cho đến khi ông ra đến một giao lộ tấp nập chứng tỏ đã là con đường cái lớn ông muốn tìm. Ông rẽ về hướng bắc.
Cuối cùng ông tìm thấy căn nhà nơi ông cần đến, nhà số 2075. Đó là một ngôi nhà khung gỗ nằm khuất giữa một cửa hàng bơ sữa và cửa hàng phụ tùng ô tô. Căn nhà sơn phết bạc màu, rệu rã, ọp ẹp xác xơ qua bao mùa mưa nắng. Trước nhà là một hàng hiên xập xệ kê ba chiếc ghế tựa bập bênh và một chiếc ghế dài lung lay sắp gẫy; nơi bậc cửa là tấm thảm lót chân có hàng chữ chào khách đã nhạt nhòa; tấm biển hiệu gắn bên trên một cột hiên ghi dòng chữ nhìn vào phát thương: Phòng trọ dành cho quý ông.
Thanh tra Thumm nhìn ngược nhìn xuôi con phố, xốc thẳng áo ngoài, kéo mũ ôm khít hơn vào đầu rồi đặt chân lên những bậc cấp kẽo kẹt. ông nhấn vào nút chuông có dán nhãn Chủ nhà trọ. Một tiếng reo yếu ớt vọng ra đâu đó từ những chỗ lõm vào của cái tổ ong xác xơ nơi ông đang đứng, theo đó là tiếng dép lê lẹp kẹp vang lên. Cánh cửa khẽ mở vào và từ khe hở thò ra một cái mũi lấm tấm mụt nhọt. “Muốn cái giè?” một giọng phụ nữ cáu bẳn hỏi. Liền theo đó có tiếng người há miệng hít mạnh vào, một tiếng cười rúc lên và cánh cửa bật mở, hiện ra một mụ sồn sồn béo tốt trong bộ đồ mặc nhà bèo xèo nhếch nhác, một quý bà nhan sắc cũng tàn tạ hệt như cái cơ ngơi xiêu vẹo của mụ. “Ôi ông cảnh sát! Mời vào, ngài Thumm, vào đi nào! Thật ngại quá, tôi không biết là…” Mụ vừa sung sướng lắp bắp vừa cố nặn bằng được một cái cười duyên, nhưng rốt cục chỉ thành công ở một điệu cười nhe nanh méo xệch. Tránh mình sang bên, khẽ nhún đầu gối cúi chào, miệng vẫn không thôi líu ríu, mụ nhường lối để ngài thanh tra bước vào khu lăng mộ của mình.
“Ôi, thật là ghê nhất đi thôi!” Mụ tán. “Đầy nhà báo với mấy ông vác camera sục khắp nhà cả buổi sáng! Tụi tôi…”
“Có ai trên ấy không hử bà chủ?” Thumm hỏi.
“Còn ông ấy, ông thanh tra ạ! Ông ấy còn đó, vẩy tàn thuốc lá lung tung lên mấy tấm thảm của tôi,” mụ đàn bà rít lên. “Sáng nay tôi để người ta chụp hình bốn lần… Còn ông có phải đang muốn xem phòng cái ông tội nghiệp ấy không hở sếp?”
“Đưa tôi lên lầu,” Thumm gằn giọng.
“Vâng, thưa sếp!” Mụ đàn bà thô kệch lại nhe nanh làm duyên, dùng hai ngón tay mòn vẹt nhón chiếc váy lê thê cáu bẩn của mụ rồi bước lạch phạch lên những bậc cầu thang lót thảm mỏng dính. Thumm gầm gừ cất bước theo sau. Một gã đàn ông tướng như con chó bull đứng ở đầu cầu thang nhìn họ.
“Ai thế, bà Murphy?” Gã vừa hỏi vừa lom lom nhìn xuống chỗ tranh tối tranh sáng.
“Được rồi, đừng ồn thế, là tôi đây,” viên thanh tra gắt. Gã đàn ông tươi lên; gã nhe răng cười. “Hóa ra là ngài. Mừng là đã đến, ngài thanh tra. Ở đây buồn quá.”
“Tối qua giờ có động tĩnh gì không?”
“Chả có gì.”
Gã dẫn trước dọc theo hành lang lầu một đến một gian phòng ở phía sau, mụ chủ nhà Murphy lê dép theo sau. Thumm dừng lại trước cánh cửa mở sẵn.
Gian phòng bé nhỏ và nghèo nàn. Trên trần nhà ngả màu đã lộ ra nhiều vết nứt, bốn mặt vách tường thì lấm bẩn theo thời gian, phủ trên mặt sàn là một tấm thảm đã mòn xơ cả chỉ, đồ đạc cái nào cũng như cái ấy đều sứt sẹo tồi tàn, đường ống nước bắt vào giá rửa mặt đã hết sức cũ kỹ, còn tấm rèm chim cò của khung cửa sổ duy nhất trong phòng thì đã qua đi những ngày lòe loẹt vàng son. Thế nhưng khắp phòng lại phảng phất mùi sạch sẽ và xem ra có tay người chăm sóc đàng hoàng. Đồ đạc có một cái giường khung sắt kiểu cổ, một chiếc tủ com mốt bên cao bên thấp, một chiếc bàn nhỏ mặt đá nặng nề, một cái ghế khung lưới sắt và một tủ tường treo y phục và những thứ mặc phụ của đàn ông.
Viên thanh tra bước vào bên trong và không chần chừ đi ngay đến chỗ chiếc tủ tường rồi mở hai cánh cửa tủ ra. Treo cẩn thận bên trong có ba bộ veston nam đã quá cũ; trên sàn tủ đặt hai đôi giày, một đôi còn khá mới còn đôi kia đã há mõm; ở ngăn trên cùng có một chiếc mũ rơm để bên trong một túi giấy và một chiếc mũ dạ mà vành lụa lót trong đóng ván mồ hôi đã khô. Thumm nhanh nhẹn lục qua các túi của mấy bộ đồ, kiểm tra mấy đôi giày và mấy chiếc mũ, song dường như chẳng tìm thấy gì đáng chú ý. Đôi mày rậm của ông cau lại thành hai chấm đen, chừng như ông thất vọng với sự lục soát của mình, thế rồi ông đóng cửa tủ lại.
“Cậu chắc là tối qua giờ không ai đụng đến thứ gì trong này chứ?” Ông nói khẽ với viên thám tử lúc này đứng bên mụ Murphy ở ngưỡng cửa đang giương mắt nhìn ông.
Viên thám tử lắc đầu, “Khi tôi gát là tôi gát nghiêm túc, thưa ngài thanh tra. Lúc ngài đi sao thì giờ vậy.”
Trên mặt thảm cạnh tủ tường có một chiếc túi xách màu nâu rẻ tiền, một đầu quai bị sứt ra rơi thõng xuống. Viên thanh tra mở chiếc túi ra; bên trong rỗng không.
Ông đến chỗ cái tủ com mốt và lục qua các ngăn kéo vừa cứng vừa nặng. Trong tủ để vài bộ đồ lót tuy cũ nhưng sạch sẽ, một chồng khăn tay giặt, rồi chừng nửa tá áo sơmi kẻ sọc cổ mềm, vài chiếc cà vạt nhàu nát và những chiếc bít tất sạch được cuộn tròn thành búi.
Thumm quay lưng khỏi cái tủ; không khí trong phòng ngột ngạt oi bức dù bên ngoài trời lạnh, ông cầm chiếc khăn tay lụa nhẹ nhàng chấm chấm lên gương mặt đỏ bừng như củ cải đường của mình. Ông đứng ở giữa phòng, dạng chân và cau có nhìn quanh. Rồi ông đến chỗ chiếc bàn mặt đá. Ông lờ đi lọ mực, cây bút đã ráo khô và một tập giấy kẻ dòng, nhưng lại cầm lên hộp xì gà Royal Bengal bằng giấy bồi và tò mò xem xét bên trong. Trong hộp chỉ còn lại một điếu xì gà nhũn nhão giữa hai ngón tay của ông. Vết nhăn giữa hai mắt Thumm đã sâu giờ càng sâu hơn, ông đặt hộp thuốc xuống rồi lại kiểm tra gian phòng.
Phía trên giá rửa mặt kê ở góc phòng có một cái kệ, trên đó có nhiều thứ đồ vặt vãnh. Viên thanh tra rảo bước qua phòng và nhìn vào cái kệ. Đó là một chiếc đồng hồ báo thức móp méo đã hết giây và đứng hẳn; một bình cách nhiệt cá nhân còn non một phần tư rượu whisky lúa mạch kèm một cái cốc - Thumm bật mở cái nút bần ra hít mạnh một hơi; một bàn chải răng; một hộp đồ cạo râu bằng sắt đã mờ xỉn và vài thứ đồ vệ sinh thông thường khác; có một lọ nhỏ đựng thuốc aspirin; một gạt tàn bằng đồng đã cũ… Viên thanh tra nhặt từ gạt tàn ra một mẩu vụn xì gà hút rồi, kiểm tra miếng nhãn tem nham nhở lẫn giữa đám tàn thuốc. Đó là nhãn của xì gà Cremos. Thumm trầm ngâm đi qua đi lại.
Đôi mắt ti hí gian tà của mụ Murphy nhìn theo Thumm đầy chăm chú đến mê mẩn. Bỗng mụ cất giọng nghẹt mũi nói. “Thông cẻm phòng ốc bừa bộn nhé, ông thanh tra. Cái ông đây không chịu để tôi thu dọn gì cả.”
“Được rồi, được rồi,” Thumm nói. Ông chợt dừng lại đưa ánh mắt thoáng chút quan tâm nhìn bà chủ nhà, ”À này bà Murphy, Wood có bao giờ có đàn bà con gái nào ghé đây tìm ông ấy không thế?”
Mụ Murphy khịt mũi vênh chiếc cằm ngổn ngang mụn nhọt lên. “Ông thanh tra, ông mà không phải cảnh sát tôi đã bợp cho một phát rồi đấy, nói ông biết! Đây là nhà trọ đứng đắn ai cũng biết nhá. Khách đến trọ là tôi bảo ngay. ‘Không bồ không bịch gì nhá’, tôi bảo thế, nhẹ nhàng mà nghiêm. Nhà bà Murphy là không có chuyện tào lao hay trò nỡm gì sất!”
“À há.” Thumm ngồi xuống chiếc ghế độc nhất trong phòng. “Vậy là không có đàn bà đến đây… Hà, thế người thân? Có chị hay em gái gì đó có thể từng ghé đây không?”
“Á à,” mụ Murphy trả lời điệu đà, “đàn ông có chị có em thì được, đúng không. Có vài người thuê trọ đây có chị em đến thăm, còn có cả cô dì hay chị em họ nữa ấy chứ, nhưng ông Wood đây thì chắc là không. Ông không biết chứ, ông Wood đây là khách trọ hàng sao của tôi đấy. Ở trọ nhà tôi đã năm năm mà chưa hề gây ồn một tiếng. Rất ít lời, rất lịch sự, thật là quý ông chính cống! Chả hề có ai qua lại, ít ra là tôi thấy thế. Nhưng mà tôi ít khi gặp ông; ông ấy đi làm trên xe điện ở New York từ chiều đến tận khuya. Dĩ nhiên ở đây tôi không kinh doanh nhà trọ ăn uống tại chỗ, khách trọ của tôi phải ăn ngoài, nên tôi chả biết chuyện ông ấy ăn uống ra sao. Nhưng mà nói có trời, ông ấy trả tiền tôi đều đều, không làm rộn, không say xỉn, có khi còn không biết ông đang ở trong phòng hay không nữa, gần đến mức vậy đó. Tôi…”
Nhưng thanh tra Thumm đã đứng lên quay lưng lại. Mụ ngừng bặt dở chừng, hàng mi ếch của mụ hấp háy liên hồi, mụ lừ mắt, khịt mũi rồi quày quả qua mặt viên thám tử ra khỏi phòng.
“Con mụ mèo cái này mới thật là,” gã thám tử tựa thanh cửa nhận xét. “Ai còn lạ gì mấy cái nhà trọ có em, chị, dì, cô lui tới chớ.” Gã vừa nói vừa cười hềnh hệch.
Nhưng Thumm không để ý. Ông đang đo sàn bằng bước chân, chầm chậm, dùng một chân dò dẫm dọc theo tấm thảm xơ xác. Mặt sàn hơi bị nâng lên ở một chỗ gần đường viền tấm thảm dường như khiến ông chú ý; ông liền lật ngược tấm thảm, chỉ là một mảng ván gỗ bị cong vênh. Đến chỗ chiếc giường thì ông hơi lưỡng lự; nhưng rồi cũng nặng nề quỳ thụp xuống bò vào bên trong; hai tay mò mẫm quờ quạng như một anh mù. Viên thám tử cất tiếng: “Đây sếp, để tôi giúp cho,” nhưng Thumm không trả lời; ông giật giật tấm thảm. Viên thám tử toài mình nằm xuống dùng đèn pin bỏ túi rọi dưới giường. Thumm nói khẽ bằng giọng đắc thắng: “Đây rồi?” Viên thám tử lột tấm thảm và Thumm vồ lên một cuốn sổ mỏng có bìa màu vàng. Hai gã đàn ông từ dưới giường lổm ngổm chui ra ngoài, ai nấy mặt mày phờ phạc, hơi thở khò khè và phủi bụi bám đầy quần áo.
“Sổ tiết kiệm hở sếp?”
Viên thanh tra không trả lời, ông còn đang lật nhanh qua từng trang. Cuốn sổ sao kê rất nhiều khoản tiền nhỏ lẻ gửi vào một tài khoản tiết kiệm đã nhiều năm; không hề có khoản tiền nào rút ra; không có khoản tiền gửi vào nào nhiều quá mười đô la; đa số là năm đô la; lần cuối mục tiền gửi vào cho thấy số dư là chín trăm bốn mươi lăm đô la và sáu mươi ba xen. Kẹp ở giữa bên trong cuốn sổ là tờ bạc năm đô la được xếp gọn gàng, rõ ràng là khoản tiền Charles Wood chưa kịp gửi vào thì đã chết.
Thumm nhét cuốn sổ vào túi rồi quay sang viên thám tử. “Chừng nào cậu hết trực?”
“Tám tiếng chuông, ấy là lúc được xả hơi.”
“Nghe đây.” Thumm nghiêm giọng. “Ngày mai khoảng hai giờ ba mươi gọi tôi tại trụ sở. Nhắc là tôi có việc đặc biệt để cậu làm ở đây. Rõ chưa?”
“Rõ rồi sếp. Gọi điện 2 giờ 30 để nhận lệnh.”
Thanh tra Thumm rảo bước ra khỏi gian phòng, bước xuống chiếc cầu thang mà cứ một bậc dẫm lên là kêu eng éc như mấy con lợn thịt bị chọc tiết, rồi ra khỏi nhà. Mụ Murphy đang hùng hục quét hiên. Mụ lẳng mình tránh đường cho ông với chiếc mũi mụn nhọt khụt khịt đầy căm phẫn trong đám bụi mù.
Đứng trên vỉa hè Thumm đọc tờ bìa của cuốn sổ tiết kiệm, đưa mắt nhìn quanh rồi băng qua đại lộ đi về hướng nam. Qua ba dãy phố thì ông thấy tòa nhà mình cần tìm - một ngân hàng thương mại nhỏ bên ngoài ốp đá đầy vẻ khoa trương. Viên thanh tra bước vào và đến bên lồng sắt quầy thu ngân được đánh dấu S đến Z. Viên thu ngân là một gã luống tuổi đưa mắt nhìn lên.
“Ông là người thường trực ở ô này à?” Thumm hỏi.
“Đúng đấy thưa ngài, tôi có thể giúp gì không nào?”
“Chắc ông có đọc tin về vụ án mạng của một người tên Charles Wood, làm nghề bán vé trên xe điện, người sống ở vùng này?” Viên thu ngân gật đầu ngay. “Là vậy, tôi là thanh tra Thumm ở Đội Hình sự bên kia sông, phụ trách vụ án này.”
“Ô!” Viên thu ngân ra điều ngưỡng mộ. “Wood là khách gửi tiền ở đây thưa ngài thanh tra. Ông định hỏi thế đúng không, tôi thấy hình ông ấy trên báo sáng nay.”
Thumm lấy từ trong túi cuốn sổ tiết kiệm của Wood. “Thế này nhé, ngài… ” ông liếc tấm bảng tên bằng sắt trong khung cửa số bịt lưới, “ngài Ashley, ông ngồi quầy này bao lâu rồi?”
“Tám năm.
“Wood là khách quen thường xuyên?”
“Đúng, thưa ông.”
“Tôi nhìn sổ tiết kiệm này thấy ông ấy gửi tiền mỗi tuần một lần, ngày gửi trong tuần không cố định, nhưng chắc ông có thể kể tôi những gì mình nhớ về chuyện giao dịch ngân hàng của ông ấy ở đây chứ?”
“Chả có gì nhiều để nói đâu ngài thanh tra. Như ông vừa bảo đấy, ông Wood đến đây đều đặn mỗi tuần một lần không sót tuần nào, tôi nhớ vậy. Ông ấy gần như đến vào cùng giờ, tầm một rưỡi hoặc hai giờ chiều, đọc bài trên báo tôi đoán đấy là lúc ông ấy vừa từ bên New York hết ca về nhà.”
Thanh tra Thumm nhíu mày. “Ông nhớ thử xem, có phải ông ấy luôn đích thân gửi tiền cho mình? Tôi rất chú ý chỗ này. Ông ấy luôn một mình hả?”
“Tôi không thể nhớ ra có bao giờ ông ấy đi cùng ai chưa.”
“Cảm ơn.”
Thumm rời ngân hàng và lần bước dọc theo đại lộ trở lại chỗ có ngôi nhà cho thuê trọ của mụ Murphy. Cách tiệm bơ sữa ba căn có một cửa hiệu văn phòng phẩm, Thumm bước vào.
Chủ hiệu là một ông cụ già ngái ngủ lừ đừ bước ra.
“Bác có biết ông Charles Wood sống ở nhà mụ Murphy trên kia và đã bị sát hại tối qua trên phà không?”
Ông già nhanh nhảu chớp mắt. “Ồ, có, có! Ông ấy là khách hàng của tôi. Ông ấy mua xì gà và giấy ở đây.”
“Ông ấy mua xì gà gì thế?”
“Cremos. Royal Bengals. Chủ yếu hai thứ đó.”
“Thế bao lâu ông ấy đến đây một lần?”
“Gần như hàng ngày sau giờ trưa, trước khi đi làm.”
“Hầu như hàng ngày hả? Có khi nào thấy ông ấy đi cùng ai chăng?”
“À không! Ông ấy luôn một mình.”
“Thế ông ấy cũng mua bút mực ở đây chứ?”
“Đúng, lâu lâu một lần, ít giấy với mực.”
Thumm bắt đầu cài cúc áo khoác, “Ông ấy lui tới đây bao lâu rồi?”
Lão chủ hiệu gãi gãi cái đầu bạc đã lâu không gội của mình. “Bốn hay năm năm gì đó. Mà này, bộ ông là nhà báo hả?”
Nhưng Thumm chỉ lẳng lặng bước ra. Ông dừng lại một lát trên vỉa hè, nhác thấy một cửa hàng bán đồ lót nam cách chừng vài cánh cửa đi, ông đi nhanh đến và bước vào. Điều ông tìm hiểu được chỉ là Wood lâu thật lâu mới ghé đây một lần mua vài thứ đồ lót. Không, bao giờ Wood cũng đến một mình.
Viên thanh tra bước ra, nếp nhăn trên mặt càng lúc càng sâu hơn bao giờ hết. Ông lần lượt tìm đến một cơ sở dịch vụ làm sạch và nhuộm thảm, một quầy sửa giày, một hiệu giày, một quán ăn và một hiệu thuốc trong vùng. Người đứng quầy ai nấy đều bảo ông ta đã nhiều năm nay là khách hàng mua ít nhưng đều, nhưng chưa hề đi chung với ai, đến cả ở quán ăn cũng thế.
Tại hiệu thuốc Thumm đã hỏi thêm vài điều: người bán thuốc trả lời không nhớ đã bao giờ bán thuốc theo toa cho Wood lần nào chưa, nói thêm rằng nếu đau ốm hay được thầy thuốc kê toa chắc Wood đã mua luôn bên New York. Theo yêu cầu của Thumm, người bán thuốc đã viết hẳn ra một bản danh sách mười một phòng mạch trong vùng và cả ba phòng nha nữa, tất cả chỉ quanh quẩn trong vòng năm dãy phố trở lại. Viên thanh tra lần lượt đến từng nơi. Ở mỗi phòng mạch bác sĩ ông đều xưng cùng mục đích và hỏi cùng câu hỏi. “Chắc ông đọc tin rằng một người tên là Charles Wood, người bán vé trên xe Crosstown phố Thứ Bốn Mươi Hai, đã bị ám sát đêm qua tại phà Weehawken. Ông ấy sống ở khu này. Còn tôi đây là thanh tra Thumm, tôi đang điều tra nhân thân của ông ấy, đang cố tìm ai đó biết đôi điều về cuộc sống riêng của ông ta, có bạn bè, khách khứa gì lui tới không. Wood có bao giờ đến chỗ ông khám chữa bệnh gì không, hoặc giả có khi nào ông được mời đến thăm bệnh tại chỗ nhà trọ khi ông ấy ốm hay không?”
Bốn vị thầy thuốc chưa đọc gì về tin án mạng mà cũng không quen biết gì người đàn ông này, đến cả cái tên cũng chưa từng nghe qua. Bảy vị khác thì có đọc báo nhưng chưa hề chữa gì cho Wood mà cũng chẳng biết gì về ông ta.
Nghiến răng nghiến lợi, viên thanh tra đáng kính lại làm một vòng mới với ba nha sĩ trong danh sách của ông. Ở trường hợp đầu tiên, trong nỗi bực dọc càng lúc càng tăng, ông bị buộc phải đợi đến ba mươi lăm phút mới có thể gặp được vị bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình răng; và đến khi Thumm rốt cuộc cũng dồn được gã nha sĩ khốn kiếp này vào thế cực chẳng đã bên trong phòng răng của mình, gã lại nhất định từ chối trả lời câu hỏi trừ phi ông khách viếng trình giấy chứng nhận cho gã xem trước. Ánh sáng hy vọng le lói trong mắt, Thumm nghiêm người gầm lên buộc gã phải tuân lời. Ánh sáng hy vọng lại tắt phụt khi toàn bộ những gì gã đàn ông rốt cuộc miễn cưỡng phun ra lại cho thấy gã hoàn toàn không quen biết gì Charles Wood.
Không ai trong hai vị nha sĩ còn lại nghe thấy thậm chí đến cả cái tên của người đã chết.
Thở dài, thanh tra Thumm lê gót trở lại lối xe chạy rộng rãi ở đỉnh đồi, men xuống theo con dốc quanh co xuôi về bến, rồi lên phà trở lại New York bên kia bờ.
NEW YORK
Vào đến trung tâm thành phố, thanh tra Thumm đi ngay đến khu văn phòng hành chính của Hệ thống đường sắt đại lộ Thứ Ba. Ông lầm lũi chen chân qua dòng xe cộ ngược xuôi với vẻ lơ đãng xuất thần in rõ trên bộ mặt xấu xí của mình.
Bên trong tòa nhà bề thế là nơi đặt Phòng nhân sự, ông hỏi thăm chỗ Giám đốc nhân sự và được dẫn đến một văn phòng lớn. Giám đốc nhân sự là một gã trông vẻ khắc khổ, gương mặt hằn vào sâu hoắm những nếp nhăn âu lo sầu não. Gã vừa hối hả bước tới vừa chìa thẳng tay ra. “Thanh tra Thumm ạ?” gã hỏi bằng giọng mau mắn. Thumm gầm gừ. “Ngồi xuống đã nào, ngài thanh tra.” Viên giám đốc đẩy tới một chiếc ghế bám kín bụi và lịch sự ấn Thumm ngồi xuống. “Tôi đoán ngài đến về vụ Charley Wood đúng không? Tồi tệ quá. Ôi, tồi tệ quá.” Gã ngồi xuống phía sau bàn làm việc rồi xén đầu một điếu xì gà.
Thumm lạnh lùng nhìn gã dò xét. “Đang điều tra về người chết,” Thumm càu nhàu.
“Được, được. Kinh khủng quá. Không hiểu nổi - Charley Wood là một trong số nhân viên tốt nhất của tôi đấy: ít lời, đứng đắn, đáng tin - một nhân viên hoàn hảo.”
“Thế ông ấy không bao giờ làm gì rắc rối, hả ngài Klopf?”
Viên giám đốc ngã người về phía trước tỏ vẻ nghiêm trang. ”Để tôi kể ngài biết, ngài thanh tra. Người đàn ông này là một hòn ngọc đấy. Không bao giờ say xỉn đang lúc làm việc, văn phòng đây mọi người đều quý ông ấy - báo cáo thì chỉn chu rõ ràng, là một người đáng trân trọng ở đây - thực ra ông ấy xứng đáng ở vị trí cao hơn kìa. Chức danh kiểm định viên cho năm năm phục vụ xuất sắc. Đúng thế, thưa ngài!”
“Tiểu Huân tước FauntIeroy đáng mến, phải thế không, ngài Klopf?”
“Tôi không nói thế, không phải thế, thanh tra Thumm,” Klopf vội đỡ lời. “Mà ý tôi đây là, chúng tôi có thể tin cậy ông ấy. Ngài cần một tờ chứng chỉ hạnh kiểm chứ gì? Từ hồi nhận việc đến giờ ông bạn tội nghiệp này đi làm từng ngày một. Ông ấy lo mình không hoàn thành nhiệm vụ, để tôi kể ngài hay! Phần chúng tôi cũng tạo mọi điều kiện cho ông ấy. Đấy cũng là phương châm công ty chúng tôi, thưa ngài thanh tra. Khi một nhân viên thể hiện mình muốn tấn tới, chúng tôi sẽ thúc đẩy ông ấy tấn tới.”
Thumm gầm gừ.
“Để tôi kể ngài hay, ngài thanh tra. Ông ấy không bao giờ nghỉ ngơi khi làm việc, không bao giờ nghỉ phép, luôn thích làm việc cả vào thời gian nghỉ phép và hưởng gấp đôi. Biết sao không, ở đây cứ nhân viên lái xe và nhân viên bán vé hễ gặp chúng tôi là xin tạm ứng. Nhưng Charley Wood ấy à? Không đời nào, ngài thanh tra ạ, không đời nào! Chỉ để dành tiền thôi, có lần ông ấy khoe với tôi cuốn sổ tiết kiệm của ông ấy.”
“Ông ấy làm việc cho công ty đây bao lâu rồi?”
“Năm năm. Đây, để tôi xem lại.” Klopf nhảy lên chạy ra cửa, gã thò đầu ra ngoài gào toáng lên: “Nè John! Mang cho tôi cái tờ hồ sơ của Charley Wood coi!”
Thoáng chốc gã quay lại bàn làm việc, trên tay là một tờ giấy dài thượt. Thumm nghiêng người chống khuỷu tay xuống bàn rồi đọc tờ giấy. “Ngài thấy đấy,” Klopf vừa nói vừa chỉ trỏ, “ông ấy bắt đầu làm với chúng tôi cách đây hơn năm năm một tí, bắt đầu với tuyến đại lộ Thứ Ba bên Bờ Đông, đã được chuyển sang tuyến Crosstown cùng với Pat Guiness, nhân viên lái xe cách đây ba năm rưỡi theo nguyện vọng của chính ông ấy, do sống bên Weehawken và muốn làm trên một tuyến thuận tiện hơn. Thấy chứ? Không bị một vết đen nào!”
Thumm ra chiều tư lự. “Này nhé, Klopf, thế cuộc sống riêng tư của ông ấy thế nào? Ông có biết gì việc đó chăng? Bạn bè, người thân, chiến hữu chẳng hạn?”
Klopf lắc đầu: “À, chắc là tôi không biết gì nhiều chuyện đó, nhưng về những điều tôi nghe thì tôi không nghĩ vậy. Ông ấy hòa nhã với đồng nghiệp nhưng không hề giao du chè chén gì với ai, là theo chỗ tôi biết vậy. Tôi đoán cái thứ gần nhất với khái niệm gọi là bạn mà ông ấy có chắc là Pat Guiness. Đây, chờ tí.” Gã lật tờ hồ sơ. “Thấy chỗ đó chứ? Thông tin lúc xin vào làm việc của ông ấy: Người thân không có. Tôi đoán chỗ này có thể trả lời cho câu hỏi, thưa ngài thanh tra.”
“Giá mà tôi có thể chắc được,” Thumm nói khẽ.
“Biết đâu Guiness…”
“Không sao, nếu cần tự tôi sẽ tìm gặp Guiness.” Thumm cầm chiếc mũ phớt của mình lên. “Thế nhé, tôi đoán chuyện đến đây thế thôi. Cảm ơn ông bạn.”
Viên quản lý nhân sự bắt tay Thumm đầy vẻ thân tình, theo tiễn ông ra văn phòng đến tận bên ngoài tòa nhà, luôn mồm hứa hẹn sẵn sàng hợp tác này nọ. Thumm đột ngột cắt lời gã, gật đầu tạm biệt rồi rẽ ở góc đường.
Ông đứng đấy như đợi một người nào đó, chốc chốc lại đưa mắt nhìn đồng hồ. Mười phút sau một chiếc Limousine Lincoln màu đen dài ngoằng có màn che cửa sổ tấp vào lề chỗ ông đứng. Ngồi ở tay lái là một thanh niên gầy gò trong bộ chế phục có vẻ mặt tươi cười. Anh ta đạp phanh thắng gấp, nhảy khỏi xe, mở cửa sau rồi đứng tránh sang bên, miệng vẫn không thôi tươi cười vui vẻ. Thanh tra Thumm liếc mắt nhìn ngược nhìn xuôi con phố thật nhanh rồi leo vào xe. Thu lu ở một góc, trông giống lão thần lùn giữ của hơn bao giờ hết, là lão già Quacey đang ngủ gà ngủ gật hiền từ.
Người tài xế đóng sập cửa, tót vào chỗ của mình và chiếc xe thong thả hòa mình vào dòng xe xuôi ngược. Quacey mở mắt, bất chợt tỉnh giấc. Lão thấy thanh tra Thumm, một thanh tra Thumm trầm tư mặc tưởng, ngồi lặng lẽ im lìm cạnh lão. Bộ mặt hệt như đầu pho tượng máng xối của Quacey bỗng cất tiếng cười, rồi lão khom xuống mở một ngăn chứa gắn chìm dưới sàn xe. Lão ngồi thẳng người, hơi đỏ mặt, hai tay ôm một chiếc hộp sắt lớn, mặt trong của nắp hộp là một tấm gương soi.
Thanh tra Thumm lắc đôi vai rộng. “Một ngày làm việc tốt đẹp, Quacey ạ, hết mọi thứ đều được xem xét,” ông nói.
Rồi ông tháo mũ, cho tay vào hộp, khoắng tìm rồi lôi ra vật gì đấy. Ông bắt đầu hăm hở trát lên mặt một lóp kem sền sệt. Quacey tay giữ tấm gương soi trước mặt ông, tay kia đưa ra một tấm khăn mềm. Viên thanh tra dùng chiếc khăn kỳ cọ gương mặt sáng bóng của mình; và lạ kìa! Khi chiếc khăn hạ xuống thì thanh tra Thumm cũng biến mất, gần như biến mất vì những mảnh vụn lấm tấm của một thứ trông như bả trít vẫn còn bám trên mặt, song lớp hóa trang đã được tẩy xóa đủ để lộ ra diện mạo trơn mượt, thanh tú và tươi cười của ngài Drury Lane.