← Quay lại trang sách

CẢNH 9 Văn Phòng Công Tố Địa Hạt-Thứ Sáu, Ngày 11 Tháng 9-2 Giờ 15 Chiều

2 giờ 15 chiều thứ Sáu, Drury Lane đang rảo bước trên phố Trung tâm, dọc theo một bên phố là những vách tường cao của Trụ sở Cảnh sát, còn dọc phía bên kia là nơi sinh sống của dân cư tứ xứ đa ngôn ngữ (52)* của vùng hạ lưu New York. Đến tòa nhà mười tầng, số 137, là nơi hạt New York thấy hợp để đặt nơi làm việc cho ngài giám đốc văn phòng công tố địa hạt của mình, ông rẽ vào, băng qua một hành lang, rồi vào một thang máy để lên tầng cao.

Như bao lần, nét mặt ông luôn điềm nhiên bất động và hoàn toàn không biểu lộ cảm xúc nào. Một đời tôi rèn trên sân khấu đã cho ông năng lực kiểm soát đường cơ tạo nên vẻ mặt, giống như khả năng mà một diễn viên nhào lộn dùng đến để kiểm soát tứ chi. Thế nhưng, nếu để ý người ta vẫn thấy được ẩn hiện trong mắt ông một ánh lửa mang đầy ý nghĩa. Nó là sự bừng sáng của tâm trạng phấn chấn, của sự tiên đoán - nó là ngọn lửa trong đôi mắt của một người thợ săn khi anh ta khom mình giương súng sau lùm cây - là thứ ánh sáng và niềm vui của việc sống nhạy bén và suy nghĩ sắc sảo. Nhìn vào đôi mắt ấy, không ai có thể hình dung con người đằng sau chúng đang sống trong cơ thể không toàn vẹn… Có một thứ gì đó đã tiếp nhựa sống vào bản ngã của ông, nạp vào thể chất của ông tràn trề năng lượng mới, hướng con suối sức sống chảy vào dòng sông của lòng tự tin, sức sống bền bỉ và phản ứng tinh nhanh.

Song lúc ông mở cánh cửa vào văn phòng bên ngoài của công tố viên Bruno, ánh lửa ấy tắt đi và ông chỉ là một người khá trẻ trong bộ y phục dành cho kẻ đã khá già.

Người nhân viên khẽ khàng nói vào một máy điện đàm nội bộ. “Vâng, thưa ngài Bruno.” Anh ta quay người lại. “Xin mời ngồi, thưa ngài. Ngài Bruno rất lấy làm xin lỗi vì ngài ấy đang bận họp với ngài cảnh sát trưởng. Ngài hãy đợi nhé?”

Lane xã giao đáp lời rồi ngồi xuống. Ông tựa cằm lên quả nắm của cây gậy mang theo.

Mười phút sau, đang lúc Lane bình thản nhắm mắt dưỡng thần thì cửa phòng Bruno xịch mở. Vị công tố viên xuất hiện, theo sau là vóc dáng đẫy đà cao lớn của ngài cảnh sát trưởng phụ trách địa hạt. Người nhân viên đứng dậy, anh ta tỏ ra bối rồi vì Lane vẫn ngồi yên dường đang lim dim ngủ. Bruno mỉm cười và đập nhẹ vai Lane. Mí mắt liền mở ra, đôi mắt xám điềm đạm ngước lên dò hỏi, rồi Lane bật lên khỏi ghế.

“Chào ngài Bruno.”

“Xin chào, ngài Lane.” Bruno quay sang ngài cảnh sát trưởng, lúc này đang ngắm Lane bằng ánh mắt tò mò. “Ngài Lane, đây là ngài cảnh sát trưởng Burbage.”

“Hân hạnh gặp mặt, ngài Lane,” vị cảnh sát trưởng cất tiếng sang sảng, rồi ông ta bắt lấy tay Lane.“Tôi đã xem ngài diễn ở…”

“Tôi như đang sống trong bóng mát của quá khứ bình yên, thưa ngài Burbage,” Lane nói với nụ cười chân thành.

“Không sao, không sao! Tôi biết ngài vẫn giỏi như trước nay. Ngài Bruno đây vừa kể tôi về thiên hướng mới có của ngài, ngài Lane ạ, và về những phát hiện do ngài gợi ý mà đến giờ vẫn là những bí ẩn đối với ngài ấy.” Vị cảnh sát trưởng khẽ lắc chiếc đầu khổng lồ của ông ta. “Với tất cả chúng tôi thì đúng hơn, tôi nghĩ vậy. Thumm cũng đã kể mọi chuyện cho tôi.”

“Đặc tính của một kẻ đang già đi, ngài Burbage ạ. Ngài Bruno quả thật là kiên nhẫn.” Lane nheo mắt. “Ngài cùng họ với một cái tên trứ danh, thưa ngài Burbage. Richard Burbage (53)*, nhà kịch sĩ xuất chúng lúc sinh thời, là một trong ba người bạn thâm giao của Will Shakespeare đấy.” Vị cảnh sát trưởng nghe thế cũng thấy đôi phần hãnh diện.

Họ trò chuyện thêm chừng vài phút rồi cảnh sát trưởng Burbage cáo từ, phần Bruno dẫn Lane vào văn phòng riêng của mình. Thanh tra Thumm đang chúi mũi vào chiếc máy điện thoại, gương mặt ông lộ rõ sự chăm chú với vẻ nửa tin nửa ngờ. Tai vẫn dán chặt vào ống nghe, ông nhướng một bên chân mày rậm thay cho lời chào. Lane ngồi xuống đối diện Thumm.

Tiếng người bên kia đầu dây nói đến đâu, gương mặt ông càng lúc càng bầm ra đến đấy, cho đến lúc tưởng chừng có thể vỡ tung ra vì cơn tức uất vì bất lực. “Nghe đây,” viên thanh tra nói. “Cậu đang gán cho tôi cái quỷ quái gì thế hử? Tôi chả hiểu đầu cua tai nheo thế nào cả… Câm mồm, nghe chưa hả? Cậu nói tôi bảo cậu gọi tôi vào hai rưỡi chiều nay để nhắc tôi giao cậu việc gì làm à? Đầu cậu chập mạch không đấy, anh bạn! Hay là nát rượu quá rồi!… Cái gì? Đích thân tôi bảo cậu à? Khoan, đợi tí.” Thumm quay ra, nhìn chằm chặp vào Bruno. “Gã đần này, nhân viên của tôi, gã vừa mới hóa điên, nói anh biết vậy. Gã… Alô, alô!” Ông giật giọng quát vào ống nghe. “Cậu đã giúp tôi lật tấm thảm lên à? Mà thảm gì, hở cái đồ con lừa thối thây ôn dịch kia? Ôi, chúa ơi. Đợi một lát.” Ông lại quay sang Bruno. “Vụ án này giờ hóa thành chuyện điên cả rồi. Nhân viên mật thám bảo là hôm qua tôi sang mò mẫm loanh quanh căn phòng của Wood bên Weehawken. Mà chúa ơi, chuyện này có lẽ lại là thật mới điên chứ! Có lẽ… đây, còn đây!” Ông điên tiết rống lên. “Chừng như ai đó…” và rồi ông bất chợt nhìn vào Drury Lane, lúc này đang ngắm ông với vẻ tinh quái đầy hảo ý. Quai hàm ông thõng xuống và trí thông minh từ từ trở lại đôi mắt bồn chồn của ông. Vẻ mặt ông căng ra một nụ cười cau có, thế rồi ông gắt vào điện thoại: “Thôi được. Tôi đổi ý rồi. Cứ quanh quẩn ở cái phòng đó cho tôi.” Ông gác máy rồi quay sang Lane, hai khuỷu tay thả đánh bịch xuống mặt bàn. Bruno ngơ ngác hết nhìn người này lại ngó người kia. “Hừ, ngài Lane, đi chơi rồi bắt tôi chịu, hả?”

Nét mặt Lane vẫn phẳng lì như mới ủi. “Này ngài thanh tra,” ông nghiêm trang, “nếu tôi có bao giờ ấp ủ những mối ngờ vực liên quan đến khiếu hài hước của ngài, thì giờ những mối ngờ đó đã bị xua tan vĩnh viễn rồi.”

“Chuyện tầm phào này thực ra là cái quái gì thế?” Bruno gặng hỏi.

Thumm nhét một điếu thuốc lá mềm oặt vào giữa cặp môi dày. “Nó là vầy. Đây là mấy việc tôi làm hôm qua. Tôi sang Weehawken, thẩm vấn mụ Murphy, lục soát phòng Wood, tìm thấy một cuốn sổ tiết kiệm bên dưới tấm thảm của Wood, nói anh biết, mấy chuyện này còn được tiếp tay bởi một gã đã làm việc cho tôi sáu năm nay, và rồi tôi về. Chuyện nghe cứ như là có phép ấy, anh nghĩ mà xem. Bởi lẽ đang khi tôi ở Weehawken, tôi cũng đang ngồi ở văn phòng mình nói chuyện con cà con kê với anh, ngay ở cái phố Trung tâm này!”

Bruno chằm chằm nhìn Lane rồi phá ra cười. “Cái này hơi bất công đấy ngài Lane, lại có phần nguy hiểm nữa.”

“Không hề. Tuyệt không hề nguy hiểm,” Lane ôn tồn. “Bạn thân của tôi là chuyên gia hóa trang hàng đầu thế giới, ngài Bruno ạ…. Tôi thật lòng xin ngài bỏ lỗi, thưa ngài thanh tra, lý do tôi vào vai ngài hôm qua là nghiêm túc và cấp thiết. Có lẽ chỉ thị của tôi với đặc vụ của ngài có chút tinh nghịch, nhưng tôi làm vậy cũng là mong muốn để báo cho ngài, hẳn là không giống cách thường tình, về sự vào vai vĩ đại này.”

“Lần sau ngài để tôi xem tôi trông thế nào,” Thumm càu nhàu. “Một… chả ra sao” hàm dưới của ông trề ra. “Nói thực, tôi không… Thôi, cứ vậy đi. Đưa cuốn sổ tiết kiệm chúng tôi xem nào.”

Lane chìa ra cuốn số tiết kiệm từ bến dưới áo choàng của mình; Thumm đón lấy và bắt đầu mải mê đọc nội dung bên trong. “Ngài thanh tra ạ, hoàn toàn có thể là, một lúc nào đó trong tương lai gần, tôi sẽ triển lãm một nhân vật nào đấy khiến ngài còn kinh ngạc nhiều hơn nữa.”

Thum tay mân mê tờ giấy bạc năm đô la kẹp trong cuốn số tiết kiệm rồi nhe răng cười “A, ít ra ngài cũng có chút thật thà đấy nhỉ.” Ông thảy cuốn sổ sang Bruno, vị này lật qua lật lại, nghiêng nghiêng ngó ngó rồi cho luôn vào một cái ngăn kéo.

“Tôi viếng thăm bữa nay,” Lane nói giọng dõng dạc, “còn có lý do khác bên cạnh ước muốn thấy ngài thanh tra quý mến của chúng ta nổi cáu. Tôi có hai yêu cầu, thứ nhất là bản sao danh sách đầy đủ hành khách trên chuyến phà hôm đó. Quý ngài có bản nào tôi có thể mang đi chăng?”

Bruno lục lọi ngăn kéo trên cùng của bàn làm việc rồi trao Lane một tập giấy mỏng. Lane xếp lại cẩn thận rồi nhét vào túi. “Tôi cũng mong nhận được các báo cáo đầy đủ về tất cả những cá nhân bị mất tích trong nhiều tháng qua, và cả báo cáo cập nhật hàng ngày từ nay trở đi. Liệu việc này có thể thu xếp được không nhỉ?”

Thumm và Bruno nhìn nhau; Bruno nhún vai, còn Thumm uể oải chỉ thị qua điện thoại đến Cục điều tra mất tích. “Ngài sẽ nhận được các báo cáo đầy đủ, ngài Lane. Nhân viên sẽ mang đến tận lâu đài Hamlet cho ngài.”

“Xin cảm ơn lòng tốt của ngài, ngài thanh tra.”

Bruno khẽ hắng giọng ra chiều lưỡng lự. Lane đưa mắt nhìn ông với ánh mắt tò mò thân mật. “Nhớ có hôm,” vị công tố viên bắt đầu, “ngài nói là mong được thông báo trước khi chúng tôi có hành động cụ thể…”

“Lưỡi rìu sắp rơi đây,” Lane nói khẽ. “Cụ thể là sao vậy?”

“Việc bắt giữ John DeWitt vì can tội cố sát Charles Wood. Thumm và tôi đã được chấp thuận rằng chúng tôi đã nắm được chứng cứ trong tay. Lúc ngài cảnh sát trưởng đã nghe báo cáo và yêu cầu tôi tiến hành ngay. Việc lập bản cáo trạng thì chẳng khó gì.”

Vẻ mặt Lane trở nên nghiêm trọng; làn da trơn mượt căng chặt trên đôi gò má. “Vậy tôi hiểu rằng ngài cùng thanh tra Thumm đều tin rằng DeWitt đã giết Longstreet đúng không?”

“Cố nhiên rồi,” Thumm nói. “Cái ngài X này của ngài là kẻ đứng sau toàn bộ chuyện này. Không nghi ngờ gì nữa, hai vụ này đều do một bàn tay gây nên. Với những động cơ rõ rành rành.”

“Một cụm từ rành mạch,” Lane nói. “Rất rành mạch, thưa ngài thanh tra. Khi nào quý ngài định thực hiện việc này, thưa ngài Bruno?”

“Thực ra chẳng cần phải vội,” Bruno bảo. “DeWitt không thể bỏ chạy đi đâu, nhưng có lẽ chúng tôi sẽ bắt giữ ông ấy nội trong ngày mai. Nếu…” ông lấp lửng nói thêm, “từ đây đến đó không xảy ra điều gì khiến chúng tôi phải đổi ý.”

“Một trường hợp bất khả kháng sao, ngài Bruno?”

“Khó đấy.” Bruno mỉm cười khích bác. “Này ngài Lane, lúc ngài thanh tra đây cùng tôi lược thuật vụ án Longstreet với ngài ở lâu đài Hamlet ấy mà, ngài có bảo là mình đã đi đến một giải pháp gì gì ấy. Thế cái việc bắt giữ DeWitt này có trùng hợp với cái giải pháp ấy của ngài chăng?”

“Hơi đáng tiếc,” người nghệ sĩ diễn kịch nói giọng đăm chiêu. “Thật sự còn quá sớm… Các ngài bảo là có chứng cứ. Thế chứng cứ ấy rõ ràng đến đâu?”

“Rõ ràng đến mức đủ để biếu không các vị luật sư của DeWitt vài đêm mất ngủ,” ngài Công tố địa hạt phản pháo. “Lý do khởi tố của tiểu bang đối với DeWitt sẽ dựa vào luận cứ đại để thế này: Theo những gì có thể xác định được, ông ta là hành khách duy nhất lên chiếc Mohawk cùng lúc với Wood và vẫn lưu lại trên chiếc phà ấy bốn chuyến sau đó. Một chứng cứ thuyết phục nhé. Ông ta thừa nhận đã cố rời khỏi con phà ngay sau khi có án mạng xảy ra. Lời biện giải của ông ta về sự hiện diện của mình suốt bốn chuyến liền (mà ban đầu ông ấy chối bay chối biến, như chúng tôi sẽ nhấn mạnh) là không thuyết phục và không có cơ sở. Việc ông ấy từ chối giải trình rõ hơn về câu chuyện rằng ông ấy sắp có một cuộc hẹn cũng được xem là bằng chứng kết tội; chúng tôi khẳng định đấy chẳng qua là cái cớ bịa đặt dựa vào hai điều thực tế: ‘người gọi’ không hề hiện diện, và cuộc điện thoại hẹn gặp ấy không thể lần ra được, vì vậy, việc này cho thấy câu chuyện của DeWitt về cuộc gọi và người gọi rõ ràng là sản phẩm từ trí tưởng tượng của ông ta. Đến đây cảm nghĩ ngài sao đây, ngài Lane?”

“Mạch lạc rõ ràng như ngài vừa nói, nhưng hầu như chưa phải là chứng cứ tuyệt đối. Mời nói tiếp.”

Vẻ mặt hùng hồn của Bruno cau lại, rồi ông nhìn lên trần nhà và tiếp tục: “Boong tầng thượng xảy ra án mạng là nơi DeWitt - hoặc bất cứ ai trên phà đều có thể đến được, điều này đúng thế - và không nhân chứng nào xác nhận thấy DeWitt thường xuyên sau 10 giờ 55 tối. Điếu xì gà mà DeWitt nhận là của ông ta, và nhãn hiệu cũng như nhãn tem trên đó chứng tỏ chỉ có thể là của ông ta, đã được tìm thấy trong mình người chết. Ông ấy nói rằng ông ấy chưa hề mời Wood điếu xì gà ở bất cứ nơi nào cả - một sự bao biện, nhưng thực ra chúng tôi sẽ phân tích nó theo cách phù hợp với lý lẽ của chúng tôi, vì nó loại bỏ khả năng DeWitt mời Wood điếu xì gà ở đâu đó trước khi án mạng xảy ra, để biện giải cho sự việc điếu thuốc hiện diện trên xác chết.”

Lane vỗ hai tay vào nhau lẳng lặng tán thưởng.

“Hơn nữa, điếu thuốc lá xì gà ấy không có trong người Wood lúc lên phà, vậy nghĩa là nó được trao ông ấy khi đang ở trên phà.”

“Được trao sao, ngài Bruno?”

Bruno cắn môi. “Ít ra thì đó là giải thích thỏa đáng,” ông nói. “Nói về điếu thuốc lá xì gà, tôi đặt giả thiết là DeWitt đã gặp Wood trên phà và nói chuyện với ông ấy - một giả thiết lý giải cho việc ở lại liền bốn chuyến mà DeWitt đã thừa nhận và thời gian một giờ từ lúc cả Wood và DeWitt lên phà cho đến lúc xảy ra vụ án mạng của Wood. Thế thì hoặc là ông ấy đã mời Wood dùng một điếu xì gà, hoặc Wood đã hỏi xin một điếu khi hai người đang nói chuyện với nhau.”

“Hượm đã nào, ngài Bruno,” Lane nhã nhặn. “Thế nên ngài tin rằng, DeWitt đã mời Wood một điếu xì gà - hoặc giả Wood hỏi xin điếu thuốc đó - rằng sau đó DeWitt đã giết Wood mà quên béng đi rằng trên xác Wood có một vật chứng khốn kiếp trực tiếp ám chỉ đến chính gã?”

Bruno cười khẩy. “Nghe này ngài Lane, con người ta thường làm đủ chuyện ngốc nghếch khi họ gây tội cố sát. Dĩ nhiên DeWitt đã quên. Gã hẳn đã bị khích động cao độ, ngài biết đấy.”

Lane phẩy tay.

“Nào,” Bruno tiếp. “Giờ thì ta sang phần động cơ. Dĩ nhiên, để nói rằng DeWitt đã giết Wood ta phải liên hệ DeWitt với vụ án mạng Longstreet. Ở đây ta không có chứng cứ xác đáng, nhưng sự gắn kết động cơ là dứt khoát rõ ràng. Wood đã viết thư cho cảnh sát báo rằng ông ấy biết kẻ sát nhân trong vụ Longstreet. Trên đường thực hiện khai báo này thì ông ta bị giết - rõ ràng án mạng là để ngăn cản việc khai báo. Chỉ duy nhất một người hết sức lo lắng muốn bịt miệng ông ấy lại - kẻ đã giết Longstreet. Thưa quý ngài hội thẩm, điều này có nghĩa rằng,” Bruno nói tiếp giọng giễu cợt, “nếu DeWitt đã giết Wood, thì hắn cũng đã giết Longstreet. Sự thể là như vậy.” (54)*

Thumm ngắt lời: “Ôi dào, ngài ấy chả tin lời nào của anh nói đâu, Bruno. Thật là phí cả…”

“Này thanh tra Thumm!” Lane nhẹ nhàng tỏ ý bất bình. “Làm ơn đừng hiểu sai thái độ của tôi thế. Ngài Bruno chỉ ra điều dường như đối với ngài ấy là một kết luận hết sức hiển nhiên. Tôi hoàn toàn đồng ý với ngài ấy. Kẻ sát nhân vụ Charles Wood, không nghi ngờ gì nữa, cũng là kẻ đã giết Harley Longstreet. Tuy nhiên, quá trình logic mà ngài Bruno sử dụng để đưa ra kết luận này lại là vấn đề hoàn toàn khác.”

“Ý ngài là,” Bruno la lên, “ngài cũng nghĩ DeWitt…”

“Làm ơn, ngài Bruno, xin vui lòng tiếp tục nào.”

Bruno hơi cau có, phần Thumm thì ngả lọt thỏm trở lại vào ghế rồi nhìn trừng trừng vào gương mặt trông nghiêng trứ danh của Lane. “Động cơ của DeWitt chống lại Longstreet đã khá rõ,” vị công tố viên cất lời sau một lát im lặng khó chịu. “Giữa hai người này có mối hiềm khích tệ hại vì vụ bê bối mang tên Fern DeWitt, vì sự ve vãn mất nết của Longstreet với Jeanne DeWitt, và quan trọng hơn cả, vì Longstreet rõ ràng đã tống tiền DeWitt suốt thời gian dài, nguyên nhân vì sao chưa ai rõ. Bên cạnh đó, ngoài động cơ đã nêu là sự thực rành rành, DeWitt biết rõ hơn ai hết rằng Longstreet có thói quen đọc trang chứng khoán trên xe điện và phải rút kính mắt để đọc nó, vậy nên ông ta có thể trù tính khoảnh khắc Longstreet sẽ bị đâm vì nút bần có kim châm, vân vân và vân vân. Còn việc Wood đã sơ ý để lộ manh mối chỉ ra tội lỗi của DeWitt trong vụ án mạng Longstreet, chúng tôi biết rằng DeWitt đã dùng xe điện của Wood ít nhất hai lần trong thời gian từ lần phạm tội đầu tiên đến lần phạm tội thứ hai.”

“Thế bản chất cụ thể của cái ‘manh mối’ này là gì vậy, ngài Bruno?” Lane hỏi.

“Về điểm ấy chúng tôi không thể chắc,” Bruno nhíu mày. “Tất nhiên là, cả hai vụ đều do một tay DeWitt. Nhưng tôi không cho rằng mình phải chỉ ra do đâu Wood trở thành người biết chuyện này, việc ông ấy cho rằng mình biết là đã đủ cho mạch lập luận của tôi… Nói tóm lại, một yếu tố thực sự thuyết phục đủ để khởi tố sẽ là như vậy: Theo tất cả những gì chúng tôi biết, DeWitt là người duy nhất không chỉ có mặt trên xe điện khi xảy ra án mạng Longstreet mà cả trên phà lúc xảy ra án mạng của Wood!”

“Và,” Thumm cằn nhằn đế thêm, “đấy là một lý do tố tụng vững chắc.”

“Đấy là điểm đáng chú ý xét từ lập trường pháp lý,” vị công tố viên đăm chiêu. “Vật chứng điếu xì gà là một chứng cứ có trọng lượng, những điều suy ra khác và hoàn cảnh vụ việc xảy ra đều nhằm vào DeWitt nên đảm bảo bồi thẩm đoàn sẽ đưa ra một cáo trạng, và, trừ phi tôi mắc lỗi quá nhiều, sau khi bồi thẩm đoàn tuyên cáo trạng thì ngài DeWitt sẽ không quanh co gì được nữa.”

“Gặp một luật sư biện hộ thông minh hoàn toàn có thể xác lập luận cứ hợp lý theo cách khác,” Lane ôn tồn nhận xét.

“Phải chăng,” Bruno nói nhanh, “ý ngài cho rằng không có chứng cứ xác đáng về việc DeWitt đã giết Longstreet? Rằng DeWitt đã bị giăng bẫy khi lên phà Mohawk bởi một người mà nhân dạng của người này ông ta lại không thể tiết lộ vì lý do cá nhân. Rằng điếu xì gà là do có kẻ lén bỏ vào xác của Wood - nói cách khác, rằng DeWitt đã bị dàn xếp vào vụ án mạng của Wood?” Bruno mỉm cười. “Tất nhiên, đó sẽ là lý lẽ biện hộ, ngài Lane ạ, nhưng thực tế ông ấy hết hy vọng rồi, trừ phi luật sư biện hộ trưng ra được tác giả của cuộc điện thoại đó là ai. Không, tôi e là lý lẽ ấy sẽ không đứng vững cho lắm. Đừng quên cách DeWitt đã im lặng và miễn cưỡng khi khai báo, tất thảy sẽ cực lực chống lại ông ấy trừ phi ông ấy hoàn toàn thay đổi thái độ. Cả phương diện tâm lý cũng đã về phía chúng tôi rồi đấy.”

“Nghe đây,“ Thumm nóng nảy, ”thế này thì ta cũng chẳng đến đâu. Này ngài Lane, ngài đã nghe chuyện từ phía chúng tôi rồi đấy, phần ngài thì sao đây?” Ông nói với giọng sấn sổ của một người vững tin vào lý lẽ của mình và thách thức đối thủ tấn công.

Lane khẽ cười rồi nhắm mắt lại. Khi mở ra, đôi mắt ông trở nên sáng rực. “Thưa các ngài,“ ông vừa nói vừa xoay người qua lại trên ghế của mình để đối diện cả hai người, ”tôi nhận ra các ngài đã mắc phải sai lầm về thái độ đối với tội ác và sự trừng phạt, kiểu sai lầm mà nhiều nhà sản xuất đã mắc phải đối với kịch và nghệ thuật diễn xuất của kịch.”

Thumm bật cười thành tiếng, Bruno thì cau mày ngả người tựa vào ghế.

“Cái sai chủ yếu nằm ở ý này,” hai tay đặt lên đầu gậy, Lane thân tình nói tiếp, “rằng các ngài tiếp cận vấn đề của mình cũng giống như cách mà những người bạn đồng hành thuở thiếu thời của các ngài đã làm khi cố sao để vào được rạp xiếc - đó là vào lều bằng cách đi giật lùi. Có lẽ nói thế còn chưa rõ, thôi thì để tôi làm một phép loại suy lấy ví dụ từ kịch nghệ vậy.

“Mỗi khi nhà sản xuất nào đó ra thông cáo rằng ông ta sẽ lại đưa Hamlet lên sàn diễn, những kẻ gọi là giới nghệ sĩ sân khấu chúng tôi lại được dịp nhớ đến danh tiếng để đời của thi hào kịch nghệ bất tử có một không hai. Nhà sản xuất ấy, dù thâm tâm mang ý tốt nhưng đường lối bị sai lầm, việc trước tiên ông ấy làm là gì? Đấy là vội vàng hội ý luật sư rồi thảo ra những giấy tờ pháp lý ấn tượng, tất cả đều sắp xếp chi li với ý đồ công khai là cốt sao đúng lúc để mời bằng được ngài Barrymore tài ba hay ngài Hampden lỗi lạc về thủ vai chính cho vở kịch ấy, tuy kinh điển nhưng đã bị cắt xén quá nửa. Mọi chú trọng đều dồn vào ngài Barrymore, hoặc ngài Hampden. Sức hấp dẫn là ở ngài Barrymore, hoặc ngài Hampden. Công chúng cũng hưởng ứng theo cùng kiểu - họ đến chỉ là để xem nỗ lực biểu diễn của ngài Barrymore hoặc ngài Hampden, mà hoàn toàn bỏ qua chỗ tinh hoa bi tráng thực ra lại chính là ở bản thân vở kịch.”

“Ngài Geddes, với ý định sửa chữa điều tai hại của sự đề cao ngôi sao quá mức, đã đưa một diễn viên trẻ tài năng là ngài Massey vào vai diễn cho vở kịch cùng tên. Thế nhưng, đến cả sự mạo hiểm này cũng là tai ương khinh suất vì vở kịch cũng bị cắt xén theo cách khác. Việc ngài Massey trước nay chưa từng thủ vai Hamlet quả là một niềm cảm hứng cho vai diễn, nhưng là vai diễn của ngài Geddes nặn thành, mặc dù một phần nào đó trong ý đồ gốc của tác giả vở kịch đã được lấy lại - đó là một Hamlet thực sự Hamlet, không phụ thuộc vào tiếng tăm của người diễn viên. Sự nhào nặn ở đây - sự cắt xén lời thoại và chỉ đạo diễn xuất của ngài Massey khiến Hamlet trở thành một chàng thanh niên non nớt mang dáng dấp võ biền hơn là một triết gia - là câu chuyện khác với chuyện đã viết ban đầu.

“Nhưng chính sự chú trọng vào ngôi sao mới là điều tàn nhẫn với nhà viết kịch vĩ đại có một không hai qua mọi thời đại. Trong điện ảnh cũng vậy. Ngài George Arliss diễn vai trong phiên bản điện ảnh của một câu chuyện chuyển thể về một nhân vật lịch sử. Phải chăng công chúng kéo nhau đến để xem Disraeli, là nhân vật đó, được tái hiện một cách diệu kỳ trong giọng nói và bằng cơ thể? Hay là xem Alexander Hamilton? Không hề. Họ lũ lượt đến là để xem sự diễn xuất hay ho của ngài George Arliss, nhưng là cho một nhân vật đã hoàn toàn khác trước.

“Các ngài thấy đấy, sự chú ý đã bị đặt sai chỗ, cách tiếp cận đã bị làm méo mó. Hệ thống hiện đại của quý ngài về nhận diện tội phạm cũng bị mất thăng bằng, bị thiên lệch sâu sắc, giống như hệ thống hiện đại đã đề cao ngài Arliss hoặc phân vai diễn Hamlet cho ngài Barrymore. Nhà sản xuất đã nhào nặn Hamlet, đẽo gọt, đổi thay kích thước, và thiết kế lại nhân vật này cho vừa với ngài Barrymore, thay vì xem xét Barrymore và so sánh với đặc điểm trong nguyên tác, mà Shakespeare đã cân lường để đặt vào trong đó. Quý ngài thanh tra Thumm và công tố viên Bruno, đang phạm phải sai lầm giống vậy khi quý ngài nhào nặn tội ác, đẽo gọt nó, đổi thay kích thước của nó và thiết kế lại để nó vừa với John DeWitt, thay vì đo xem liệu John DeWitt có khớp với những chi tiết cố định của tội ác đó hay là không. Những kết luận lỏng lẻo, những điểm vụn vặt, những mảnh ghép vụng về của những tình tiết không giải thích được của quý ngài, đều là kết quả của cái phương pháp đặt giả thuyết quá nóng vội này. Vấn đề bao giờ cũng cần được giải quyết từ chính bản thân tội ác, được cấu thành từ một loạt những tình tiết không thể thay đổi; và nếu còn giả thuyết nào mâu thuẫn hoặc đối nghịch với nó, thì có nghĩa giả thuyết ấy đã sai. Các ngài hiểu tôi nói gì đấy chứ, thưa quý ngài?”

“Này ngài Lane thân mến của tôi.” Bruno nhăn trán, ông đột ngột đổi sang thái độ khác hẳn. “Đây quả là một phép loại suy sáng suốt và tôi tin chắc về căn bản nó đúng hoàn toàn. Nhưng mà, lạy Chúa, chúng tôi đây có thể dùng phương pháp này thường xuyên đến đâu? Chúng tôi cần hành động. Chúng tôi đang chịu áp lực từ cấp trên, từ báo chí, từ công chúng. Nếu có chăng chỉ vài điều không được sáng tỏ, đó nào phải vì chúng tôi sai, đó là vì chúng không được giải thích ấy chứ, có lẽ là vì không liên quan, và chỉ là những chi tiết vụn vặt.”

“Một câu hỏi có thể thảo luận… thực ra thì, ngài Bruno ạ,” Lane đột ngột đáp lời - gương mặt ông trở lại vẻ bình lặng và bí ẩn, “để kết thúc cuộc thảo luận thân mật này, tôi đồng ý với ngài rằng luật pháp nên hành động theo cách của nó. Hãy bắt giữ ngài DeWitt về tội cố sát đối với Charles Wood, thế thôi.”

Ông đứng dậy, mỉm cười, nghiêng mình chào và nhanh chóng rời khỏi gian phòng.

Tiễn khách ra tận buồng thang máy ngoài hành lang xong xuôi, Bruno trở vào với vẻ mặt băn khoăn lo lắng. Ngồi trong chiếc ghế của mình Thumm đưa mắt chăm chú nhìn ông, vẻ hung hăng thành nết cũng tan biến tự bao giờ.

“Thế nào Thumm, anh nghĩ sao?”

“Quỷ tha nó chứ,” Thumm nói, “giá mà tôi biết mình nghĩ sao. Lúc đầu tôi cho thằng cha đó chẳng qua chỉ là gã hát tuồng ba hoa khoác lác, nào dè …” Ông đứng dậy bắt đầu dùng chân đo thảm. “Cái bài thuyết giáo mới rồi đó của gã quả chẳng hề vớ vẫn chút nào. Tôi chẳng biết nữa … Mà này, biết chuyện này anh thú vị cho xem. Hôm nay Lane đã ăn trưa cùng DeWitt. Mosher vừa báo cáo tôi.”

“Ăn trưa với DeWitt à? Vậy mà ông ta chẳng thở ra lấy một chữ về chuyện đó,” ngài công tố viên nói khẽ. “Tôi ngờ ông ấy hẳn có chuyện gì giấu riêng về DeWitt đây.”

“À, ông ấy chả xào nấu chuyện gì với DeWitt cả đâu,” Thumm nhăn mặt, “do Mosher bảo lúc Lane bỏ đi thì nhìn bộ tướng DeWitt hệt con chó vừa bị đập một phát nhừ tử.”

“Có thể,” Bruno thở dài ngả người vào chiếc ghế xoay của mình, “có thể rốt cục ông ấy vẫn đứng về phía chúng ta. Còn nếu có cơ may dù rất nhỏ rằng ông ấy sẽ khám phá ra điều gì đấy, chúng ta đành bám vào ông ấy rồi ngậm bồ hòn mà thôi… Mà,” ông nói thêm sau cái nhăn mặt cuối cùng, “nó có ngọt ngào gì cho cam!”