← Quay lại trang sách

CẢNH 7 Căn Hộ Của Michael Collins-Thứ bảy, Ngày 10 Tháng 10-4 Giờ 45 Sáng

New York vẫn chìm trong quầng sáng tối tăm của thời khắc trước lúc bình minh. Chiếc ô tô cảnh sát băng băng lao qua những con phố tối đen và hoang vắng hệt như những con đường mòn xuyên núi. Tứ bề vắng lặng ngoại trừ đâu đó một chiếc taxi đèn pha sáng quắc đang chạy chậm tìm khách.

Michael Collins sống trong một tòa nhà kiên cố ở phố Thứ Bảy Tám Hướng Tây. Chiếc ô tô cảnh sát vừa đỗ lại bên đường thì một người đàn ông từ trong bóng tối của ngôi nhà chạy đến. Thumm nhảy ra khỏi xe, theo sau là Bruno và toán thám tử. Người đàn ông nói: “Gã vẫn còn trên ấy, thưa sếp. Từ lúc vào nhà đến giờ gã chưa hề ló mặt trở ra.”

Thumm gật gù. Họ nối đuôi nhau đi vào tiền sảnh, một lão già vận đồng phục ngồi sau chiếc bàn trố mắt nhìn. Họ đến lắc vai đánh thức gã thanh niên gác thang máy, anh chàng liền hối hả mở thang đưa họ lên trên.

Họ đáp thang máy ở tầng thứ tám; lại có thêm một thám tử xuất hiện và chỉ tay ra hiệu về phía một cánh cửa. Mọi người tập trung lại, ai nấy đều im lặng. Bruno thở dài hồi hộp liếc mắt nhìn đồng hồ. “Mọi thứ sẵn sàng rồi chứ?” Thumm hỏi giọng thản nhiên. “Hắn rất có thể gây chuyện đấy.”

Ông bước đến cửa rồi nhấn chuông, một tiếng rung từ xa vọng vào tai họ. Tức thì họ nghe thấy tiếng bước chân rậm rịch và giọng khàn đục của một người đàn ông hỏi lớn: “Ai đấy? Là ai hả?”

Thumm trầm giọng quát: “Cảnh sát đây! Mở cửa!”

Yên lặng chốc lát, rồi tiếng hét nghèn nghẹt vang lên: “Các người sẽ không để tôi sống mà, quỷ bắt các người đi!” lại tiếng chân rầm rập, rồi đanh và chắc như tiếng gãy đánh tách của cành cây đóng băng, một phát súng ngắn vang lên. Tiếp theo là âm thanh của vật nặng đổ xuống.

Cả nhóm cùng xông tới cánh cửa. Thumm lùi lại một bước, hít một hơi dài rồi lấy hết sức tông mình vào cửa. Cánh cửa đặc cứng, không lay chuyển. Trung sĩ Duffy với một gã cơ bắp rắn chắc, cùng Thumm lùi lại và cả ba cùng lao vào cánh cửa bằng sức mạnh của súc gỗ công thành. Cánh cửa rùng lên, nhưng vẫn y nguyên. “Một lần nữa!” Viên thanh tra thét lên… Dưới sức công phá lần thứ tư cánh cửa bật vào đánh rầm, cả bọn ngã dúi dụi vào một hành lang tối và dài, cuối hành lang là ô cửa dẫn vào một căn phòng đèn chiếu sáng choang.

Trên ngưỡng cửa, nằm giữa hành lang và căn phòng, là dáng người của Michael Collins trong bộ pajama. Cạnh tay phải của gã là khẩu ru-lô đen sì còn bốc khói.

Thumm lao về phía trước, đôi giày nặng nề đập trên mặt sàn lát gỗ. Ông quỳ đánh thịch xuống bên Collins rồi áp tai vào ngực gã đàn ông.

“Hắn còn sống!” Ông kêu lên. “Mang hắn vào phòng kia!”

Họ nhấc cái thân hình nặng ì lên, khênh vào căn phòng sáng đèn, đấy là một gian phòng khách, rồi thả đánh huỵch lên một chiếc đi-văng. Gương mặt Collins trông thật thảm: hai mắt nhắm nghiền, môi bạnh ra thành tiếng gầm gừ như chó sói, gã thở ồ ồ. Bên phải đầu gã tóc bết dính và máu chảy ướt cả một bên mặt, máu tung tóe xuống cả vai phải, ướt đẫm trên tấm áo pajama. Thumm sờ vào vết thương, mấy ngón tay của ông lập tức đầy máu. “Còn chưa thủng qua cái sọ dừa của hắn,” ông làu bàu. “Chỉ mới sượt da đầu. Chắc là ngất vì sốc đây, nhìn tệ quá. Ai đó gọi bác sĩ xem nào… Ha, Bruno, có vẻ chuyện kết thúc rồi đấy.”

Một người chạy đi. Thumm sải ba bước băng qua phòng nhặt khẩu súng lên. “Là khẩu 38, tốt,” ông hài lòng kêu lên, thế rồi mặt ông lại xị xuống. “Nhưng chỉ mới bắn một viên, phát vừa rồi hắn cố tự sát. Mà viên đạn bay đâu nhỉ?”

“Ghim vào chỗ tường đây,” một thám tử nói, gã chỉ vào vết lõm trên tường nơi vữa văng tung tóe.

Đang lúc Thumm chọc vào dò tìm đầu viên đạn, Bruno nói: “Hắn chạy từ hành lang về phòng khách và nổ súng trong lúc chạy. Viên đạn bay thẳng qua phòng còn hắn thì ngã sấp ở ngay cửa lúc bắn trượt.” Thumm cau có nhìn mũi đạn chì bẹp dí giữa mấy ngón tay. Ông cho vào túi, lấy khăn tay bọc khẩu súng cẩn thận rồi trao cho một thám tử. Có tiếng ồn ào vọng vào từ hành lang bên ngoài; họ quay lại thì thấy một đám vài người mỏng manh áo ngủ đang ngó lom lom vào căn hộ bằng ánh mắt sợ hãi.

Hai gã nhân viên đi ra ngoài. Trong cảnh lộn xộn diễn ra sau đó, viên thám tử vừa được phái đi gọi thầy thuốc giờ thẳng tay xô vẹt đám đông để mở đường, theo sau là một ông vẻ mặt đáng kính, mình mặc pajama và áo choàng bên ngoài, tay ôm một cái túi xách màu đen.

“Ông là bác sĩ à?” Thumm hỏi.

“Đúng. Tôi sống trong tòa nhà này. Dường như có chuyện gì thế?”

Ông vẫn chưa thấy hình dáng nằm bất động trên chiếc đi-văng cho đến khi các thám tử bước tránh sang bên. Không nói lời nào viên thầy thuốc quỳ xuống. “Nước,” rồi ông vẫy tay nói tiếp, “Ấm nhé.” Một người vào phòng tắm rồi quay ra với một cái chậu đầy nước.

Sau năm phút xử lý vết thương, viên thầy thuốc đứng dậy. “Chỉ là vết xước nặng thế thôi,” ông nói. “Ông ấy sẽ tỉnh lại ngay.” Ông dùng gạc lau vết thương, sát trùng rồi cạo gần hết tóc phía bên phải đầu. Bằng thao tác thành thạo, ông làm sạch lần hai rồi ông khâu miệng vết thương và băng cái đầu lại. “Ông ấy cần sớm được chăm sóc thêm, nhưng tạm thời như vậy được rồi; sẽ nhức đầu ghê gớm và khá đau. Ông ấy tỉnh lại kìa.”

Sau một tiếng rên ồn ào, khàn đặc, Collins rùng mình; hai con mắt của gã mở ra đảo qua đảo lại, đến khi khả năng nhận thức chầm chậm phục hồi thì chúng lại bắt đầu ràn rụa nước mắt đến khó tin. “Ông ấy sẽ ổn thôi,” viên thầy thuốc vừa cất giọng lạnh nhạt vừa đóng túi xách lại.

Vị thầy thuốc bỏ đi. Một viên thám tử xốc nách Collins đỡ gã nửa nằm nửa ngồi và chèn một cái gối vào dưới cổ gã. Collins lại rên lên, gã đưa bàn tay không dính máu sờ lên đầu, đụng phải lớp băng bàn tay ấy lại tuyệt vọng thả xuống đi-văng nghe đánh phịch.

“Collins,” viên thanh tra cất tiếng và ngồi xuống cạnh gã đàn ông bị thương, “tại sao cậu tự vẫn vậy hả?”

Collins thè đầu lưỡi khô khốc ra liếm môi; mọi ánh mắt đều đổ dồn vào gương mặt sợ sệt và lố bịch của gã. Phần bên phải mặt thì lem luốc vệt máu khô. “Nước,” gã lẩm bẩm.

Thumm đưa mắt, một viên thám tử mang đến một cốc nước rồi thận trọng đỡ chiếc đầu của Collins lên giữa lúc gã người Ai Len vừa nốc vừa sặc vì chất lỏng mát lạnh. “Sao đây, Collins?”

Collins hổn hển: “Ông bắt tôi phải không? Ông bắt tôi phải không? Đằng nào tôi cũng phá sản rồi.”

“Vậy là cậu thừa nhận?”

Collins định nói gì đấy, rồi dừng lại, đầu gật gật, lộ vẻ giật mình, bất chợt gã trợn mắt với vẻ hung hăng cố hữu. “Thừa nhận cái gì?”

Thumm cười gằn. “Thôi đi, Collins. Đừng diễn vai nạn nhân vô tội nữa. Cậu biết quá rõ cái gì rồi. Cậu đã giết chết John DeWitt, là cái đấy đấy!”

“Tôi… giết… ” Collins đực mặt ra; gã vặn vẹo gượng ngồi dậy; bị sức ép của tay Thumm đè lên ngực, gã lại ngã bật ngửa ra và hét loạn cả lên: “Ông đang nói cái đếch gì vậy hả? Tôi giết DeWitt á? Ai giết ông ấy chứ? Tôi còn không biết ông ấy đã chết nữa là! Ông điên à? Hay ông tính đổ tội cho tôi?”

Thumm tỏ vẻ bối rối. Bruno giật mình khi Collins đảo mắt nhìn sang, ông dịu giọng: “Nghe tôi bảo đây, lẩn tránh cũng chả giúp gì được cho cậu đâu, Collins. Rõ ràng khi nghe cảnh sát đến tìm, cậu đã hét lên: ‘Các người đâu để cho tôi sống,’ rồi cố tình tự vẫn còn gì. Đó mà lại là lời cuối cùng của một gã đàn ông vô tội chắc. Mới rồi cậu còn nói: ‘Ông bắt tôi phải không?’ Vậy chẳng phải là thừa nhận có tội sao? Nói dối chả ăn thua gì đâu cậu ơi. Cậu vừa hành động như kẻ có tội rồi.”

“Nhưng tôi không giết DeWitt, ông nghe chửa!”

“Vậy sao cậu cư xử như biết là cảnh sát sớm muộn sẽ đến? Tại sao cậu cố tình tự vẫn?” Thumm tức tối gằn giọng.

“Vì…” Collins cắn chặt môi dưới vào giữa hàm răng chắc khỏe rồi nhìn chòng chọc vào Bruno. “Đó là chuyện của tôi,” gã sưng sỉa. “Tôi chả biết chuyện giết giọt gì sất. Lần cuối tôi gặp DeWitt ông ấy còn sống sờ sờ ra đấy.” Gã rên lên vì một cơn đau quét qua bộ mặt nặng nề của gã; hai tay của gã đưa lên ôm lấy đầu.

“Vậy là cậu thừa nhận có gặp DeWitt hồi khuya nay?”

“Tất nhiên tôi đã gặp ông ấy. Có cả mớ nhân chứng ở đấy. Tôi gặp ông ấy trên tàu hỏa hồi khuya nay, đó là nơi ông ấy bị giết à?”

“Hãy thôi tránh trớ trì hoãn đi,” Thumm hằm hè. “Thế nào cậu bỗng dưng lại có trên chuyến tàu địa phương Newburgh hả?”

“Tôi đi theo DeWitt, tôi đâu có chối. Tôi theo ông ấy suốt buổi tối. Lúc ông ấy cùng đám bạn rời khách sạn Ritz tôi lần theo họ đến nhà ga. Tôi cố tìm cách gặp ông ấy lâu rồi, cả hồi ông ấy ở sau song sắt lận. Tôi mua vé rồi lên cùng chuyến tàu, tàu vừa chạy là tôi đến ngay chỗ DeWitt - ông ấy đang ngồi với gã luật sư Brooks của ông ấy với hai người nữa, trong đó có Ahearn - thế rồi tôi van nài năn nỉ ông ấy.”

“Biết rồi, biết rồi, cái đó biết rồi,” viên thanh tra nói. “Sau khi cậu rời khỏi toa tàu nhảy đi ra sàn lên xuống, chuyện gì xảy ra?”

Đôi mắt đỏ ngầu của Collins long lên. “Tôi đòi ông ấy bồi thường cho lời mách nước hạng bét của Longstreet về cổ phiếu ngoài thị trường. Longstreet đã làm tôi phá sản, mà đó là hãng của DeWitt, ông ấy phải chịu trách nhiệm. Tôi… tôi cần số tiền đó. DeWitt không chịu nghe. Ông ấy một mực nói không, rằng ông ấy… Ôi, thánh thần ơi, ông ấy như đinh đóng cột ấy.” Cơn tức uất nghẹn ngào len lén bò vào giọng của gã. “Tôi thiếu điều quỳ xuống trước mặt ông ấy. Nhưng vô ích.”

“Lúc ấy cậu đứng chỗ nào?”

“Chúng tôi bước qua sàn lên xuống phía bên kia, sàn lên xuống của toa tàu tối ấy… Thế rồi tôi quyết định xuống tàu; tôi chả còn gì để nán lại đấy. Chúng tôi vào đến một nơi gọi là Ridgefield Park. Tàu đỗ lại, tôi mở cửa bên phía đường ray nhảy xuống. Tôi lại với tay lên đóng cửa rồi băng qua đường ray. Tôi hỏi thăm biết được tàu trở về thành phố trong đêm đã hết nên tôi phải đón taxi về ngay sau đó. Xin Chúa hãy giúp con.”

Gã ngả đầu ra gối thở hào hển. “Thế lúc cậu nhảy khỏi tàu, DeWitt vẫn còn trên sàn lên xuống phía sau đấy à?” Thumm hỏi

“Đúng thế. Ông ấy nhìn tôi, cái lão chết tiệt ấy…” Collins cắn môi. “Tôi… tôi rất căm tức ông ấy,” gã ấp úng. “Nhưng đâu tức đến nỗi để phạm tội giết người. Ôi, Chúa ơi, không…”

“Cậu cho là bọn tôi nuốt nổi câu chuyện của cậu chắc?”

“Tôi bảo ông là tôi không giết ông ấy!” Giọng Collins rít lên thành một tiếng hét. “Lúc tôi đã ở trên đường ray và đang kéo cửa thì tôi thấy ông ấy lau trán bằng một chiếc khăn tay, bỏ khăn tay vào túi rồi mở cánh cửa của toa tàu tối. Ông ấy vào bên trong. Tại sao ư, họa có Chúa mới biết. Tôi đã thấy ông ấy, nói ông biết!”

“Cậu có thấy ông ấy ngồi xuống không?”

“Không. Lúc ấy tôi đã ra khỏi tàu, tôi bảo ông rồi.”

“Sao cậu không đi qua toa sáng đèn rồi xuống tàu theo cánh cửa do trưởng tàu mở, ở phía trước ấy?”

“Tôi không có thời gian. Tàu đã dừng ở ga rồi.”

“Vậy là cậu tức giận ông ấy, hả?” Viên thanh tra hỏi. “Cãi nhau à?”

Collins gào lên: “Ông đang cố gán chuyện này vào tôi đấy phỏng? Tôi đang nói thật mà Thumm. Tôi đã bảo ông rằng bọn tôi có lời qua tiếng lại vài câu, hẳn nhiên tôi tỏ ra tức tối, ai lại không thế chứ? DeWitt cũng thế thôi. Ông ấy bước vào toa tàu tăm tối ấy để trấn tĩnh lại, có lẽ thế. Ông ấy khá kích động rồi còn gì.”

“Cậu có mang theo súng bên mình không, Collins?”

“Không.”

“Cậu đâu có vào bên trong cái toa tàu tối ấy, phải không hở tên du côn?” Thumm hỏi.

“Chúa ơi, không!” Gã người Ai Len gào tướng lên.

“Cậu bảo có mua một vé ở nhà ga. Đâu, đưa xem.”

“Bỏ trong áo ngoài của tôi để ở tủ tường phòng ngoài ấy.” Trung sĩ Duffy đi đến tủ áo quần trong hành lang, lục lọi rồi quay lại với một mảnh nhỏ giấy bồi.

Thumm và Bruno cầm xem. Đấy là tấm vé một chiều của đường sắt Bờ Tây, chưa bấm lỗ, vé cho chuyến địa phương từ Weehawken đến Tây Englewood.

“Thế nào mà nó không bị soát vé thu vậy hở tên du côn?” Thumm gặng hỏi.

“Lúc tôi rời tàu, ông ấy chưa đến chỗ chúng tôi.”

“Thế đấy.” Thumm đứng dậy, vươn vai ngáp dài. Collins ngồi dậy; một phần sức lực của gã đã hồi phục; gã cho tay vào túi áo pajama lục tìm một điếu thuốc lá. “Thôi được, Collins, việc đến giờ xem như sắp xong. Cậu cảm thấy sao rồi?”

Collins làu bàu: “Hơi đỡ hơn một tí. Đầu đau như búa bổ ấy.”

“À, tôi mừng là cậu thấy đỡ hơn đấy,” Thumm vui vẻ.

“Nghĩa là bọn tôi không phải gọi xe cứu thương làm gì nữa.”

“Cứu thương á?”

“Đúng thế. Đứng dậy thay quần áo nhanh, cậu cùng về trụ sở với bọn tôi.”

Điếu thuốc lá rớt khỏi mồm Collins. “Ông… ông gán tôi vào vụ giết người đó hả? Tôi không làm chuyện ấy, tôi bảo ông thế! Tôi đã kể sự thực với ông rồi mà, ngài thanh tra, thề có Chúa…”

“Dớ dẩn. Ai lại đi bắt cậu vì chuyện cãi cọ với DeWitt chứ.” Thumm nháy mắt với Bruno. “Chúng tôi chỉ muốn giữ cậu làm nhân chứng quan trọng thế thôi.”