CẢNH 9 Lâu Đài Hamlet-Thứ Hai, Ngày 12 Tháng 10-1 Giờ 30 Chiều
Thanh tra Thumm được Quacey dẫn đường qua những hành lang ngoằn nghoèo đến một buồng thang máy lắp chìm. Ở đây họ được nâng vút lên như hỏa tiễn phi nguyệt cầu đi qua lòng tháp chính của lâu đài Hamlet đến một chiếu nghỉ nhỏ nằm ở trên cao. Theo chân Quacey, Thumm đến một cầu thang bộ bằng đá trông cổ lỗ chẳng khác gì tòa tháp Luân Đôn, và lần theo các bậc thang uốn lượn vòng quanh dẫn đến một cánh cửa bằng gỗ sồi đóng then sắt. Quacey chật vật với cái yếm khóa và những chiếc then cửa nặng nề, cuối cùng cũng lôi được chúng ra rồi đẩy cánh cửa trong tiếng hào hển của hơi thở già nua. Họ bước ra mặt sân mái bằng đá đặc có tường chắn khoét lỗ châu mai của tòa tháp.
Ngài Drury Lane, hầu như không áo quần, đang nằm trên một tấm da gấu, tay che mắt để khỏi chói vì ánh mặt trời trên cao.
Thanh tra Thumm khựng lại còn Quacey thì nhe răng cười trở gót mất dạng. Viên thanh tra không giấu được sự kinh ngạc trước vóc dáng tràn đầy sức sống, đỏ au màu đồng của Lane, một hình ảnh của sự trẻ trung và vạm vỡ rắn rỏi. Cơ thể duỗi thẳng không mỡ thừa của ông, chỉ trừ một vạt lông vàng ánh kim mờ nhạt xuôi về phía dưới, sạm nắng, săn chắc và nhẵn nhụi, rõ ràng là của người đang vào thời kỳ sung mãn nhất trong đời. Nếu nhìn toàn chiều dài thân hình tráng kiện thì sẽ thấy mái tóc bạc rối bung trên đầu ông quá ư là khập khiễng so với cơ thể. Dấu hiệu nhượng bộ duy nhất đối với sự lịch duyệt lúc này là một cái khố màu trắng vắt ngang hông. Đôi bàn chân rám nắng của ông để trần, nhưng đôi giày da đanh thì để sẵn bên tấm chăn nhỏ. Sát một bên là chiếc ghế xếp bằng vải độn bông.
Thumm lắc đầu buồn bã rồi kéo áo choàng kín người hơn chút nữa. Trời tháng Mười căm căm giá buốt; một cơn gió mạnh tạt quanh đầu tháp. Ông rảo bước về phía trước, đến gần hơn cái vóc dáng nằm nghiêng; da dẻ hoàn toàn trơn láng không mảy may nổi gai ốc vì lạnh.
Linh cảm cảnh giác nào đó khiến Lane choàng mở mắt; hoặc đó là do bóng của Thumm khi viên thanh tra đứng bên mình ông. “A, ngài thanh tra!” Ông ngồi dậy, lập tức tỉnh hẳn, ôm lấy đôi chân gọn ghẽ rắn chắc của mình. “Thật ngạc nhiên làm sao. Hãy bỏ lỗi cho sự thoải mái trong bộ dạng của tôi hiện thời nhé. Mời ngài kéo chiếc ghế xếp kia. Tất nhiên,” ông mỉm cười tinh quái, “trừ phi ngài có hứng thú cởi bỏ y phục để tham gia cùng tôi trên tấm da gấu đây…”
“Thôi, cảm ơn,” Thumm hấp tấp ngồi vào ghế. “Đang lúc gió máy thế này á? Xin kiếu thôi.” Ông há miệng cười. “Hỏi ra có điều hơi đường đột, nhưng năm nay niên kỷ ngài bao nhiêu rồi hở ngài Lane?”
Đôi mắt Lane nheo nheo dưới nắng. “Sáu mươi.”
Thumm lắc đầu. “Còn tôi năm mươi tư. Thú thật với ngài, tôi sẽ hổ thẹn lắm nếu cởi bỏ mớ giẻ trên người để lộ cho ngài thấy cơ thể của mình. Vì sao ư, so với ngài hóa ra tôi lại là một lão già nhễu nhão!”
“Có lẽ ngài không có thời gian để chăm sóc cơ thể mình đấy thôi, ngài thanh tra ạ,” Lane uể oải. “Phần tôi thì lại có cả thời giờ lẫn cơ hội. Đây…” ông khoát tay vào khung cảnh bên dưới, nhìn tinh tế như những đồ chơi bé xíu, “ở đây tôi có thể làm những gì mình muốn. Cái lý do duy nhất mà tôi phải trang trí phần thắt lưng của mình theo hình dạng của Mahatma Gandhi (80)* là vì Quacey ít nhiều hay có tính cả thẹn và sẽ hốt hoảng không thốt nên lời nếu tôi không che đậy, à, những phần người hơn trong sự trần trụi của chính mình. Tội nghiệp Quacey! Đã hai mươi năm nay tôi vẫn cố thuyết phục lão tham gia cùng tôi vào những bữa yến thái dương như thế này. Ngài sẽ có dịp trông thấy lão ấy trên người không có lấy mảnh áo! Nhưng lão ấy già quá rồi, đến nỗi tôi không dám tin liệu lão có còn tự biết được chính xác mình đã được bao nhiêu tuổi hay không.”
“Ngài rõ ra là người khác thường nhất tôi từng gặp đấy,” Thumm nói. “Sáu mươi…” ông thở dài. “À này, thưa ngài, chuyện đang trở nên tốt hơn rồi. Tôi đến đây để cập nhật diễn biến mới - đặc biệt là một diễn biến mới đây.”
“Collins, phải không?”
“Vâng, tôi đoán Bruno đã kể ngài chuyện xảy ra khi chúng tôi đột nhập căn hộ của Collins rạng sáng hôm thứ Bảy thì phải?”
“Đúng thế. Gã đần ấy đã cố tự sát. Vậy ra ngài đang giam gã sao, ngài thanh tra?”
“Giam khẩn cấp.” Thumm nghiêm mặt. “Nói theo cách nào đấy,” ông tỏ ra bối rối, “tôi thấy mình như một gã tân binh ngờ nghệch ấy. Tôi đây, kể với ngài điều gì đấy trong lúc chúng tôi đang mò mẫm trong bóng tối; còn ngài thì biết toàn bộ sự việc, tôi hiểu vậy.”
“Ngài thanh tra thân mến, suốt một thời gian dài ngài không mấy thân thiện về tôi. Ngài cảm thấy tôi đang giả vờ biết điều tôi chẳng biết gì. Điều này chẳng lấy gì làm lạ. Ngài vẫn không biết liệu sự im lặng của tôi có phải là do buộc phải làm vậy hay chỉ là sự lừa gạt, và rồi ngài hành xử với một niềm tin mới. Một sự khiêm nhường mang tầm vóc lớn lao, ngài thanh tra ạ. Chúng ta đều cùng lâm vào cái mớ bòng bong tệ hại này, lúc này và cho đến khi nó được tháo gỡ hoàn toàn.”
“Giá nó sẽ được như vậy,” Thumm rầu rĩ. “Thôi được, về Collins ấy mà, chuyện là thế này. Chúng tôi đào bới quá khứ của hắn và khám phá chính xác lý do hắn xoắn lên tìm cách thu hồi lại số tiền hắn bị thua lỗ vì cổ phiếu. Hóa ra hắn đã lợi dụng công việc ở Cục thuế Thu nhập để tham ô công quỹ của tiểu bang!”
“Thật thế sao?”
“Chính xác là vậy. Tính đến nay hắn đã đút túi một trăm ngàn hoặc hơn thế, không ai biết chính xác là bao nhiêu. Số tiền không nhỏ chút nào, ngài Lane. Xem ra hắn đang ‘vay’ tiền tiểu bang để chơi cổ phiếu. Hừ, hắn bị lỗ, càng lúc càng lỗ nặng, và hắn ôm cú chót đến năm mươi ngàn vào thời điểm Longstreet gà hắn đâm đầu vào cổ phiếu International Metals. Đấy là cú liều mạng của hắn - Cố làm sao để gỡ lại số tiền bị thua trắng và lấp liếm những khoản hắn đã ăn cắp. Chừng như sự việc đã lộ dấu hiệu gây nghi ngờ và một cuộc điều tra âm thầm đã bắt đầu để kiểm tra sổ sách của Cục thuế Thu nhập.”
“Collins chặn trước cuộc điều tra trực tiếp sao, ngài thanh tra? Làm sao gã làm được chuyện đấy?”
Thumm bặm môi. “Chả khó gì với hắn. Hắn làm giả sổ sách, ém nhẹm sự việc nhiều tháng liền. Thế rồi hắn cũng xoay sở được nhiều ảnh hưởng chính trị gian lận rẻ tiền. Nhưng giờ hắn đã lâm vào đường cùng, hắn khó còn có thể tránh trớ lâu hơn nữa.”
“Một khía cạnh khác thường rọi vào tính cách con người,” Lane lẩm bẩm. “Gã đàn ông này, cộc cằn, ương bướng, tính khí lỗ mãng, cuộc đời gã có lẽ là cả một chuỗi những sự thôi thúc cuồng bạo, sự nghiệp của gã vương vãi đầy những thây ma chính trị của kẻ thù… kẻ này, theo lời Bruno kể với tôi, đã hạ gối van xin trước một gã môi giới chứng khoán, ngài thanh tra ạ. Đạo đức hoàn toàn lụn bại, gã vốn đang chuộc lại tội ác của mình với xã hội đấy thôi.”
Thumm xem ra không mấy ấn tượng. “Có lẽ vậy. Gì thì gì, chúng tôi có bằng cớ khá vững chống lại hắn trước tòa - lại cũng là bằng cớ gián tiếp, nhưng mà quỷ nó chứ. Động cơ ư? Quá rõ ràng với cả Longstreet cũng như DeWitt. Để trả thù cái mà hắn cho đấy là trò lá mặt lá trái của Longstreet, hắn giết Longstreet. Đến lúc tuyệt vọng, phá sản, lâm vào cảnh chẳng còn gì để mất, hắn lại nghe DeWitt chối từ đền bù cho sự xúi bẩy hạng bét của Longstreet, hắn giết luôn DeWitt. Xét về hoàn cảnh, người ta có khuynh hướng xem Collins là kẻ phạm tội trong việc cố sát cả hai người hợp doanh đó, và không loại trừ khả năng hắn đã giết cả Wood. Hắn vẫn có thể dễ dàng là một trong những hành khách đi phà đã kịp thoát thân khi chiếc Mohawk cập mạn. Chúng tôi đã xác minh hành tung của hắn đêm ấy, và Collins không thể đưa ra được chứng cứ ngoại phạm nào… Hơn nữa, trước tòa Bruno có thể trưng bằng chứng về cách ứng xử chứng tỏ có tội của Collins khi chúng tôi phá cửa vào nhà hắn - hắn kêu la, tự sát…”
“Tại tòa,” Lane vừa duỗi đôi tay rắn chắc vừa mỉm cười nhận xét, “dưới sức hấp dẫn ở tài hùng biện của ngài công tố viên thì tôi không nghi ngờ gì chuyện Collins sẽ trở thành kẻ có tội. Nhưng ngài thanh tra này, liệu ngài đã xét đến khả năng khi Collins nghe tiếng cảnh sát đập cửa, lúc mới năm giờ buổi sáng sớm, trí óc điên loạn của gã đã vội nhảy vào kết luận rằng chuyện gã đục khoét công quỹ tiểu bang đã bại lộ, và rằng gã sẽ bị gô cổ vì tội biển thủ hoặc ăn cắp số tiền quá lớn? Đứng vào trạng thái tâm thần của gã mà xét, điều này sẽ lý giải cho hành động cố tình tự sát của gã và sự kêu la của gã rằng ngài không hề muốn ‘để’ gã sống.”
Thumm gãi đầu. “Đó chính là những gì Collins nói ra khi chúng tôi công kích hắn sáng nay về cái tội tham ô đó. Làm thế nào ngài biết vậy?”
“Ôi dào, ngài thanh tra, cái đó rành rành e trẻ con còn biết nữa là.”
“Dường như tôi thấy,” Thumm nghiêm trang, “ngài cho rằng Collins nói thật về điểm này thì phải. Ngài không tin hắn là thủ phạm đúng không? Thực ra thì chính Bruno bảo tôi đến đây để ngầm hỏi ý kiến của ngài. Ngài thấy đấy, chúng tôi muốn truy tố hắn về tội giết người. Nhưng Bruno bị bỏng tay một lần rồi nên ngài ấy không muốn lặp lại trải nghiệm ấy thêm lần nữa.”
“Ngài thanh tra Thumm,” Drury Lane vừa nói vừa chân trần đứng dậy và ưỡn bộ ngực rám nắng của ông, “Bruno sẽ không bao giờ khép Collins vào tội cố sát DeWitt cả.”
“Tôi đã đoán thế nào ngài cũng nói thế.” Thumm nắm tay lại rồi đưa mắt nhìn chán ngán. “Nhưng ngài đứng vị trí bọn tôi mà xem. Ngài đọc báo chưa nhỉ? Thấy sự chê cười chúng tôi đang hứng chịu vì đã công toi trong vụ buộc tội DeWitt? Họ bươi móc chuyện ấy rồi liên hệ đến vụ án mạng DeWitt, mà bọn tôi thì chả dám chường mặt trước lũ ký giả ấy. Nói riêng giữa ngài và tôi nhé, vố này không khéo tôi mất luôn cả việc chứ chả chơi. Chưa gì sáng nay ngài cảnh sát trưởng đã muốn cho tôi lên bàn mổ rồi.”
Lane phóng mắt nhìn dòng sông xa xa. “Giả như,” ông cất giọng nhẹ nhàng, “tôi cảm thấy rằng, điều này là tốt cho ngài và ngài Bruno, ngài có nghĩ rằng tôi nên nói ra những gì tôi biết bây giờ chăng? Nhưng trò chơi sắp kết thúc rồi, ngài thanh tra ạ; chúng ta đang gần đích lắm rồi. Còn đối với công việc của ngài thì… tôi cho là khó có chuyện ngài cảnh sát trưởng đòi lột lon khi ngài trao cho ông ấy kẻ sát nhân đã bó tay chịu trói.”
“Khi tôi…”
“Đúng vậy, ngài thanh tra.” Lane tựa tấm lưng trần của ông vào mặt đá gồ ghề của một vách tường chắn mái. “Nào hãy kể tôi nghe còn gì khác mới mẻ nào?”
Thumm không trả lời ngay. Khi ông mở lời, đó gần như là vẻ e dè. “Tôi quả tình không có ý thúc ép, ngài Lane ạ, nhưng tính từ khi bắt đầu biết nhau, đây là lần thứ ba ngài lại đưa ra khẳng định chắc chắn về những vụ án mạng này. Thế nào ngài lại đoan chắc rằng Collins không phải là thủ phạm?”
“Đấy,” Lane từ tốn, “lại là một câu chuyện dài, ngài thanh tra. Mặt khác, chúng ta đã đạt đến điểm mà đến lúc để tôi chứng minh cũng như đặt câu hỏi. Tôi nghĩ mình có thể lắng nghe lý do khởi tố chống lại Collins của ngài ngay chiều nay.”
Thumm cười ha hả. “Giờ ngài đang nói đấy nhé, ngài Lane! Tôi cảm thấy khá hơn rồi… Các diễn biến sự việc ấy à? Nhiều lắm. Đốc-tờ Schilling đã phát hành cái biên bản pháp y quý giá của ông ấy về DeWitt và đã gắp được đầu đạn ra. Nó là từ một khẩu cỡ nòng 38 như ông ấy đã nói lúc đầu. Diễn biến thứ nhì thì có phần khá thất vọng. Vị công tố viên hạt Bergen là ngài Kohl đã không thể dò ra dấu vết số hành khách xuống tàu trước khi cái xác được phát hiện, và cả người của ông ấy lẫn người của chúng tôi đều không tìm ra được khẩu ru-lô ở bất cứ đâu dọc theo đường ray hoặc nền đường. Lẽ tất nhiên theo ý Bruno thì khẩu súng của Collins chính là tác giả của viên đạn đó; chúng tôi đã cho thực hiện một điều tra vi ảnh trên viên đạn lấy từ xác DeWitt để so sánh với viên đạn nằm trong khẩu ru-lô của Collins. Dù chúng có khác nhau chăng nữa thì điều này cũng không chứng minh được Collins vô tội, vì hắn biết đâu đã dùng một khẩu khác để nã vào DeWitt. Ít nhất thì đấy là lý lẽ của Bruno, ngài ấy đặt giả thuyết, nếu quả đúng Collins dùng súng khác để bắn thì rất có thể hắn vẫn còn mang theo khẩu súng ấy khi bắt taxi trong đêm và đã ném xuống sông lúc xe qua phà về New York.”
“Một trùng hợp lý thú,” Lane lẩm bẩm. “Hãy tiếp đi nào, ngài Thanh tra.”
“À, chúng tôi dò lại đường cũ với người lái chiếc taxi đưa Collins về New York hôm ấy, để xem liệu ông ta có qua phà và liệu Collins có ra bên ngoài lúc xe đậu trên phà. Người lái xe không biết Collins có ra ngoài xe hay không, song ông ấy xác nhận Collins đã đón xe ông ấy ngay khi chuyến tàu địa phương đang rời ga Ridgefield Park. Thế thôi. Diễn biến thứ ba thật ra cũng chả phải là diễn biến gì. Chúng tôi chưa phát hiện điểm nào quan trọng trong quá trình xác minh sổ sách kinh doanh lẫn tài liệu đời tư của Longstreet. Tuy vậy, diễn biến thứ tư mới thật là lý thú vì khi kiểm tra sổ sách giấy tờ của DeWitt tại văn phòng ông ấy chúng tôi khám phá một việc đáng chú ý. Đã tìm thấy nhiều biên lai chi phiếu đã chi trả - hai chi phiếu mỗi năm trong suốt mười bốn năm qua - lập cho một người tên là William Crockett.”
Lane không động đậy, đôi mắt màu xám tro của ông gần như đổi sang màu nâu lục nhạt khi chúng dán vào môi của Thumm. “Hừm… này ngài thanh tra, ngài quả đã mang đến bao tin tức dồi dào. Vậy những tờ séc ấy chi những số tiền bao nhiêu, và chi trả qua ngân hàng nào?”
“À, mặc dù số tiền mỗi tờ mỗi khác nhưng tờ nào cũng không dưới mười lăm ngàn đô la. Chúng đều được trả tiền mặt tại cùng một ngân hàng - Ngân hàng Colonial Trust ở Montreal, Canada.”
“Canada sao? Càng lúc càng thú vị đây, ngài thanh tra. Thế những tờ séc ấy được ký ra sao - bằng chữ ký cá nhân DeWitt hay đấy là chi phiếu công ty?”
“Không phải, dường như chúng đều là chi phiếu công ty cả; chúng đều được ký bởi cả DeWitt và Longstreet. Chúng tôi cũng đã lưu ý điểm này, nghĩ rằng biết đâu số giấy tờ này lại là trò tống tiền nào đấy chống lại DeWitt. Mà dù vậy chăng nữa, cả hai gã hợp doanh kí tên trong đấy. Trong văn phòng, không có hồ sơ nào giải trình lý do về số chi phiếu phát hành bán niên đó; chúng đều được tính vào tài khoản riêng của hai người theo tỉ lệ năm mươi - năm mươi. Hồ sơ thuế má cũng không có gì, chúng tôi kiểm tra rồi.”
“Thế ngài đã điều tra gã Crockett này chưa?”
“Ngài Lane à!” Thumm tỏ vẻ hổ thẹn. “Người bên Canada ắt đã cho chúng tôi là những gã điên. Liên tục từ khi khám phá ra những biên lai chi phiếu đó chúng tôi cứ quấy rầy họ không thôi. Đã có chuyện lạ ở đấy, điều tra qua Montreal hé lộ rằng một gã tên William Crockett - tất nhiên, tờ chi phiếu nào cũng do hắn xác nhận…”
“Không có ủy quyền chứ? Mỗi lần xác nhận đều cùng một nét chữ chứ?”
“Hoàn toàn đúng thế. Như vừa nói, chúng tôi phát hiện gã Crockett ấy ký thác những chi phiếu này qua thư từ ở nhiều nơi khác nhau tại Canada, rồi rút những khoản tiền gửi đó bằng chi phiếu. Rõ ràng hắn chi tiền ra gần như ngay khi hắn vừa có. Ngân hàng không mô tả được nhân dạng của Crockett và cũng không có chỗ ở hiện tại của hắn, ngoại trừ những sao kê và biên lai được yêu cầu gửi bằng thư đến một hòm thư bưu điện trung tâm tại Montreal. Thế là, chúng tôi lập tức lao theo hướng đó. Chúng tôi điều tra cái hòm thư bưu điện ấy nhưng không tìm ra dù chỉ một điều gì đó có giá trị. Không ai nhớ đã bao lâu rồi có ai đến mở hòm thư ấy, mặc dù lúc chúng tôi nhờ người lục xem thì cái hòm thư hoàn toàn trống rỗng. Chúng tôi đâm bổ trở về lục soát ở văn phòng DeWitt & Longstreet thì phát hiện chính những tờ chi phiếu này trước sau đều gửi qua thư đến cùng địa chỉ bưu điện trung tâm nói trên. Không người nào ở văn phòng biết William Crockett là ai, mặt mũi hắn trông thế nào, hay tại sao hắn nhận chi phiếu. Còn về phần cái hòm thư bưu điện ấy thì nó được thanh toán theo năm và luôn được trả trước một năm - cũng bằng thư.”
“Bực bội nhỉ,” Lane lẩm bẩm. “Tôi có thể hình dung ngài và Bruno ắt đã phải lộn tiết đến mức nào.”
“Bọn tôi vẫn đang thế đấy chứ,” viên thanh tra làu bàu. “Càng đào sâu vào tìm hiểu sự việc càng trở nên bí ẩn. Kẻ ngốc cũng nhận ra cái gã Crockett này đang giữ kín sự việc trong bóng tối.”
“Như ngài nói thì có lẽ hắn đang giữ kín sự việc trong bóng tối theo sự xếp đặt của DeWitt & Longstreet hơn là chính bản thân hắn muốn vậy.”
“Có thể nói, đấy là một ý!” Thumm thốt lên. “Tôi chưa nghĩ đến việc này. Dù sao thì, tất cả câu chuyện Crockett này nghĩa là gì thì vẫn còn là một trò sấp ngửa. Có thể nó chẳng liên quan tí gì đến những vụ án mạng vừa rồi - đấy là điều Bruno nghĩ, và ngài ấy hẳn có khá nhiều tiền lệ để vin vào đấy làm cơ sở cho ý kiến của mình. Trước giờ tôi chưa hề gặp vụ án sát nhân nào mà ở đó vấn đề chính lại không bị rối beng cả lên vì những dấu vết giả hoặc không quan trọng cả. Nhưng mặt khác thì, nó cũng có thể thực sự có ý nghĩa gì đấy… Nếu Crockett quả là đang tống tiền hai gã này, vậy thì ta có được một lý do về án mạng.”
“Ngài thanh tra,” Lane cười, “thế ngài định làm thế nào để ý nghĩa ấy đừng trái với câu chuyện chú ngỗng đẻ trứng vàng đây hở?”
Thumm cau có. “Tôi sẽ thừa nhận cái giả thuyết tống tiền này là buồn cười. Thứ nhất, tờ biên lai chi phiếu gần đây nhất được ghi ngày chỉ mới vào tháng Sáu vừa qua, như vậy rõ ràng Crocket đã nhận số tiền nửa năm một lần của hắn một cách đều đặn thường xuyên. Vậy thì mắc mớ gì hắn lại đi giết con ngỗng đang đẻ trứng vàng cho hắn, như ngài nói? Đặc biệt là khi tờ chi phiếu gần đây nhất ấy lại được ghi số tiền lớn nhất từ trước đến nay.”
“Mặt khác, ngài thanh tra ạ, cứ theo cái giả thuyết tống tiền của ngài nhé, Crockett có thể chả còn con ngỗng nào để mà giết nữa. Ngài có nghĩ rằng tờ chi phiếu tháng Sáu ấy đã là tờ chót được gửi? Ngài có giả định rằng DeWitt và Longstreet bảo với Crockett rằng từ nay trở đi sẽ chẳng có thêm chi phiếu nào cho hắn nữa?”
“Có gì đấy ở điểm này… Tất nhiên chúng tôi cũng đã tìm xem thư từ giao dịch với kẻ tên Crockett đó nhưng không thấy bất cứ tờ thư nào, song điều này cũng chả chứng tỏ được gì vì lý đương nhiên họ có thể liên lạc với gã mà không để lại dấu vết.”
Lane nhè nhẹ lắc đầu. “Không hiểu sao tôi không tán thành được giả thuyết tống tiền hoàn toàn chỉ dựa trên tình tiết ngài đã đưa, ngài thanh tra ạ. Vì nếu vậy tại sao số tiền lại biến đổi khác nhau? Thông thường tống tiền bao giờ cũng theo hình thức những số tiền ấn định bằng nhau.”
Thumm nói khẽ: “Và điều ấy cũng có lý. Quả thực là tờ chi phiếu tháng Sáu ghi số tiền mười bảy ngàn tám trăm sáu mươi bốn đô la. Sao lại không phải là một số tròn?”
Lane mỉm cười. Ông lặng ngắm khát khao lần cuối dòng sông Hudson như sợi chỉ mảnh lóng lánh qua những ngọn cây bên dưới, thở phào rồi xỏ chân vào đôi giày da đanh. “Ta xuống dưới thôi, ngài thanh tra. Chúng ta đã đến điểm mà tôi phải ‘đội chiếc vương miện hành động lên ý nghĩ.’ Vậy thì… ‘hãy cứ nghĩ là làm ngay đi thôi’!”
Họ đi về phía cầu thang bộ bên trong lòng tháp. Thumm nhìn bộ ngực trần của vị chủ nhà rồi cất tiếng cười sảng khoái. “Nói có Chúa chứ!” Ông nói, “đến cả tôi ngài cũng khơi được cảm hứng đấy, ngài Lane. Không ngờ tôi lại tâm đắc với mấy câu trích đoạn vậy đó. Thằng cha Shakespeare này cũng có kiến văn thực tiễn ấy chứ? Tôi cá lời ẩn ý ấy là của Hamlet chả sai.”
“Mời đi trước nào, ngài thanh tra.” Họ bước vào lòng tháp tranh tối tranh sáng rồi bắt đầu đi xuống theo bậc đá uốn cong. Lane tủm tỉm cười sau tấm lưng to bè của Thumm. “Tôi cho rằng đấy là một suy đoán dũng cảm dựa vào thói quen đáng sợ của tôi là ưa trích dẫn lời vàng của vị Hoàng tử xứ Đan Mạch (81)*. Nhưng ngài hố to rồi, ngài thanh tra thân mến, lời ấy là của Macbeth.”
Mười phút sau hai người đã yên vị bên trong thư phòng của Lane. Bên trong chiếc áo choàng xám mặc nhà quấn quanh cơ thể để trần, Lane đang chăm chú nhìn vào một tờ bản đồ New Jersey rộng lớn trong khi Thanh tra Thumm dõi theo bằng nét mặt hiện rõ vẻ hoang mang. Dáng người béo lùn và phúng phính như cái bánh pudding thịt bò nướng của viên quản gia của Lane, kẻ được gán cho một biệt danh mỹ miều là Falstaff, thì đang mất dạng qua một ô cửa tò vò viền quanh toàn sách là sách.
Sau nhiều phút dành tập trung nghiên cứu tấm bản đồ, Lane đẩy nó sang bên rồi quay sang nhìn Thumm bằng nụ cười hài lòng mỹ mãn. “Đã đến lúc phải thực hiện một chuyến đi thôi, ngài thanh tra. Một chuyến đi ít nhiều quan trọng.”
“Cuối cùng chúng ta lên đường à?”
“Ồ, không, chưa phải chuyến cuối đâu, ngài thanh tra,” Lane thì thầm. “Có lẽ mới chỉ là chuyến đi áp chót. Một lần nữa, ngài cần phải đặt niềm tin vào tôi, ngài thanh tra. Tôi sợ mình bắt đầu nghi vấn tài năng của mình kể từ vụ án mạng DeWitt mà, dù lẽ ra tôi đã có thể thấy trước điều ấy, tôi lại không thể ngăn ngừa bằng bất cứ phương pháp trực tiếp nào… Ngài thấy đấy, tôi đang bào chữa cho chính mình. Cái chết của DeWitt…” Ông nín lặng, và Thumm chòng chọc nhìn ông bằng ánh mắt lạ lẫm. Thế rồi ông nhún vai. “Ta tiếp tục thôi! Bản năng ưa kịch hóa của tôi sẽ không để tôi phá hỏng một cao trào hoàn hảo dành cho ngài. Hãy làm theo lời tôi đề nghị và, miễn là số mệnh đứng về phía chúng ta, tôi có thể cung cấp bằng chứng tuyệt diệu làm phá sản lý do khởi tố Collins của ngài cố nhiên việc này sẽ làm phật ý người bạn tốt của chúng ta ấy là ngài công tố viên, nhưng ta phải bảo vệ người sống. Ngài thanh tra, hãy lập tức dùng điện thoại tại đây gọi đến những người có thẩm quyền, yêu cầu bố trí ngay một toán người chờ gặp ta chiều nay tại Weehawken. Trong số họ nhất thiết phải có người mang theo dụng cụ câu móc.”
“Dụng cụ câu móc à?” Thumm hoài nghi. “Câu móc… cho chỗ nước sâu sao? Một cái xác à?”
“Tôi nên nói rằng người của ngài phải sẵn sàng cho mọi bất ngờ mới phải. À, Quacey!”
Lão già chuyên hóa trang nhỏ thó, chiếc tạp dề da quấn quanh cái hông bé xíu, tay cầm một phong bì đựng hồ sơ cỡ lớn đã lê bước vào thư phòng từ lúc nào. Lane đưa những ngón tay háo hức chộp lấy chiếc phong bì trước vẻ mặt bất bình của lão - vì thấy Lane để mình trần trụi bên dưới chiếc áo choàng mặc ở nhà. Chiếc phong bì mang một con dấu của tòa lãnh sự.
“Tài liệu từ Uruguay,” ông hớn hở nói với Thumm, lúc này ngẩn người không hiểu đầu đuôi đang xảy ra chuyện gì. Ông xé phong bì lấy ra những tờ ảnh bìa cứng và một lá thư dài. Đọc thư xong ông vứt lại lên bàn.
Thumm không tài nào giấu được sự tò mò. “Đấy có phải bức hình chụp dấu vân tay không vậy hở ngài Lane, hay là tôi nhìn nhầm?”
“Những cái này, ngài thanh tra ạ,” Lane vừa đáp vừa vung vẩy những bức hình lên trời, “là những ảnh phóng lớn dấu tay của một quý ông thú vị nhất có tên là Martin Stopes.”
“Cái gì, ngài bảo gì,” Thumm nói ngay. “Thế mà tôi nghĩ nó có dính dáng gì đến vụ án ấy chứ.”
“Ngài thanh tra thân mến ơi, những thứ này chính là vụ án đấy!”
Thumm nhìn Lane bằng vẻ mặt bị thôi miên của một con thỏ bị lóa mắt vì ánh sáng. Ông liếm môi. “Nhưng… nhưng,” ông lắp bắp, “những thứ đó là vụ án nào? Những vụ án mạng chúng ta đang điều tra hả? Chúa ơi, ngài Lane, nhân danh đấng hào quang, Martin Stopes là gã nào vậy?”
Lane làm một động tác bốc đồng, ông dùng một tay ôm lấy vai Thumm. “Tôi có lợi thế hơn ngài ở đấy, ngài thanh tra ạ. Lẽ ra tôi không nên cười mới phải, ấy là một điều thô lỗ không nên làm… Martin Stopes chính là ngài X chúng ta đang tìm - kẻ chịu trách nhiệm về việc đã đưa Harley Longstreet, Charles Wood và John O. DeWitt ra khỏi thế gian tốt đẹp này.”
Thumm há mồm, chớp mắt và lắc lắc đầu trong dáng vẻ bị choáng thường gặp của ông. “Martin Stopes… Martin Stopes, kẻ cố sát Longstreet, Wood, DeWitt…” Ông đọc cái tên đến líu cả lưỡi. “Tại sao, ôi lạy Chúa tôi!” Ông bật luôn một tràng, “tôi có bao giờ nghe đến cái tên này của hắn đâu! Tên hắn thậm chí còn chưa hề xuất hiện trong vụ án nữa là!”
“Tên gọi nào nói lên điều gì, hở ngài thanh tra?” Lane đặt những bức hình trở vào chiếc túi hồ sơ. Thumm nhìn chằm chặp tuồng như đó là những tài liệu vô vàn quý giá; mấy ngón tay của ông tự dưng cong lại thành hình những cái móc. “Tên gọi nào nói lên điều gì? Ngài thanh tra thân mến, ngài vốn hân hạnh gặp Martin Stopes nhiều, nhiều lần lắm rồi!”