← Quay lại trang sách

NHẬP ĐỀ - CẢNH 1 Nhà Xác - Ngày 2 Tháng Hai - 9:30 P.M

Vào một buổi chiều tháng Hai đáng nhớ, chiếc Lavinia D, một con tàu đánh cá xa bờ ương ngạnh xấu xí, đang cưỡi những con sóng Đại Tây Dương trở về đất liền. Nó đã đi qua Sandy Hook, hiện ở gần cảng Hancock, và đang hướng về vịnh Lower. Những bọt sóng bao quanh mũi tàu và tạo thành một vệt dài phía đằng đuôi. Một tấm lưới cũ mèm giăng trên thành tàu, boong tàu thì như một lò mổ hổ lốn bẩn thỉu, những ngọn gió rét buốt Đại Tây Dương khiến thân tàu rúng động, và thủy thủ đoàn đang thầm nguyền rủa tay thuyền trưởng, biển cả, lũ cá, bầu trời xám xịt, và cả bờ biển cằn cỗi đảo Staten bên mạn trái tàu. Một chai rượu được truyền từ tay người này sang người khác.

Đám thủy thủ đang run lên dưới những tấm áo mưa màu vàng bay phần phật. Vẻ chán chường, một thủy thủ tựa người trên thanh vịn ngắm những con sóng cồn vẩn màu xanh lục, rồi anh chợt sững người lại, cặp mắt như lồi hẳn ra khỏi khuôn mặt đỏ gay, sau đó là một tiếng thét vang trời. Thủy thủ đoàn liền nhìn theo hướng chỉ tay của anh ta. Cách họ khoảng trăm mét là thứ gì đó nho nhỏ màu đen, một thứ không thể nhầm lẫn đi đâu được, chính là một xác người chết trôi trên vịnh.

Cả toán thủy thủ nhảy dựng lên. “Rẽ trái!” người đang giữ bánh lái nghiêng người và chửi thề. Chiếc Lavinia D bắt đầu lượn thành một vòng cung nguệch ngoạc về bên trái, khiến cả đám mối ghép vang lên tiếng kẽo kẹt. Nó vòng quanh cái thứ chết trôi kia như một con vật đầy cảnh giác, từ từ vòng lại gần trong dáng vẻ của một kẻ săn mồi. Với vẻ hào hứng và khấp khởi, thủy thủ đoàn vung vẩy những cái móc sắt trong không trung mặn mòi, sẵn sàng để tóm lấy con cá lạ lùng nhất trong mẻ đánh bắt hôm nay.

Chỉ mười lăm phút sau, yên vị trong vũng nước tanh ngòm trên phần boong tàu ướt nhoẹt là một thứ mềm oặt, tả tơi chẳng ra hình thù gì, nhưng vẫn đủ thấy đó là một con người. Từ hiện trạng đã bị phân hủy của cái xác, thì người này hẳn đã bị ngâm trong nước biển suốt nhiều tuần rồi. Thủy thủ đoàn chỉ còn biết đứng ngây ra đó trong lặng im. Tay chống hông, chân giạng ra, chẳng ai dám chạm vào cái xác cả.

Thế rồi, với mùi cá tanh và gió mặn trong hai lỗ mũi, cái xác mang tên York Hatter bắt đầu chuyến hành trình cuối cùng của mình. Quan tài của ông ta chính là con tàu bẩn thỉu này, người đưa tiễn là một đám thủy thủ bặm trợn thô lỗ, quần áo thì bám đầy vảy cá, còn kinh cầu siêu là những tiếng nguyền rủa của thủy thủ và tiếng gió rít qua eo biển. Cái mũi ướt nhoẹt của con tàu lướt qua làn bọt trắng và neo lại tại một bến tàu gần Battery. Tàu cập bến với một kiện hàng chẳng báo trước từ biển cả. Mọi người nhảy vội xuống tàu, thuyền trưởng la hét đến lạc cả giọng, đám nhân viên bến tàu thì gật gù và ngó qua cái sàn trơn trượt, điện thoại reo lên trong những cơ quan hữu trách nho nhỏ khu Battery. Và York Hatter thì nằm lặng yên dưới một tấm bạt. Cũng chẳng lâu lắm. Một chiếc xe cứu thương lao vội tới. Nhân viên y tế đưa cái xác sũng nước đi. Buổi tang lễ giã từ biển cả, và khúc truy điệu là những tiếng còi tàu rền vang. York Hatter được đưa từ mạn dưới Broadway về nhà xác.

Số kiếp của ông ta khá kỳ lạ, và đến giờ vẫn còn là bí ẩn. Vào ngày 21 tháng Mười hai, bốn ngày trước lễ Giáng sinh năm ngoái, người vợ già Emily Hatter đã báo rằng chồng bà ta vừa biến mất khỏi căn nhà riêng tọa lạc trên đường Washington Square North của thành phố New York. Ông ta chỉ đơn thuần là bước ra khỏi cái tòa gạch đỏ nằm trong khối tài sản kếch sù của nhà Hatter mà chẳng có ai đi kèm, cũng chẳng để lại lời nào với ai, rồi cứ thế lặn mất tăm.

Người ta chẳng tìm thấy dấu vết nào về hành tung của ông ta sau đó. Bà Hatter thì không tài nào giải thích nổi sự biến mất của chồng mình, ủy ban tìm kiếm người mất tích đưa ra giả thuyết rằng ngài Hatter đây đã bị bắt cóc hòng đòi tiền chuộc. Ý kiến này bị bác bỏ trên cơ sở là chẳng có tin tức nào được gửi đến gia tộc giàu có của ông ta từ bọn bắt cóc giả định kia. Những giả thuyết khác thì chình ình trên mặt báo: Ông ta đã bị sát hại , dẫn nguyên văn lời của một người rằng mọi thứ đều có thể nếu chuyện dính dáng đến gia tộc Hatter. Nhưng họ đã cương quyết phủ nhận điều đó; York Hatter là một người sống chừng mực chẳng làm mất lòng ai, một người kín đáo ít bạn bè và, tính đến giờ, không có kẻ thù nào. Một tờ báo khác, có lẽ dưới sức nặng của lịch sử đầy kỳ bí và sôi sục của nhà Hatter, đã táo bạo cho rằng thực ra ông ta chỉ đơn thuần là chạy trốn - trốn khỏi bà vợ mặt sắt, những đứa con lập dị và phiền phức, rồi cả đám người nhà gây nhức đầu hại não nữa. Giả thuyết này, một lần nữa, bị bỏ qua khi cảnh sát điều tra được tài khoản ngân hàng cá nhân của ông ta vẫn còn nguyên. Một thực tế nữa là cả cái phỏng đoán viển vông về “một tình nhân bí ẩn” cũng đã sớm chết yểu. Bà Emily Hatter, trong cơn điên tiết vì bị ám chỉ này nọ, đã xổ luôn một tràng rằng chồng bà nay gần bảy mươi rồi - cái tuổi mà chẳng mấy ai còn bỏ nhà, gia đình, và tài sản để theo đuổi cái thứ gọi là ảo mộng tình yêu gì đó. Suốt năm tuần lễ tìm kiếm không ngừng nghỉ, cảnh sát chỉ bám vào giả thuyết duy nhất - tự tử. Lần này thì có vẻ như họ đã đúng.

Thanh tra Thumm của tổ trọng án thuộc Sở Cảnh sát New York rất hợp để làm người chủ trì cho buổi tang lễ đơn sơ của York Hatter. Nét nào của ngài thanh tra cũng vừa xấu vừa thô: khuôn mặt nhàu nhĩ khắc khổ, cái mũi gãy, đôi tai dập nát, chân tay to bè và thân hình phương phi. Người ta hẳn sẽ tưởng ngài từng có thời kỳ là võ sĩ quyền Anh hạng nặng, các đốt ngón tay ghồ ghề xương xẩu, di chứng từ những đòn đánh mãnh liệt khi phá án. Mái tóc hoa râm nửa xám nửa đỏ, đôi mắt màu xám, khuôn mặt rám hồng. Thanh tra Thumm cho ta cảm giác vững vàng đáng tin cậy. Ngài cũng là dạng có đầu óc nữa. Khi hết giờ làm, Thumm lại là một người cương trực và lương thiện. Thumm có thừa kinh nghiệm với một cuộc chiến gần như tuyệt vọng.

Nhưng chuyện này thì lại khác. Một vụ mất tích, nỗ lực tìm kiếm không thành công, một cái xác bị cá rỉa được tìm thấy. Và hàng tá dấu vết cần nhận dạng nữa. Mọi thứ đều để ngỏ và chưa thể kết luận gì, nhưng người thanh tra cảm nhận được rằng đây là một vụ giết người và nhiệm vụ của ngài là làm sáng tỏ câu chuyện này.

Bác sĩ Schilling, chuyên gia pháp y của hạt New York, ra hiệu cho người trợ lý, và cái xác trần trụi được nhấc khỏi bàn mổ để chuyển về băng ca. Thân hình béo lùn gốc Đức của Schilling khẽ cúi xuống bồn rửa cẩm thạch; ông rửa tay, khử trùng rồi lau thật khô. Khi đôi tay ngắn núc ních đã thật khô, ông lấy ra một chiếc tăm bằng ngà voi đã mòn kha khá và bắt đầu cẩn trọng xỉa răng. Viên thanh tra khẽ thở dài; công việc đã xong xuôi. Thời điểm bác sĩ Schilling xỉa răng cũng là lúc để bắt đầu nói chuyện.

Họ cùng nhau đẩy chiếc băng ca tới phòng chứa xác. Chẳng ai nói với ai một lời. Thi thể của York Hatter được đưa lên một tấm phản kim loại. Thumm quay ra dò hỏi, “Chưa cho xác vào ngăn sao?” bác sĩ Schilling chỉ khẽ lắc đầu.

“Kết luận thế nào, bác sĩ?”

Vị chuyên gia pháp y bỏ cái tăm khỏi miệng. “Một vụ rõ ràng, Thumm à. Ông ta gần như chết ngay tức khắc sau khi xuống nước. Các lá phổi cho thấy thế.”

“Ông bảo nạn nhân chết đuối ngay tức khắc ư?”

“Không. Ông ta không bị chết đuối. Ông ta chết vì nhiễm độc.”

Thanh tra Thumm nhìn cái xác vẻ cau có. “Vậy đây là một vụ giết người, và chúng ta đã sai. Hồ sơ sẽ chất như núi cho xem.”

Cặp mắt nhỏ của bác sĩ Schilling khẽ lóe lên sau chiếc gọng kính vàng kiểu cổ. Trên cái đỉnh đầu hói nhẵn bóng kỳ cục của ông là một chiếc mũ vải xám nhỏ nhắn. “Thumm à, ngài khờ quá. Nhiễm độc chưa hẳn là do giết người… Có nhiều dấu tích của axit prussic trong cơ thể. Nhưng thế thì sao? Tôi chỉ dám nói ông ta đã đứng trên thành tàu, nuốt axit prussic , rồi nhảy hay thả mình xuống nước. Mà nước biển thì mặn. Thế có gọi là giết người không? Tự sát, Thumm à, và ngài đã đúng.”

Vị thanh tra có vẻ bị thuyết phục. “Tuyệt! Rồi ông ta chết ngay khi chạm mặt nước - axit prussic giết ông ta phải không? Hay đấy.”

Bác sĩ Schilling tựa vào tấm phản, đôi mắt ông hấp háy vẻ buồn ngủ. Ông ta lúc nào cũng buồn ngủ. “Nói là giết người thì hơi khó. Chẳng có dấu vết nào có thể quy cho tác nhân hữu ý cả. Chỉ có vài chỗ xương bị thâm và xước xát trên da thịt - vì nước biển như một chất bảo quản mà, hay là ngài cũng chẳng biết, hả cái đồ ngốc kia? - Thì không nghi ngờ gì chính là do cái xác bị va đập vào đá ngầm dưới biển. Những vết va chạm rõ ràng. Một bữa tiệc cho lũ cá.”

“À ha. Mặt ông ta không thể nhận dạng, rành rành là thế. Quần áo của ông ta để trên chiếc ghế gần đó thì như một đống giẻ rách, bị xé toạc và nhai nát. Sao chúng ta không phát hiện ra cái xác sớm hơn nhỉ? Một thi thể không thể nổi lềnh phềnh suốt năm tuần liền phải không?”

“Dễ hiểu mà, suy nghĩ đi. Ngài như kẻ mù ấy!” Vị chuyên gia pháp y vớ lấy tấm áo trùm ướt nhoẹt tả tơi của người chết và chỉ vào chỗ rách trên thớ vải sau lưng áo. “Cá rỉa đúng không? Không phải! Cái lỗ này bị thứ gì đó to và sắc đâm thủng. Thi thể ông ta đã bị móc vào một khúc cây dưới nước, Thumm à. Thủy triều hay một chấn động nào đó đã giải phóng nó ra, có thể là cơn bão từ hôm kia. Dễ hiểu khi ta không tìm thấy cái xác suốt năm tuần qua.”

“Rồi từ vị trí mà thi thể được tìm thấy,” viên thanh tra trầm ngâm tiếp lời, “thật dễ để ghép thành câu chuyện hoàn chỉnh. Ông ta nuốt thuốc độc, nhảy xuống biển, có thể là từ trên phà đi đảo Staten, rồi bị cuốn trôi xuống tận vùng eo biển Narrows… Thế những đồ đạc của người chết đâu? Tôi muốn xem qua chúng.”

Thumm và Schilling đi quanh bàn để đồ. Một đống thứ linh tinh nằm trên đó: những mảnh giấy mềm nhão và bị vo viên đến không thể nhận ra, một chiếc tẩu làm từ rễ thạch nam, một hộp diêm ướt, một chùm chìa khóa, một cái ví ngâm nước có chứa tiền mặt, một vốc tiền xu đủ loại. Đầu kia chiếc bàn là một cái nhẫn khá nặng có khắc dấu được lấy ra từ một con cá, hay ngón áp út bàn tay trái người chết; cái dấu được khắc bạc những chữ cái YH .

Nhưng viên thanh tra chỉ chú ý đến một di vật duy nhất - túi thuốc lá. Nó được làm từ da cá và chống thấm nên sợi thuốc vẫn khô nguyên. Tránh được nước biển, bên trong túi là một mảnh giấy gấp. Thumm lần mò giở nó ra, một thông điệp được viết bằng mực rõ nét theo kiểu chữ in gần như hoàn hảo, gọn ghẽ và cân đối như đánh máy. Thông điệp như sau:

21 tháng Mười hai, 19—

GỬI NGƯỜI ĐỌC ĐƯỢC TIN NHẮN NÀY:

Tôi tự sát trong trạng thái minh mẫn về tinh thần. YORK HATTER

“Ngắn gọn và đúng trọng tâm,” bác sĩ Schilling nhận xét. “Hỡi người có cùng suy nghĩ với tôi. Tôi tính tự sát. Tôi vẫn tỉnh táo. Chẳng còn gì để vấn vương. Tiểu thuyết bằng một câu văn, ngài Thumm.”

“Ầy, xin thôi đi, không tôi bật khóc mất,” viên thanh tra làu bàu. “Về phần vợ nạn nhân. Tôi sẽ báo cho bà ta đến đây nhận dạng thi thể.” Ngài vơ lấy một tấm mền nằm dưới chân phản và phủ đại lên thi thể. Từ yết hầu bác sĩ Schilling khẽ bật ra mấy từ tiếng Đức, rồi ông đứng sang một bên, cặp mắt lấp lóe.

Một đoàn người lặng lẽ tiến vào nhà xác: một phụ nữ và ba người đàn ông. Đừng thắc mắc tại sao người phụ nữ lại đi trước đám đàn ông; nhìn bà ta là có thể cảm nhận được người này luôn thích lãnh đạo, chỉ huy và sai khiến người khác. Bà ta đã già, dạn dày và cứng cỏi như đá. Mũi bà ta khoằm như móc câu, tóc bạc trắng, cặp mắt xanh lạnh lùng, tinh tường như mắt cú vọ. Một con người sắt thép chưa từng biết quy lụy là gì… Đó là phu nhân Emily lừng danh thiên hạ, ai hay đọc báo mà chả biết đến con người “giàu không tưởng”, “lập dị”, “bà đầm thép” của khu Washington Square này. Bà ta sáu mươi ba tuổi, nhưng vẻ ngoài thì già hơn đến cả chục tuổi. Trang phục trên người thì đã lỗi mốt từ thời tổng thống Woodrow Wilson * tuyên thệ nhậm chức. Ánh mắt bà ta chỉ chú ý đến tấm phản đang phủ mền. Từ lối vào bà ta tiến đến với vẻ hiên ngang, đĩnh đạc, như của một vị thần số mệnh. Thanh tra Thumm chú ý đến người đàn ông đi sau bà ta, tóc vàng, dáng cao, vẻ căng thẳng, mang nhiều nét giống Phu nhân Hatter. Ngài muốn ngăn người phụ nữ lại, nhưng bà ta cứ thây kệ mà lầm lừ tiến vào không dừng, bước tới chỗ cái xác, lật mền ra rồi ngắm nghía khuôn mặt bị hủy hoại đến không thể nhận dạng mà chẳng hề chớp mắt đến một cái.

Thanh tra Thumm để mặc bà ta được thể hiện nét vô cảm mà không can dự. Ngài quan sát khuôn mặt bà ta trong giây lát, rồi quay sang đám người hộ tống bên cạnh. Người tóc vàng cao kều kia, tuổi tầm hơn ba mươi, hẳn là Conrad Hatter, con trai duy nhất của ngài York và phu nhân Emily Hatter. Cũng giống mẹ, khuôn mặt anh ta lộ vẻ đanh ác, nhưng lẩn khuất nét yếu mềm nhu nhược, thêm chút chán chường mơ hồ nữa. Anh ta dường như không được khỏe, chỉ dám liếc nhìn mặt người chết rồi cúi ngay xuống sàn nhà, chân phải bắt đầu run lẩy bẩy.

Bên cạnh anh ta là hai người đàn ông khác, mà Thumm có thể nhận ra sau quá trình điều tra vụ mất tích của York Hatter. Một người là vị bác sĩ tư, cao và xanh xao, dễ phải đến bảy mươi tuổi, với đôi vai nghiêng gầy: bác sĩ Merriam. Ông ta chẳng lộ ra vẻ khó chịu gì khi xem mặt người chết, nhưng dễ thấy ông ta không được thoải mái, phản ứng mà viên thanh tra quy cho mối thâm giao với người quá cố. Người cuối cùng cũng là người lạ lùng nhất đám - với thân hình cao kều mang vẻ biển cả, rất lêu nghêu mảnh dẻ. Đó là thuyền trưởng Trivett, một chủ tàu đã nghỉ hưu và là bạn thâm giao của nhà Hatter. Thanh tra Thumm lộ vẻ kinh ngạc khi quan sát người này - ngài chưa từng nhận ra trước đó! Thế mới hay chứ lại - rằng chân phải của thuyền trưởng Trivett không còn nữa, thay vào đó là một chiếc chân giả bịt da nhô ra từ ống quần. Phản ứng của Trivett không chỉ là những tiếng khò khè trong cổ họng. Ông ta đặt bàn tay sương gió của mình lên vai bà Hatter như để tỏ lòng an ủi. Người phụ nữ liền hẩy sự an ủi đó ra bằng cánh tay rắn chắc. Thuyền trưởng Trivett tái mặt và lùi lại đằng sau.

Rồi bà ta cất những lời đầu tiên phá vỡ sự im lặng. “Đây có phải…? Tôi không dám chắc, ngài thanh tra à.”

Thumm bỏ tay ra khỏi túi áo choàng, hắng giọng đáp. “Không. Tất nhiên là không thể rồi. Thi thể bị hủy hoại quá nhiều, bà Hatter ạ… Đằng kia! Bà có thể nhận diện quần áo và đồ đạc.”

Người phụ nữ già chỉ gật đầu, khi theo Thumm tới chỗ chiếc ghế nơi để đống quần áo ướt, bà ta cũng chỉ để lộ một cảm xúc duy nhất - bà ta khẽ khàng liếm môi một cái, như hành động của con mèo ăn xong bữa. Bác sĩ Merriam thế chỗ bà ta ở chỗ tấm phản, ra hiệu cho Conrad Hatter và thuyền trưởng Trivett rời khỏi chỗ đó rồi phủ mền che trở lại. Bác sĩ Schilling quan sát ông ta với vẻ hoài nghi mang tính nghiệp vụ.

“Quần áo của York. Ông ấy vẫn mặc đồ giống cái ngày biến mất.” Giọng nói của bà ta, cũng như khuôn miệng, thật kín kẽ và gan góc.

“Và giờ, thưa bà Hatter, những đồ đạc cá nhân này.” Viên thanh tra dẫn bà ta tới chỗ chiếc bàn. Người phụ nữ chậm rãi cầm lấy chiếc nhẫn đưa lên, cặp mắt lạnh lùng lão luyện quét qua cái tẩu, chiếc ví, chùm chìa khóa…

“Cái này của ông ấy,” bà ta cất giọng khô khốc. “Chiếc nhẫn. Chính tôi tặng cho ông ấy - Cái gì đây?” Bỗng nhiên bà ta bị kích động rồi vớ lấy mảnh giấy và liếc đọc thông điệp trong đó. Rồi bà ta lại tỏ ra lạnh lùng như trước và gật đầu vẻ lãnh đạm. “Bút tích của York, không nghi ngờ gì nữa.”

Conrad Hatter khom người xuống, nhìn hết thứ này sang thứ khác như thể chúng chưa được yên nghỉ. Rồi anh ta cũng lộ vẻ kích động trước thông điệp của người quá cố, anh ta lần mò trong túi áo rồi giơ ra mấy tờ giấy và khẽ nói:

“Vậy là bố tôi đã nuôi ý định tự sát. Tôi không nghĩ ông ấy có vấn đề thần kinh. Ông già lẩm cẩm…”

“Bút tích của ông ấy ư?” viên thanh tra bất ngờ ngắt lời. Chẳng rõ lý do gì khiến ngài đột ngột làm vậy.

Người con trai giao mấy tờ giấy cho Thumm. Viên Tranh tra chăm chú soi xét chúng với vẻ cau có. Sau khi liếc nhìn xác chồng và vật dụng thêm lần nữa, phu nhân Hatter chỉnh lại chiếc khăn quàng.

“Đây là bút tích của ông ấy, khớp rồi,” viên thanh tra lầm bầm. “Được rồi. Theo tôi thế là ổn.”

Miệng nói thế nhưng Thumm vẫn đút cả đống giấy này vào túi rồi liếc về phía tấm phản. Bác sĩ Merriam vừa thay cái mền mới. “Ông nói gì cơ bác sĩ? Ông thấy tình trạng thi thể chứ. Đó là York Hatter sao?”

“Vâng, đích thân tôi đã cắt ruột thừa cho ông ấy mười tám năm trước. Rồi một lần lấy sỏi mật nữa. Ca đó không nghiêm trọng lắm. Bác sĩ Robins của viện John Hopkins đã phẫu thuật… Đây đích xác là York Hatter.”

Phu nhân Hatter nói: “Conrad, thu xếp cho đám tang đi. Làm riêng tư thôi. Thông báo ngắn gọn cho báo chí. Không hoa hoét. Làm ngay đi.” Bà ta bắt đầu tiến về phía cửa. Thuyền trưởng Trivett dõi theo vẻ lo lắng không an tâm. Conrad Hatter thì thầm gì đó hình như là đã đồng thuận.

“Chờ chút, thưa phu nhân Hatter,” Thumm lên tiếng. Bà ta dừng bước và nhìn ông chằm chằm. “Xin đừng về vội. Tại sao chồng bà lại quyết định tự sát vậy?”

“Tôi xin nói, giờ…” Conrad khẽ cất giọng.

“Conrad!” Chỉ thế thôi là anh ta liền ngoan như cún luôn. Người phụ nữ già quay bước về phía viên thanh tra, sát gần đến mức ngài cảm nhận được làn hơi thở chanh chua từ bà ta. “Ngài còn muốn gì đây?” bà ta nói bằng một giọng cực gắt gỏng. “Ngài chưa thỏa mãn với việc chồng tôi tự sát sao?”

Thumm chỉ biết kinh ngạc. “Tại sao… à vâng. Tất nhiên rồi.”

“Thế thì chuyện này xong xuôi rồi. Tôi không muốn bị quấy rầy thêm nữa.” Rồi bà ta quay bước, gửi lại ngài thanh tra cái liếc xéo đầy ác ý. Thuyền trưởng Trivett tỏ ra nhẹ nhõm và nặng nề bước theo. Conrad thì nuốt nước bọt, mặt tái nhợt rồi cũng theo chân họ luôn. Đôi vai gầy của bác sĩ Merriam như rũ xuống thêm, sau đó ông ta cũng rời đi trong lặng lẽ.

“Chà, ngài đây,” bác sĩ Schilling lên tiếng khi cánh cửa sập lại, “đã biết vị thế của mình rồi chứ!” Ông ta cười thầm. “Trời đất, phụ nữ gì mà!” Rồi ông ta đẩy tấm phản vào trong hốc tường.

Thanh tra Thumm khẽ cằn nhằn bất lực và trút giận vào cánh cửa. Bên ngoài, một người đàn ông trẻ với đôi mắt sáng tóm lấy cánh tay ngài rồi họ cùng sánh bước. “Thanh tra! Xin chào, hân hạnh được gặp. Tôi được tin ngài đã tìm thấy xác của ngài Hatter, thế là sao nhỉ?”

“Mụ quỷ cái đó,” Thumm cằn nhằn.

“Vâng,” tay phóng viên hồ hởi đáp lời. “Tôi vừa thấy bà ta bước ra. Đúng là mặt sắt! Đanh như nắm đấm của Dempsey * … Nghe này, ngài thanh tra, ngài ở đây thì hẳn là có chuyện rồi, tôi đoán là có vấn đề gì đó phải không nào?”

“Chẳng có gì đâu. Bỏ tay tôi ra, đồ khỉ gió.”

“Sao mà phải khó chịu thế, ngài thanh tra thân mến… Tôi có nên nghi rằng có mưu toan cố ý nào đó chăng?”

Thumm ép chặt đôi tay vào trong túi áo và nhìn chằm chằm tay phóng viên. ”Nếu anh làm thế, tôi sẽ bẻ từng đốt xương trên người anh. Lũ sâu bọ các người không biết điểm dừng sao? Đó là một vụ tự sát, khốn kiếp!”

“Theo tôi thì ngài thanh tra đây đang bảo vệ cho…”

“Xéo đi! Nhận dạng trùng khớp, nói cho mà biết. Giờ thì biến mau, thằng trẻ ranh, đừng để tao phải tống tiễn mày đi.”

Ngài thanh tra bước nhanh ra khỏi khu nhà xác và vẫy một chiếc taxi. Tay phóng viên vẫn dõi theo với vẻ dò xét, nhưng nụ cười đã biến mất.

Một người đàn ông chạy tới từ đại lộ Thứ Hai, thở không ra hơi. “Này, Jack!” anh ta la lên. “Có gì mới về nhà Hatter không? Thấy mụ phù thủy già đó không?”

Tay phóng viên chỉ nhún vai, vẫn dõi theo chiếc taxi chở Thumm khi nó quành qua góc đường. “Có thể. Câu hỏi thứ hai - có, nhưng chỉ thế thôi. Dù sao thì đó cũng là một câu chuyện đặc sắc đáng theo dõi rồi…” Anh ta thở dài. “Chà, có phải giết người hay không đây, tôi chỉ dám nói là: Ơn trời vì cái nhà Hatter Điên loạn.”