← Quay lại trang sách

CẢNH 2 Nhà Hatter - Chủ Nhật, Ngày 10 Tháng Tư - 2:30 P.M

Nhà Hatter Điên loạn… Nhiều năm trước, trong thời kỳ đầy những tin tức bất thường về nhà Hatter, từ một nhân vật trong truyện Alice ở xứ sở diệu kỳ , một phóng viên với trí tưởng tượng phong phú đã gán cho họ cái biệt danh này. Có lẽ đó là mấy lời nói quá tai hại. Gia đình này đâu có điên khùng bằng một nửa cái nhân vật Hatter kia, cũng chẳng thú vị bằng một phần ti tỉ. Theo như lời mà những người hàng xóm trong khu Square khuất nẻo hay thì thầm với nhau, thì họ chẳng qua là “một gia đình ô trọc.” Và mặc dù là gia tộc lâu năm nhất nhì khu Square này, họ chưa bao giờ được coi là thuộc về nơi này; họ luôn nằm ngoài danh sách những thứ đáng trân trọng thuộc khu làng Greenwich * . Cái biệt danh đó lớn dần theo năm tháng. Tin tức thì lúc nào cũng nhắc đến một ai đó thuộc gia đình này. Nếu không phải là tay Conrad tóc vàng cố phá quấy một quầy rượu trong cơn say mèm, thì cũng là quý cô Barbara tỏa sáng khi tổ chức một buổi khiêu vũ côticông nên thơ, hay chủ trì một buổi đàm đạo dưới con mắt đầy ngưỡng mộ của những nhà phê bình văn học. Hay đó là Jill, người trẻ nhất trong ba đứa con nhà Hatter, xinh đẹp, hư đốn, với chiếc mũi chỉ thèm đánh hơi được rắc rối. Từng có chút tin đồn về việc cô ta dính vào ma túy; thi thoảng là chuyện ngồi lê đôi mách về buổi ăn chơi trác táng cuối tuần ở Adirondacks; và cứ đều đặn hai tuần một lần, không thể thiếu được việc tuyên bố rằng cô ta sẽ “đính hôn” với một cậu quý tử con đại gia nào đó… mà chẳng bao giờ là với một cậu trai nhà dòng dõi, ấy thế mới lạ.

Cả ba người bọn họ chẳng những là bản sao tốt, mà còn là những bản sao xấu từ cha mẹ. Tuy kỳ quặc, trác táng, lập dị, không thể đoán trước như thế nhưng chẳng người nào vượt qua được cái tiếng xấu lẫy lừng của bà mẹ. Với một tuổi xuân còn hoang đàng hơn cả cô con út Jill, bà ta đã bước vào tuổi trung niên như một kẻ độc đoán, chuyên quyền, không thể phản kháng, như một người mang họ Borgia * . Không có “động thái” nào qua nổi sự tinh tường của bà ta, chẳng có hoạt động thao túng thị trường nào quá rối rắm khó hiểu hay liều lĩnh với một kẻ khôn ngoan, hăng máu và thích đánh cược như bà ta. Đã nhiều lần có tin đồn rằng bà ta đã thua đậm trong đầu tư chứng khoán, rằng đống tài sản cá nhân kếch sù được thừa kế từ bao đời thị dân người Hà Lan giàu có lọc lõi, đã bốc hơi hết theo cái sự nghiệp đầu cơ của bà ta. Không một ai, thậm chí là đám luật sư, biết chính xác quy mô tài sản của bà ta. Khi đám báo lá cải đó chuyển sang chủ đề New York sau Thế chiến I, bà ta vẫn luôn được coi là “người đàn bà giàu nhất nước Mỹ” - một tuyên bố rõ ràng chẳng đúng, nhưng lời cáo buộc rằng bà ta đang ở bên bờ vực phá sản đến nơi rồi, cũng chỉ hoàn toàn là thêu dệt.

Sau tất cả những điều đó - gia đình, những vẻ vang cá nhân, đời tư, tiểu sử ghê gớm - thì người đàn bà mang tên Emily Hatter lại bỗng trở thành tâm điểm xì xào của cánh báo chí. Họ ghét bà ta, vì bà ta như một mụ phù thủy già chỉ biết gắt gỏng; nhưng họ lại cũng thích bà ta, vì như lời chủ bút của một tờ báo lớn, “Cứ liên quan tới phu nhân Hatter, thì đều là tin tức.”

Trước khi York Hatter đắm mình xuống làn nước lạnh giá của Vịnh Lower, đã có những đồn đoán vô căn cứ rằng thể nào cũng có ngày ông ta tự sát. Họ bảo York Hatter cũng chỉ là con người bằng xương bằng thịt thôi, ông ta sao có thể chịu đựng mãi được. Người mà gần bốn thập niên qua đã bị quất roi như chó săn và bị điều khiển như ngựa. Dưới miệng lưỡi thao túng của bà vợ, ông ta chỉ còn biết thu mình lại, chịu mất đi bản lĩnh đàn ông, trở thành một cái bóng vật vờ suốt cả ngày, đầu tiên là vì sợ, sau đó là vì tuyệt vọng, và cuối cùng là trong vô vọng. Bi kịch của ông ta ở chỗ, một con người bình thường với sự nhạy cảm và trí tuệ đã bị xiềng xích trong một môi trường đầy dục vọng, phi lý trí, cay độc, điên rồ.

Ông ta luôn bị coi là “chồng của Emily Hatter” - ít nhất là kể từ lễ cưới ba mươi bảy năm về trước, tại chính thành phố New York hoa lệ, khi những bức tượng sư tử đầu chim còn là món trang trí thời thượng và vải bọc ghế là những món phụ kiện không thể thiếu trong phòng khách. Từ ngày họ lui về căn nhà trên phố Washington Square - vốn là nhà của bà vợ, tất nhiên rồi - thì York Hatter đã biết thế nào là địa ngục. Hồi đó ông ta còn trẻ, và có lẽ từng vật lộn chống lại cái tinh thần đàn áp, những cơn thịnh nộ và quyền lực của bà vợ. Có lẽ ông ta đã khiến bà ta nhớ rằng mình từng li dị người chồng đầu tiên, Tom Campion Điềm tĩnh, trong hoàn cảnh khá là khó hiểu. Nghĩa rằng, với tất cả thiện ý, bà ta nợ ông, người chồng thứ hai, một chút ân tình và chút gia giảm của cái tư cách đạo đức loằng ngoằng từng làm cả New York phải choáng từ ngày bà ta nổi danh. Khi phản kháng, định mệnh của ông ta coi như đã an bài; về tay Emily Hatter, người không cho phép sự phản kháng nào chống lại những mệnh lệnh của mình, người không thể bị thao túng vô điều kiện. Định mệnh của ông ta được an bài và cái sự nghiệp xuất sắc đầy hứa hẹn cũng tiêu tan dần.

York Hatter là một nhà hóa học - trẻ tuổi, nghèo khó, một nhà khoa học tập sự - và là người cần mẫn phục vụ các nghiên cứu hòng tạo ra những điều thay đổi thế giới. Lúc lập gia đình, ông ta đang thử nghiệm những hợp chất keo dính, trong một hướng đi chưa từng có của nền hóa học thời kỳ cuối thế kỷ 19. Chất keo, sự nghiệp, danh tiếng đều tiêu tan dưới những đòn tấn công của bà vợ với tính cách quá ư hung hăng. Thời gian trôi đi, ông ta trở nên ngày càng ủ ê, cuối cùng là bằng lòng với việc chỉ biết lãng phí thời gian trong cái phòng thí nghiệm thay thế tầm thường mà Emily cho phép ông ta sử dụng khi ở nhà. Ông ta gần như biến thành một cái xác trống rỗng, kẻ phụ thuộc đáng thương hại vào mớ tài sản kếch sù của vợ (và bị nhắc nhở đều đặn về sự thật đó), một ông bố của đám con tính khí thất thường, nhưng chỉ dám cư xử với chúng không hơn gì một người giúp việc.

Barbara là người con lớn nhất trong nhà Hatter, và cũng là người thừa hưởng nhiều nhất dòng máu từ Emily. Một quý cô tuổi ba mươi sáu, dong dỏng, mảnh dẻ, tóc vàng nhạt, cô là đứa con duy nhất không để phí những tinh túy từ bà mẹ, người thể hiện một tâm hồn yêu mọi thứ sống động và một mối đồng cảm vô bờ bến với thiên nhiên khiến cô khác biệt với những kẻ còn lại. Trong ba đứa con nhà Hatter chỉ có mình cô là được thừa hưởng những tính tốt của người cha. Nhưng đồng thời cô cũng không thoát được cái tính dị thường di truyền từ người mẹ, như một thứ mùi hương khó chịu đeo đuổi cả cuộc đời, trừ việc tính dị thường của cô có xu hướng của một thiên tài và tự giải phóng thành thi ca. Cô đã được ví như nữ thi sĩ lỗi lạc nhất mọi thời đại - một nhà thơ vô chính phủ, người ta gọi thế trong những nhóm văn chương với thiện ý, một kẻ lãng du mang ngọn lửa của thần Prômêtê trong tâm hồn, một nhà trí thức với món quà tuyệt diệu từ nàng thơ. Một khi tác giả của vô số những vần thơ bí ẩn này tỏa sáng, cô ta hòa cùng nỗi buồn của mình, với cặp mắt xanh lịch duyệt của người dẫn đường chỉ lối cho giới trí thức New York.

Người em trai Barbara là Conrad không có chút năng khiếu nghệ thuật nào để bù đắp cho cái sự dị thường của mình. Anh ta chẳng khác nào phiên bản nam giới của bà mẹ, một gã Hatter hoang đàng điển hình. Anh ta là thành phần bất hảo của ba trường đại học, bỏ hết trường này đến trường khác sau những hành động hoang đàng liều lĩnh, ngu ngốc hết chỗ nói. Hai lần anh ta phải ra hầu tòa vì đã phá bỏ lời cam kết không tái phạm. Một lần anh ta lái xe quá tốc độ rồi đâm chết một khách bộ hành bằng chiếc xe mui trần và chỉ được trắng án nhờ những núi tiền hối lộ khẩn cấp từ đám luật sư của bà mẹ. Và còn vô số lần anh ta tìm cách trút cơn bực dọc lên những người phục vụ quầy bar hiền hòa lúc dòng máu lạ thường trong huyết quản phản ứng gay gắt với chất cồn, anh ta đã bị vỡ mũi (đã được phẫu thuật tạo hình lại cẩn thận), rạn xương cổ, rồi còn vô số vết khâu và thâm tím nữa.

Nhưng lại một lần nữa, anh ta gặp phải rào cản không gì lay chuyển nổi là ý chí của bà mẹ. Người đàn bà già này cứ thế tóm cổ anh ta lôi ra khỏi vũng bùn và sắp đặt để anh ta ngồi vào vị trí kinh doanh với một chàng trai trẻ điềm đạm, chu toàn, hết sức mẫu mực mang tên John Gormly. Điều đó không giữ Conrad tránh khỏi cám dỗ, anh ta vẫn thường ngựa quen đường cũ, để rồi lệ thuộc vào bàn tay kiên định của Gormly trong việc duy trì kinh doanh môi giới.

Đâu đó trong một khoảnh khắc tương đối điên rồ Conrad đã gặp và cưới một phụ nữ trẻ không may mắn. Hôn nhân, tất nhiên, không làm sự nghiệp ăn chơi của anh ta giảm sút. Người vợ tên Martha, một phụ nữ nhỏ bé nhu mì cùng tuổi với anh ta, đã sớm nhận ra mình bất hạnh đến nhường nào. Bị cưỡng bách phải sống trong ngôi nhà bị bà mẹ chồng thống trị, bị chồng xem thường và khinh miệt, khuôn mặt mang nét duyên ngầm của cô đã nhanh chóng mang vẻ hoang mang thường trực. Như York Hatter, người bố chồng, linh hồn cô ta coi như đã sa vào hỏa ngục. Martha tội nghiệp hẳn đã hy vọng kha khá khi quyết định kết hôn với người chồng phóng túng này; và chút an ủi đến từ hai đứa con, một đứa mười ba tuổi tên Jackie và một đứa bốn tuổi tên Billy… không phải là một niềm vui tuyệt đối, khi Jackie thì ương ngạnh, khó bảo, sớm tinh khôn, một đứa trẻ hung hăng với đầu óc tinh ranh và có thiên hướng hành động tàn nhẫn, là sự lo lắng liên miên của không chỉ bà mẹ mà còn của cả nhà Hatter. Đứa em, Billy, cũng bắt chước y hệt thế; điều đó đã biến cuộc sống trái ngang của Martha thành một cuộc chiến dữ dội để cứu chúng khỏi hư hỏng.

Về phần Jill Hatter… như Barbara đã nói: “Nó vĩnh viễn như một con chim non mới ra ràng. Chỉ biết sống cho thỏa ý mình, Jill là đứa con gái hư thân mất nết nhất mà tôi từng biết - càng tệ hơn khi nó chẳng xứng đáng với sự hứa hẹn đến từ đôi môi xinh và cái dáng điệu phóng đãng đó.” Jill mới hai mươi hai tuổi. “Nó là nữ thần Calypso * thiếu đi vẻ quyến rũ mê hoặc, một sinh vật hết mực ti tiện.” Cô ta đã ngủ với nhiều đàn ông. “Sống là phải viết hoa chữ S,” phương châm sống của cô ta luôn như thế. Tóm lại, Jill là một phiên bản tươi trẻ, chịu chơi hơn của bà mẹ.

Có người sẽ cho rằng gia đình này thế là đủ độ điên lắm rồi - một bà phù thủy già sắt đá làm chủ nhà, ông bố York hốc hác nhỏ bé có khuynh hướng tự tử, thiên tài Barbara, dân chơi Conrad, kẻ vô luân Jill, người sống trong sợ hãi Martha, hai đứa trẻ bất hạnh. Nhưng vẫn chưa hết. Gia đình này còn một người nữa, một người thật khác thường, thật thống khổ bi ai, đến nỗi những thành viên bất thường kia chỉ như người bình thường bên cạnh cô ta. Đó là Louisa.

Cô ta tự gọi mình là Louisa Campion vì cô ta là con gái của Emily nhưng cha ruột cô ta không phải là York Hatter mà là người chồng đầu tiên, Tom Campion. Cô ta đã bốn mươi tuổi, thấp người, hơi tròn trĩnh, vẻ như không hề bị tác động bởi cái trại thương điên quanh mình. Đời sống tinh thần của cô khá ổn, tính tình dễ chịu, nhẫn nại, không than phiền, một phụ nữ đức hạnh. Ấy thế mà, với những thành viên đầy tai tiếng nhà Hatter bao quanh, cô chẳng hề bị lu mờ mà lại trở thành người nổi danh nhất của gia đình này. Đến mức mà ngay từ khi chào đời tiếng tăm của cô ta đã nổi như cồn, và cái tiếng vọng đó thì cứ lẵng nhẵng bám theo cô ta suốt quãng đời tăm tối, lạ thường sau này.

Là con của Emily và Tom Campion, Louisa đến với thế giới trong nỗi tuyệt vọng khi vừa bị mù vừa bị câm, cộng với tình trạng điếc nhẹ mà các bác sĩ bảo rằng sẽ trở nên nặng hơn khi cô trưởng thành, và cuối cùng sẽ chuyển thành điếc đặc. Quả đúng như lời tiên đoán của các bác sĩ. Vào đúng sinh nhật thứ mười tám - với món quà từ các thần linh hắc ám, những kẻ như đang nắm giữ vận mệnh của cô - Louisa Campion đã nhận lấy sự phũ phàng cuối cùng của đời mình, thính giác của cô mất hoàn toàn.

Với một người chưa thực sự trưởng thành, việc đó hẳn đã để lại một vết thương chí tử. Trong suốt thời kỳ mà các cô gái khác tung tăng đến bên đời rực rỡ, Louisa tự cảm thấy như bị mắc kẹt trong thế giới đơn côi của chính cô, một thế giới vắng bóng âm thanh, hình ảnh, hay sắc màu; một thế giới không được và không thể biểu đạt. Thính giác, cây cầu vững chắc duy nhất nối với cuộc sống, đường cứu sinh phía sau cô, vậy mà đám thần linh hắc ám cũng thiêu trụi nốt. Không còn đường lui nữa, cô đối mặt với sự cự tuyệt, sự thiếu thốn, một cuộc đời cạn kiệt nguồn sống. Thiếu đi những giác quan chính kia, cô nào khác gì người chết đâu. Vẫn cố sống, nhút nhát, bối rối, tàn phế vô dụng, nhưng có gì đó cứng lại trong bản tính của Louisa - có lẽ đó là chút lợi lộc thừa kế từ bà mẹ dữ như quỷ - tôi luyện con người cô, để cô có thể đối mặt với cuộc đời vô vọng trong sự bình thản được sinh ra từ lòng can đảm đáng kinh ngạc. Nếu hiểu được sao mình phải chịu đau khổ như thế, Louisa cũng không bao giờ biểu lộ ra; và chắc chắn là quan hệ của cô với người phụ nữ sản sinh ra cảnh không may kia cũng như mọi mối quan hệ giữa mẹ và con gái khác.

Dễ thấy là tai họa của Louisa có nguyên nhân từ người mẹ. Có tin đồn khi cô sinh ra rằng cha cô, Tom Campion, là người chịu trách nhiệm; rằng có thứ gì đó xấu xa trong máu ông ta đã truyền sang đứa con. Nhưng khi Campion và Emily li dị rồi Emily đã tái giá chỉ để sinh ra những đứa trẻ nhà Hatter điên của riêng mình, mọi người đều tin chắc rằng lỗi lầm thuộc về bà mẹ. Điều này được củng cố bởi sự thật mà sau đó người ta mới nhận ra là Campion từng có một đứa con trai hoàn toàn bình thường trong cuộc hôn nhân trước đó. Cánh báo chí quên luôn Campion, ông ta chết vài năm sau khi li dị Emily trong hoàn cảnh bất thường; người con trai biến mất; và Emily, giữ được York Hatter bất hạnh cho trái tim mình, đưa đứa con gái tật nguyền của cuộc hôn nhân đầu đến ngôi nhà thừa kế từ tổ tiên ở khu Washington Square… ngôi nhà mà, sau một thế hệ đầy tai tiếng, được định sẵn sẽ bị nhấn chìm trong bi kịch, thứ bi kịch nhức nhối và đớn đau đến nỗi những gì đã xảy ra trước đó chỉ như một khúc dạo đầu nhạt nhẽo.

Vở kịch cay đắng bắt đầu khoảng hơn hai tháng sau khi xác chết của York Hatter được vớt trên vịnh. Nó bắt đầu một cách hết sức bình thường. Theo thông lệ, bà Arbuckle, người giúp việc và bếp núc của nhà Hatter, đang chuẩn bị món cocktail trứng sữa hằng ngày cho Louisa Campion sau bữa trưa. Đây là món được chuẩn bị theo yêu cầu của bà Emily; Louisa, ngoài chuyện có một trái tim khá yếu ớt, thì thể trạng khá tốt, và có thể nói là ở cái tuổi bốn mươi, phúng phình và mềm mại, cô không cần nhiều chất đạm khi ăn kiêng. Nhưng đâu thể chối từ sự nài nỉ của phu nhân Hatter; bà Arbuckle chỉ là người hầu, và luôn được nhắc nhở về sự thật đó; còn Louisa, người đủ mềm mỏng để bàn tay sắt của bà mẹ uốn nắn, chỉ còn biết hằng ngày cứ sau bữa trưa thì tự giác tới phòng ăn tầng dưới cùng để uống thứ đồ tinh túy của tình mẫu tử kia. Một thói quen lâu ngày, đủ quan trọng để sau này nó sẽ còn được nhắc lại. Bà Arbuckle, người không dám mơ về việc trái lời bà chủ dù chỉ một li, thì luôn đặt một cái ly cao ở góc tây nam bàn ăn, cách rìa bàn tầm năm phân - nơi mà Louisa luôn có thể sờ thấy, cầm lên, và uống cạn mỗi buổi chiều một cách không do dự, như thể cô có thể nhìn rõ.

Trong cái ngày xảy ra bi kịch, hay thật ra là gần như bi kịch, một Chủ nhật đẹp trời tháng Tư, mọi thứ đều diễn ra bình thường… cho đến khi có chuyện. Lúc 2 giờ 20, thanh tra Thumm sau đó đã cẩn thận xác định mốc thời gian - bà Arbuckle đang chuẩn bị pha đồ uống trong bếp ở đằng sau nhà (từ những thành phần mà bà ta miễn cưỡng trình ra trong cuộc điều tra của cảnh sát), tự mình mang nó trên chiếc khay quen thuộc tới phòng ăn, đặt nó xuống bàn ở góc tây nam, năm phần từ mép bàn, và - công việc thế là xong - rời khỏi phòng ăn để trở về bếp. Chẳng có ai khác, bà ta xác nhận, ở trong phòng khi bà bước vào, hay có ai đi vào khi bà đặt món cocktail xuống. Có vậy thôi, rõ như ban ngày.

Có chút khó khăn để xác định chính xác chuyện diễn ra sau đó; lời khai không hoàn toàn rõ ràng. Lúc đó quá náo động và chẳng ai nhận thức được một cách đủ khách quan để nắm bắt và chỉ rõ cái ấn tượng chính xác về vị trí, từ ngữ và những sự kiện. Lúc đó khoảng tầm 2 giờ 30, thanh tra Thumm cũng chưa hoàn toàn chắc chắn lắm, khi Louisa đi xuống lầu từ phòng ngủ cùng bà mẹ, hướng về phía phòng ăn và món cocktail trứng. Họ dừng lại ở ngưỡng cửa. Nữ sĩ Barbara Hatter, người theo họ xuống lầu, đi ngay đằng sau họ và quan sát; tại sao, thì sau đó cô ta cũng không thể giải thích, chỉ biết là cô ta có một cảm nhận mơ hồ rằng có gì đó sai sai ở đây. Cũng tại thời điểm đó, Martha, cô vợ nhỏ bé nhu mì của Conrad, mệt mỏi lê bước xuống sảnh, tiến ra từ đâu đó phía sau. Giọng nói thiếu sinh khí của cô ta cất lên: “Jackie đâu rồi? Thằng bé lại giẫm nát hết hoa trong vườn rồi.” Cô ta cũng dừng lại và lưỡng lự trong giây lát trước ngưỡng cửa. Trùng hợp thay, cả người thứ năm cũng nhìn vào phòng ăn, cặp mắt dán vào con người ở giữa. Đó là một thủy thủ già cụt một chân, thuyền trưởng Trivett, hàng xóm của nhà Hatter, người đồng hành cùng mẹ con Conrad trong hành trình buồn đến nhà xác để nhận dạng hai tháng trước đó. Trivett xuất hiện sau cánh cửa thứ hai dẫn vào phòng ăn - cánh cửa không dẫn ra hành lang chính mà nối với căn buồng cạnh phòng ăn, một thư viện.

Thứ mà mắt họ trông thấy chẳng lấy gì làm đặc biệt. Họ thấy, một mình trong căn phòng, là hình dáng nhỏ con của Jackie Hatter mười ba tuổi, con trai lớn của Martha. Thằng bé đang cầm ly cocktail trứng trong tay và quan sát nó. Cặp mắt sắc lẻm của Emily càng trở nên sắc hơn, bà ta mở miệng định nói gì đó. Chợt nhận ra mọi người quanh nó, Jackie cúi đầu vẻ có lỗi; khuôn mặt như của người lùn nhăn lại, cặp mắt ngỗ nghịch ánh lên vẻ tinh quái, rồi thằng bé đưa cái cốc lên miệng, nhanh chóng làm một ngụm đầy thứ chất lỏng mịn như kem đó.

Sự việc sau đó không rõ ràng. Ngay lập tức - lúc mà bà nội thằng bé lao về phía trước và tát đen đét vào tay nó, miệng thì la: “Mày biết đó là của bác Louisa, thằng nhãi láo toét! Đã bao lần bà bảo mày không được thó đồ của bác hả!” - Jackie buông rơi cái cốc, vẻ kinh ngạc cùng cực hiện lên trên khuôn mặt láu lỉnh hơi bất cần đời của nó. Cái cốc thủy tinh rơi xuống sàn vỡ tan, phần bên trong bắn tung tóe khắp sàn phòng ăn. Thế rồi, vừa vỗ đôi tay nhỏ như của người lùn vào miệng, thằng bé bắt đầu hét lên mà chẳng thành tiếng. Tất cả mọi người chỉ biết đứng ngây ra đó, rồi thì cũng nhận ra đây chẳng phải trò ăn vạ, mà là hậu quả của cơn đau đớn thật sự khủng khiếp. Thân thể gầy nhắng của Jackie bắt đầu giật mạnh, đôi tay co quắp lại, cậu bé gập người lại quằn quại, hơi thở khò khè, và khuôn mặt tái đi một cách dị thường. Cậu ta gục xuống sàn, trong khi vẫn rít lên. Một tiếng hét khác vang lên từ phía lối vào, Martha lao tới, mặt cắt không còn hạt máu, quỳ sụp xuống, kịp thấy được vẻ hãi hùng trên thân thể vẹo vọ của người con, trước khi lăn ra bất tỉnh.

Những tiếng hét khuấy động cả căn nhà: bà Arbuckle chạy bổ vào, và ông chồng George Arbuckle - người gia đinh kiêm tài xế; Virginia, cô hầu phòng già cao gầy xương xẩu; Conrad Hatter, trong bộ dạng lôi thôi và mặt vẫn đỏ gay từ những cuộc nhậu sớm Chủ nhật. Louisa, đứa con khiếm khuyết, bị bỏ quên; cô đứng bất lực trước cửa, nép sang một bên, lộ vẻ hoang mang. Dường như bằng giác quan thứ sáu, cô nhận ra rằng có gì đó bất thường, nên cô ngần ngại không tiến lên, chỉ đưa mũi ngửi để tìm bà mẹ, và bắt đầu giật lấy cánh tay bà ta một cách tuyệt vọng.

Không hổ danh là Emily Hatter, bà ta là người đầu tiên bình tĩnh lại trước sự cố cháu nội bị co giật và con dâu ngất lịm. Bà ta lao tới chỗ Jackie, xô thân thể bất tỉnh của Martha sang một bên, tóm lấy cổ đứa cháu - khuôn mặt cậu bé giờ đã chuyển sang tím tái - rồi ép cho cặp hàm cứng mở ra và nhét ngón tay xương xẩu xuống cuống họng. Cậu bé ọe một cái và nôn ra ngay tức thì.

Cặp mắt màu mã não sáng lên. “Arbuckle! Gọi cho bác sĩ Merriam ngay!” bà ta thét lên. George Arbuckle chạy vội ra khỏi phòng. Ánh mắt bà Hatter trở nên dữ dằn, không hề có động thái nào thừa khi bà ta lặp lại động tác cấp cứu, và cậu bé lại phản ứng lần nữa. Những người còn lại, trừ thuyền trưởng Trivett, dường như đều không dám cử động. Họ chỉ biết chưng hửng nhìn bà già và cậu bé đang quằn quại.

Nhưng thuyền trưởng Trivett, gật đầu tán đồng với cách xử trí lanh lẹ của bà Hatter, đã lê chân quanh phòng để tìm cái người mù câm điếc kia. Louisa cảm nhận được tay ông ta khẽ chạm vai mình, dường như nhận ra đó là ai, liền đưa tay nắm và bám chặt lấy

Phần quan trọng nhất của câu chuyện đang tiếp diễn mà chẳng được quan sát thấy. Khi không ai để ý, chú chó nhỏ tai đốm của Billy đã lần mò vào phòng ăn. Trông thấy chỗ cocktail trứng rơi rớt trên sàn, nó ẳng lên vui mừng và nhào tới, vục mũi xuống chỗ chất lỏng. Đột nhiên cô hầu Virginia bắt đầu hét lên. Cô ta chỉ tay vào con chó. Nó đang giãy giụa một cách yếu ớt trên sàn. Con chó rùng mình, co giật một chút. Rồi bốn cái chân lố bịch bắt đầu cứng lại. Phần bụng nó bỗng phồng lên dữ dội, và nó nằm im bất động. Rõ là con chó sẽ không thể liếm món đồ uống kia lần nữa.

Bác sĩ Merriam sống ngay gần đó, đã đến nơi chỉ sau năm phút. Mặc kệ đám người nhà Hatter đang chết đứng, ông ta chẳng thèm để mắt đến họ. Vị bác sĩ có thâm niên hẳn đã biết bệnh nhân của mình là ai. Ông ta quan sát con vật đã chết và cậu bé đang nôn ọe, cả người run rẩy, cặp môi mím chặt. “Lên gác ngay. Conrad, anh giúp tôi đưa thằng bé lên.” Khi bế Jackie lên và đưa cậu bé lên phòng, một ánh nhìn hãi hùng hiện lên trong cặp mắt giờ đã tỉnh rượu của Conrad. Theo ngay sau là bác sĩ Merriam, với túi thuốc đã mở sẵn.

Một cách máy móc, Barbara Hatter quỳ sụp xuống và bắt đầu xoa xoa đôi tay ẻo lả của Martha. Bà Hatter chẳng nói năng gì, những nếp nhăn trên khuôn mặt bà ta vẫn trơ như đá. Jill Hatter, với cặp mắt mang vẻ ngái ngủ, bước hối hả vào phòng trong bộ đồ kimono. “Có chuyện quái gì thế?” cô ta ngáp. “Ông bác sĩ lên gác cùng Connie và thằng quỷ…” Cặp mắt cô ta mở to ra và đột ngột ngừng lời: cô ta đã thấy xác con chó trên sàn, chỗ cocktail tung tóe và Martha đang bất tỉnh. “Sao lại…?” Chẳng ai để ý tới cô ta, chẳng ai thèm trả lời. Cô ta ngồi phịch xuống ghế, nhìn chòng chọc vào khuôn mặt tái nhợt của bà chị dâu.

Một phụ nữ trung tuổi cao lớn, to béo trong chiếc áo sơmi trắng bước vào - đó là bà Smith, Y tá của Louisa, sau này bà ta kể với thanh tra Thumm rằng khi đó bà ta đang đọc sách trong phòng mình trên gác. Bà ta nhìn qua là nắm được tình hình, và một nỗi sợ nào đó xâm chiếm toàn cơ thể. Người y tá nhìn từ Emily Hatter, người vẫn trơ như đá, đến Louisa, đang run lên bên cạnh thuyền trưởng Trivett. Rồi bà ta thở dài gạt Barbara sang một bên, quỳ xuống và chẳng hề câu nệ gì và bắt đầu chăm sóc cho người đang nằm ngất.

Chẳng ai nói được lời nào. Cùng với nhau, như thể bị tác động bởi cùng một lực đẩy, họ quay đầu và chú tâm đến bà y tá một cách đầy lo lắng. Nhưng khuôn mặt của bà Hatter có gì đó bí hiểm, bà ta quàng cánh tay quanh đôi vai đang run rẩy của Louisa và bắt đầu quan sát những động tác khéo léo của bà Smith với Martha mà không bộc lộ thái độ gì. Một lúc lâu sau họ mới chịu động đậy. Họ nghe được tiếng bước chân nặng nề của bác sĩ Merriam đang đi xuống lầu.

Ông ta chậm rãi bước vào, đặt túi xuống, nhìn qua Martha, giờ đang bắt đầu hồi tỉnh nhờ được bà Smith chăm sóc, khẽ gật đầu và quay sang bà Hatter. “Jackie đã qua cơn nguy hiểm rồi, thưa bà Hatter,” ông ta nói bằng giọng trầm tĩnh. “Nhờ bà cả đấy, xử trí thật tuyệt vời. Cậu bé đã không nuốt một lượng quá nhiều để gây tử vong, nhưng rõ ràng việc gây nôn tức thời đã giúp tránh được tác động trầm trọng. Cậu bé sẽ ổn thôi.”

Phu nhân Hatter gật đầu kiểu gia chủ, rồi bà ta giật mạnh đầu lại và nhìn thẳng vào vị bác sĩ bằng vẻ lạnh lùng như băng. Bà ta thấy được điều gì đó chẳng lành trong giọng nói của ông ta. Nhưng bác sĩ Merriam đã quay người đi và xem xét xác con chó, rồi ngửi thử thứ chất lỏng trên sàn, cuối cùng là lấy một ít bỏ vào lọ nhỏ trong túi, vặn chặt nút lại rồi cất nó đi. Ông ta đứng dậy và thì thầm gì đó với bà Smith. Bà ta gật đầu rồi rời khỏi phòng, họ có thể nghe thấy tiếng bước chân nặng nề đi lên gác tới phòng bọn trẻ, nơi Jackie đang nằm rên rỉ trên giường.

Rồi bác sĩ Merriam cúi xuống chỗ Martha, xem xét một lượt, điềm tĩnh trấn an cô ta - trong khi những người quanh đó vẫn lặng im như tờ - rồi người phụ nữ nhỏ bé hiền thục đó, với một biểu cảm lạ lùng rõ là chẳng hiền thục gì trên mặt, lảo đảo bước ra khỏi phòng ăn và theo chân bà y tá Smith lên gác. Cô ta băng qua người chồng trên đường đi lên, chẳng nói lấy một lời. Conrad chếnh choáng bước vào phòng và ngồi xuống. Như thể đang chờ sẵn hành động ấy, như thể sự đi vào của Conrad là một dấu hiệu, phu nhân Hatter đập cái ầm xuống bàn. Mọi người đều giật nảy mình, tất cả ngoại trừ Louisa, người dính chặt hơn vào khuỷu tay của bà mẹ. “Giờ thì!” bà ta bật khóc.

“Lạy trời, giờ chúng ta có thể tìm hiểu ngọn nguồn chuyện này. Bác sĩ Merriam, thứ gì trong ly cocktail đã làm con chó thành ra như thế?”

Bác sĩ Merriam lẩm bẩm: “Chất Strychnine .”

“Chất độc à? Tôi cũng nghĩ thế, nhìn con chó là biết.” Phu nhân Hatter dường như rướn cao hơn đến vài phân, bà ta gườm gườm nhìn toàn thể gia đình. “Ta sẽ tìm cho ra chuyện này, lũ quỷ vô ơn!” Barbara khẽ thở dài, cô ta đặt những ngón tay dài thanh tú lên phần lưng chiếc ghế và ngả người ra sau.

Bà mẹ gay gắt nói tiếp bằng giọng lạnh lùng. “Đó là thức uống của Louisa. Nó uống một ly như thế mỗi ngày, vào cùng một thời gian tại cùng một chỗ. Tất cả đều biết thế. Kẻ bỏ chất độc vào đồ uống giữa thời điểm Arbuckle đặt nó xuống chiếc bàn ăn và thời điểm thằng quỷ sứ kia bước vào và vồ lấy cái ly, hẳn đã biết rằng Louisa sẽ uống nó!”

“Mẹ,” Barbara lên tiếng, “thôi đi.”

“Yên nào! Thói háu ăn của Jackie đã cứu mạng Louisa và khiến nó suýt chết. Louisa tội nghiệp đã an toàn, nhưng sự thật vẫn còn đó là có người định đầu độc nó.” Phu nhân Hatter ôm chặt đứa con mù câm điếc vào lòng, Louisa chỉ biết khóc thút thít bằng những âm thanh chẳng rõ lời. “Mẹ đây, mẹ đây, con yêu,” bà mẹ già dỗ dành, như thể Louisa có thể nghe được, và khẽ vuốt mái tóc cô ta. Rồi giọng bà ta lại rít lên the thé. “Ai đã bỏ độc vào đồ uống?”

Jill khịt mũi. “Đừng làm quá như thế, mẹ.”

Conrad khẽ đáp lại: “Mẹ nói chẳng có lý gì cả. Làm gì có ai trong bọn con dám nghĩ tới…?”

“Ai? Tất cả bọn mày! Bọn mày ghét nó không để đâu cho hết! Lou khiếm khuyết tội nghiệp của mẹ…” Đôi tay bà ta siết chặt Louisa. “Sao đây?” bà ta gầm gừ, cả cơ thể già nua rung lên vì giận dữ. “Lên tiếng đi! Ai đã làm vậy?”

Bác sĩ Merriam lên tiếng: “Bà Hatter.”

Cơn thịnh nộ của bà ta liền tan biến ngay, thay bằng sự ngờ vực trong đáy mắt. “Khi tôi muốn ý kiến của ông, Merriam, tôi sẽ hỏi. Đừng xía vào chuyện này!”

“Chuyện đó,” bác sĩ Merriam lạnh nhạt đáp, “tôi e là không thể.”

Cặp mắt bà ta nheo lại. “Ý ông là sao cơ?”

“Nghĩa là,” bác sĩ trả lời, “bổn phận của tôi phải được ưu tiên. Đây là một hành vi tội ác, thưa bà Hatter, và tôi không có lựa chọn nào khác.” Ông ta chậm rãi bước tới góc phòng nơi có chiếc điện thoại nối dài đặt trong hộc.

Người phụ nữ già chưng hửng, khuôn mặt bà ta tái đi như Jackie vừa xong. Buông Louisa ra, bà ta lao tới và tóm lấy vai bác sĩ, bắt đầu lay ông ta dữ dội. “Không, ông không được phép!” bà ta la lớn. “Ôi, không, đồ trời đánh thánh vật kia! Ông định công khai ra sao? Thêm chuyện thiên hạ, thêm… Đừng đụng vào nó, Merriam! Tôi sẽ…”

Mặc kệ cho bà ta điên cuồng níu chặt lấy cánh tay mình, miệng thì không ngừng trút lên đầu ông những tiếng chửi rủa, bác sĩ Merriam vẫn bình tĩnh cầm lấy điện thoại. Và báo cho trụ sở cảnh sát.