← Quay lại trang sách

CẢNH 5 Phòng Thí Nghiệm - Chủ Nhật, Ngày 5 Tháng Sáu - 2:30 P.M

Bà Arbuckle, vẫn còn trong tâm trạng hung hăng, đã phục vụ thanh tra Thumm, công tố viên Bruno và Drury Lane một bữa trưa chẳng ra sao trong phòng ăn dưới gác. Bữa ăn trôi qua phần lớn trong sự im lặng và thấm đầy mùi u ám. Tâm trạng hiện giờ càng được nhấn mạnh khi đôi giày của bà Arbuckle lê bước nặng nề đi ra đi vào phòng ăn, và tiếng va chạm vụng về của các đĩa thức ăn trên bàn, được cô hầu gái gầy guộc Virginia bưng lên. Cuộc đối thoại diễn ra rời rạc. Có lúc bà Arbuckle là người dẫn chuyện, khi bà ta cay đắng phàn nàn lớn tiếng chẳng với ai cả, về sự lộn xộn trong nhà bếp… Có vẻ như nhiều quý ngài cảnh sát ở đằng sau ngôi nhà tỏ ra khó chịu cực độ. Nhưng thanh tra Thumm vẫn kiềm chế không phản ứng gì; ngài còn đang miệt mài nhai một miếng sườn dai nhách và một suy nghĩ còn khó nhằn hơn.

“Được rồi,” Bruno nói sau năm phút im lặng, và chẳng có mục đích cụ thể nào, “vậy hung thủ muốn sát hại Louisa là một phụ nữ - chúng ta coi đó là phụ nữ vì chuyện cái má khó mà thuyết phục hơn được nữa. Vụ giết bà mẹ là nằm ngoài dự tính. Sau khi thức giấc lúc hung thủ vào hạ độc, bà ta bị đập vào đầu trong cơn hoảng loạn của kẻ giết người. Nhưng là ai mới được? Tôi không thấy tia sáng le lói nào theo hướng đó cả.”

“Và cái vụ vani quái quỷ kia nghĩa là gì nữa?” Thumm gắt, buông bộ dao nĩa xuống trong sự phẫn nộ.

“Rồi… Kỳ lạ nhưng tôi có cảm giác rằng một khi chúng ta giải quyết được vấn đề đó, chúng ta có thể tiếp cận với sự thật.”

“Hừm,” Drury Lane nhai ngấu nghiến.

“Conrad Hatter.” Viên thanh tra lẩm bẩm. “Nếu không phải vì chuyện cái má…”

“Bỏ đi,” Bruno nói. “Ai đó đang cố gắng để gài anh ta.”

Một thám tử bước vào mang theo một phong bì dán kín. “Bác sĩ Schilling chỉ gửi mỗi cái này thôi, sếp.”

“À!” Lane thả dao nĩa xuống. “Bản báo cáo. Đọc to lên đi, thanh tra.”

Thumm xé mở phong bì. “Xem nào. Báo cáo về chất độc. Ông ấy viết:

Gửi Thumm: Quả lê hỏng chứa lượng thủy ngân clorua lỏng HgC12 nhiều hơn đáng kể mức có thể gây chết người. Chỉ cần cắn một miếng lê sẽ gây tử vong ngay.

Câu trả lời cho câu hỏi của ngài Lane: Không, chất độc không làm cho quả lê bị hỏng; quả lê đã ở trong tình trạng thối khi chất độc được tiêm. Hai quả lê còn lại không có độc.

Ống tiêm rỗng được tìm thấy trên giường chứa cùng loại chất độc. Tôi cho rằng, từ lượng chất độc được tìm thấy trong quả lê và từ lượng thể tích chất độc ước tính trong ống tiêm, quả lê đã bị đầu độc từ chính ống tiêm đó.

Có một sự khác biệt nhỏ; tôi nghĩ có thể tuyên bố rằng những dấu vết trên đôi giày trắng được gửi đến cũng là do chất độc. Những chỗ ố chính là thủy ngân clorua . Có lẽ vài giọt đã bị rớt và bắn lên mũi giày trong quá trình tiêm chất độc. Các vết bẩn còn mới.

Báo cáo khám nghiệm tử thi sẽ được đưa tới vào cuối đêm nay hoặc sáng mai. Nhưng từ việc kiểm tra sơ bộ, tôi chắc chắn kết quả khám nghiệm tử thi sẽ không có dấu hiệu nhiễm độc nào và sẽ xác nhận ý kiến ban đầu về nguyên nhân cái chết.

SCHILLING

“Tất cả đều được kiểm tra,” Thumm lẩm bẩm. “Thế đấy, chuyện đôi giày đã sáng tỏ và giả thuyết quả lê độc đã sáng tỏ. Thủy ngân clorua hả? Theo tôi thì… Chúng ta hãy qua phòng thí nghiệm thôi.”

Drury Lane bằng lòng với việc không phản ứng gì và giữ im lặng. Ba người họ bỏ lại chỗ cafe uống dở, kéo ghế về chỗ cũ, rồi rời phòng ăn. Khi ra ngoài họ gặp bà Arbuckle, mặt lạnh và nghiêm nghị, đang bê một cái khay, trên đó có một ly chất lỏng màu vàng kem. Lane nhìn đồng hồ đeo tay; lúc đó chính xác là hai rưỡi chiều.

Trên đường lên gác, Lane cầm lấy lá thư từ tay viên thanh tra và cẩn thận đọc nó. Ông đưa trả nó mà không bình luận gì.

Khu phòng ngủ thật yên tĩnh. Trong chốc lát họ đã đứng ở đầu cầu thang. Rồi cửa phòng bà Smith mở ra, người y tá đang dẫn đường cho Louisa - bất chấp bi kịch, bất chấp sự đổ vỡ của gia đình, người phụ nữ mù điếc câm này vẫn giữ thói quen cũ, hai người họ len qua ba người đàn ông để xuống cầu thang, hướng tới phòng ăn có món cocktail trứng hằng ngày. Không ai trong số ba người kia nói gì cả. Họ đã bố trí để Louisa ở lại và ngủ trong phòng bà Smith cho đến khi có thông báo mới… Thuyền trưởng Trivett và bác sĩ Merriam đã rời ngôi nhà từ lâu. Thân hình vạm vỡ của Mosher, cấp dưới của Thumm, đang đứng dựa vào bức tường của căn phòng chết. Lặng lẽ hút thuốc, nhưng Mosher vẫn đầy cảnh giác, có thể quan sát rõ những cánh cửa dẫn vào tất cả các phòng trên gác.

Thanh tra gọi với xuống dưới: “Pink!” Thám tử Pinkussohn liền chạy lên cầu thang. “Cậu và Mosher có nhiệm vụ canh trên này, rõ chưa? Thay phiên nhau. Không ai được phép đi vào căn phòng án mạng. Cũng không được làm phiền bất kỳ ai, mắt lúc nào cũng mở to ra.” Pinkussohn gật đầu và lại đi xuống cầu thang.

Viên thanh tra lôi từ trong túi áo ra một chiếc chìa khóa hiệu Yale. Đó là chiếc chìa khóa để mở phòng thí nghiệm của York Hatter mà ngài đã tìm thấy trong đống đồ của người đã chết. Thumm nâng nâng nó trong tay vẻ tư lự, rồi đi quanh cầu thang tới chỗ cánh cửa phòng thí nghiệm, theo sau là Bruno và Lane.

Thumm chưa mở khóa cửa ngay. Thay vào đó, ngài ngồi xổm và nheo mắt nhìn qua lỗ khóa nhỏ. Ngài càu nhàu, lấy một đoạn dây sắt nhỏ từ một trong những cái túi vô tận của mình, và đưa vào lỗ khóa. Luồn qua luồn lại, rồi bắt đầu xoay nó. Cuối cùng, vẻ hài lòng, ngài rút đoạn dây ra và kiểm tra: Nó sạch bong. Thumm đứng lên, cất đoạn dây đi, và tỏ ra bối rối. “Lạ thật,” ngài nói. “Tôi đã nghĩ thể nào chúng ta cũng tìm thấy vết sáp trong ổ khóa này cơ. Điều đó sẽ xác nhận giả thuyết là có người đã nhồi sáp vào trong lỗ khóa và đánh một cái chìa khác. Nhưng chẳng có tí sáp nào.”

“Cũng chẳng quan trọng lắm,” Bruno nói. “Có thể sáp đã được nhồi và ổ khóa thì sạch bong, hoặc có thể chiếc chìa khóa của bà Hatter đã bị hung thủ ‘mượn tạm’ để sao lại, rồi được đem trả lại mà bà ta chẳng hay biết. Dù là trường hợp nào, chúng ta sẽ không bao giờ biết, khi mà bà ta đã chết.”

“Thôi nào, thanh tra,” Lane sốt ruột nói. “Việc này chẳng dẫn chúng ta đến đâu cả. Mở cửa đi.”

Thumm nhét chìa khóa vào ổ. Nó vừa khít, nhưng ngài gặp khó khăn khi xoay nó; ổ khóa đã han gỉ, như thể không được sử dụng trong một thời gian dài. Ngài quệt một giọt mồ hôi trên chóp mũi và vặn mạnh. Cái ổ khóa đầu hàng bằng một tiếng két; có tiếng lách cách gì đó; rồi Thumm nắm lấy tay cầm của cánh cửa và đẩy. Có một tiếng rít phản đối, giống như ổ khóa - khớp bản lề cửa cũng gỉ sét hết rồi.

Khi cánh cửa bật mở, và Thumm chuẩn bị bước qua ngưỡng cửa, Lane giữ cánh tay viên thanh tra lại.

“Sao vậy?” Thumm thắc mắc.

Lane chỉ vào sàn nhà bên trong phòng. Mặt sàn là một lớp gỗ cứng không thảm, và được phủ chặt bằng một lớp bụi. Ông khom người và đưa ngón tay chạm dọc theo sàn nhà tạo thành một vệt mờ. “Không có dấu hiệu nào cho thấy lối vào này đã được hung thủ sử dụng, thanh tra à,” ông nói. “Lớp bụi không bị xáo trộn, và từ độ dày của nó thì hẳn phải nhiều tuần rồi.”

“Khi tôi vào đây hai tháng trước thì không phải như vậy - bụi chưa dày thế này đâu, thôi kệ đi,” Thumm khó chịu nói. “Không thể nhảy qua chỗ này được. Từ chỗ cửa đến khu vực bị xáo trộn trong kia phải đến gần hai mét. Lạ thật!”

Họ đứng cạnh nhau ở ngưỡng cửa và kiểm tra căn phòng mà không đi vào. Như viên thanh tra đã nói, toàn bộ phần không gian sau cửa chưa bị giẫm lên; bụi phủ như một lớp nhung xám. Tuy nhiên, cách đó gần hai mét, lớp bụi lại trong tình trạng lộn xộn. Có những dấu chân ở đó, và dẫn sâu vào trong phòng như họ có thể quan sát thấy. Nhưng bàn chân cũng rón rén nhất có thể để tránh tạo ra bất kỳ dấu vết rõ ràng nào. Trạng thái của lớp bụi rất đáng chú ý: có hàng trăm bước chân, rõ ràng luôn, nhưng chẳng có vết chân nào nhận dạng được!

“Thật cẩn thận, dù kẻ đó là ai,” Thumm nói. “Chờ chút. Tôi vẫn muốn xem xem có dấu chân nào không, quanh chỗ những cái bàn là vị trí có thể chụp ảnh.” Ông nặng nề bước vào, cứ thế đặt bàn chân cỡ 46 lên lớp bụi còn nguyên xi, rồi bất đầu dò xét quanh khu vực có dấu vết. Khuôn mặt ngài chuyển sắc xám khi nhìn kĩ vào những góc tối. “Đơn giản là không thể tin được!” Thumm càu nhàu. “Chẳng có lấy một dấu chân rõ ràng. Thôi, xin mời vào - chúng ta chẳng gây hại gì đâu.”

Bruno tò mò bước vào phòng thí nghiệm, nhưng Lane vẫn đứng trên ngưỡng cửa và quan sát căn phòng từ vị trí đó. Khung cửa ông đang đứng là lối duy nhất dẫn vào phòng. Căn phòng có kiến trúc tương tự như căn phòng chết bên cạnh, phía đằng đông. Hai cửa sổ, giống như cửa sổ căn phòng chết, nằm trên bức tường đối diện với bức tường hành lang, nhìn ra khu vườn đằng sau. Nhưng, không giống như cửa sổ của căn phòng liền kề, chúng được gắn những chấn song sắt to dày, khoảng cách giữa các chấn song không quá tám phân.

Giữa các cửa sổ có một chiếc giường sắt trắng, đơn giản và mộc mạc; có một tủ ngăn kéo nằm ở góc phòng tạo bởi bức tường phía tây và bức tường trông ra vườn, gần chỗ cửa sổ bên trái. Tất cả đồ đạc đều được xếp ngăn nắp, nhưng bụi bặm. Ngay bên phải cửa phòng là một bàn làm việc có kệ cao và trong góc là một tủ hồ sơ nhỏ bằng thép; còn bên trái là một tủ quần áo. Trên bức tường phía tây, chiếm hơn nửa không gian, Lane trông thấy những kệ đồ vững chắc đựng hàng đống chai lọ thủy tinh. Những kệ đồ này được kê trên một bệ đỡ là cái tủ sàn, và những cánh cửa thấp rộng của tủ sàn thì đều đóng kín. Vuông góc với những kệ đồ là hai bàn làm việc hình chữ nhật, bẩn thỉu và to lớn, đầy những bình cao cổ bụi bặm, giá đỡ ống nghiệm, đèn cồn Bunsen, vòi nước, dụng cụ điện được thiết kế lạ mắt - một bộ sưu tập các thiết bị hóa học mà ngay cả con mắt thiếu kinh nghiệm của Lane cũng thấy là rất đầy đủ. Hai cái bàn được đặt song song với nhau, không gian giữa chúng đủ rộng để cho phép nhà khoa học chỉ cần xoay mình là có thể làm việc được trên cả hai bàn.

Trên bức tường phía đông, nhìn thẳng sang từ phía những cái kệ và vuông góc với hai cái bàn là một lò sưởi lớn hệt như căn phòng bên cạnh. Và ở phía sau của phòng thí nghiệm, trên bức tường phía đông chỗ giữa giường và lò sưởi, là một cái bàn gỗ nhỏ gồ ghề đầy vết lõm và vết cháy bởi hóa chất. Dăm cái ghế xếp chỏng chơ; một cái ghế đẩu ba chân với chỗ ngồi xoay được đứng ngay trước chỗ cái tủ sàn nằm dưới những chiếc kệ.

Drury Lane bước vào, đóng cửa lại, và băng qua phòng. Ngoài khu vực hai mét còn nguyên bụi thì chỗ nào ông bước tới cũng có những dấu chân bị di lên. Hiển nhiên đã có người thường xuyên lui tới phòng thí nghiệm này kể từ khi York Hatter qua đời và thanh tra Thumm tiến hành cuộc điều tra đầu tiên ngay sau đó. Thậm chí còn rõ hơn nữa, từ trạng thái của bụi và việc chẳng có lấy dù chỉ một dấu chân rõ ràng, có thể thấy hung thủ đã cố tình xóa chúng đi bằng cách lấy chân di lên những dấu chân đó.

“Đây là kết quả của hơn một lần viếng thăm,” viên thanh tra nhận xét. “Nhưng sao cô ta vào trong được?” Ngài đi đến chỗ cửa sổ, nắm các chấn song, và kéo mạnh với tất cả sức lực. Chúng không lay chuyển, được gắn chắc vào tường. Thumm cẩn thận kiểm tra lớp xi măng và các chấn song, với hy vọng rằng vài thanh sẽ có dấu tích của việc đột nhập. Nhưng việc này cũng không có kết quả, rồi ngài đi kiểm tra bệ cửa và gờ tường bên ngoài cửa sổ. Tuy nhiên, phần gờ tường đủ rộng để cho phép một người nhanh nhẹn đi trên đó, lại không có dấu chân nào; cũng không có vết xáo trộn nào dù là nhỏ nhất của lớp bụi trên bệ cửa. Thumm chỉ còn biết lắc đầu. Ngài rời khỏi chỗ cửa sổ và bước tới lò sưởi, đứng trước - như phần còn lại của căn phòng - rất nhiều dấu chân bị di lên đang hiển hiện. Ngài trầm tư quan sát cái lò sưởi. Nó là lò sưởi thật, mặc dù trong tình trạng tương đối sạch sẽ. Ngài do dự, rồi gập đôi thân người đồ sộ lại và cúi xuống cho đầu vào bên trong lò sưởi. Lầm bầm gì đó vẻ hài lòng, Thumm nhanh chóng thò đầu ra.

“Có gì thế? Có gì trên đó à?” Bruno hỏi.

“Thật ngớ ngẩn khi không nghĩ ra chuyện đó từ trước!” viên thanh tra la lên. “Tại sao, người ta có thể trông thấy bầu trời khi nhìn lên ống khói mà! Còn có những mấu đinh cũ gắn vào gạch làm chỗ để chân mà - có lẽ là dấu tích của việc nạo ống khói. Tôi xin cá một đôla đây là con đường…” Khuôn mặt Thumm như rớt xuống.

“Để người phụ nữ kia vào phòng thí nghiệm, phải không thanh tra?” Lane khẽ hỏi. “Khuôn mặt ngài quá thành thật để giấu đi suy nghĩ. Ngài sắp sửa nói rằng nữ hung thủ giả định của chúng ta đã đột nhập vào phòng thông qua ống khói. Khá gượng gạo, thanh tra à. Tuy nhiên, cũng có thể một kẻ tòng phạm là nam giới đã sử dụng lối vào này.”

“Ngày nay phụ nữ có thể làm bất cứ điều gì như đàn ông,” Thumm đáp. “Tôi còn có ý này nữa. Có thể có hai hung thủ tham gia vụ này, giờ mới để ý.” Ngài nhìn chằm chằm Bruno. “Trời ạ, thế thì Conrad Hatter vẫn có thể là hung thủ! Louisa Campion có thể đã chạm vào một khuôn mặt phụ nữ, nhưng chính Conrad đã đập vào đầu bà Hatter và để lại những dấu chân!”

“Giả thuyết này,” vị công tố viên nói, “chính là những gì tôi đang nghĩ trong đầu, Thumm à, ngay khi ngài Lane ám chỉ về kẻ tòng phạm. Vâng, tôi nghĩ chúng ta đã có bước tiến mới…”

“Các quý ông,” Lane lên tiếng, “đừng có đặt lời vào miệng tôi đi mà. Tôi chưa ám chỉ gì sất. Tôi chỉ đưa ra một khả năng hợp lý. Mà thanh tra này, ống khói có đủ rộng để cho một người đàn ông trưởng thành leo xuống từ mái nhà không?”

“Ngài nghĩ tôi… nói thế thì hãy tự nhìn đi, ngài Lane. Ngài có què đâu,” Thumm nói bằng một giọng khó chịu.

“Thanh tra, tôi tin lời ngài.”

“Chắc chắn rồi, nó đủ rộng! Tôi đây còn leo được, và vai tôi thì chẳng phải hẹp như ngài nói.”

Lane gật đầu, và với một phong thái thảnh thơi dạo bước tới chỗ bức tường phía tây để xem xét những kệ đỡ. Có năm cái kệ, cái nọ nằm dưới cái kia; và mỗi cái thì được chia theo chiều ngang thành ba ngăn, tạo thành tổng cộng mười lăm ngăn cả thảy. Nhưng thế chưa phải là dấu hiệu duy nhất về đầu óc gọn gàng của York Hatter. Mọi chai lọ trên kệ đều có kích cỡ đồng đều, các chai có đường kính như các lọ, và đều có dán cùng một kiểu nhãn. Tên các hóa chất chứa bên trong được viết tay cẩn thận bằng mực không tẩy được lên các nhãn này, nhiều chai có thêm một miếng giấy màu đỏ đánh dấu CHẤT ĐỘC ; và bên cạnh tên của hóa chất và trong một số trường hợp ký hiệu hóa học của nó, trên mỗi nhãn thông tin còn ghi một con số.

“Một cái đầu ngăn nắp,” Lane nhận xét.

“Vâng,” Bruno nói, “nhưng chẳng nói lên điều gì cả.”

Lane nhún vai. “Có lẽ không.”

Khi xem xét kỹ lưỡng các kệ, có thể thấy rõ tất cả chỗ chai lọ đã được sắp xếp theo thứ tự đúng số, Chai số 1 đứng ở góc trái trên cùng, Chai số 2 bên cạnh số 1, Chai số 3 tiếp theo Chai số 2, và cứ như vậy. Các kệ đầy chặt - không có chỗ trống nào, hiển nhiên rồi, chúng chất đầy những thành phần hóa chất được bày ra phía trước. Mỗi một ngăn có hai mươi chai lọ, tổng cộng là ba trăm cả thảy.

“À há,” Lane nói. “Có thứ gì đó thú vị đây.” Ông chỉ vào một cái chai ở gần giữa ngăn đầu tiên của kệ thứ nhất. Trên nhãn ghi:

#9

C21H22N2O2

(STRYCHNIN)

CHẤT ĐỘC

Và có một nhãn đỏ đề: CHẤT ĐỘC . Chai này chứa những viên nén màu trắng của một hợp chất dạng tinh thể, và chỉ đầy có nửa chai. Nhưng bản thân cái chai không phải là thứ Lane quan tâm, mà là lớp bụi nằm dưới đáy chai. Lớp bụi đã bị xáo trộn, dường như chắc chắn rằng chai Strychnine này đã bị lấy khỏi kệ thời gian gần đây. “Có phải chất độc Strychnine trong món cocktail không?” Lane hỏi.

“Chắc rồi,” Thumm đáp. “Tôi đã kể chúng tôi tìm thấy Strychnine ở đây trong lần điều tra phòng thí nghiệm được tiến hành sau vụ đầu độc vài tháng trước đây.”

“Cái chai để chính xác như khi ta trông thấy nó hiện giờ?”

“Vâng.”

“Lớp bụi trên kệ chỗ cái chai được đặt cũng bị xáo trộn, như bây giờ?”

Thumm tiến về phía trước và nhăn mặt quan sát lớp bụi. “Vâng, vẫn như thế. Không quá bụi, nhưng đủ để khiến tôi ghi nhớ. Sau khi xem xét, tôi đã cẩn thận để cái chai về chỗ cũ, ở đúng vị trí tìm thấy nó.”

Lane quay về phía kệ. Đôi mắt ông chú ý vào cái kệ nằm ngay dưới kệ trên cùng. Trên phần mép dưới của cái kệ ngay bên dưới chai số 69, có một vết bẩn lạ hình oval, như hình một ngón tay bẩn hoặc bám bụi. Cái chai có nhãn ghi:

#69

HNO3

(AXIT NITRIC)

CHẤT ĐỘC

Và chứa một chất lỏng không màu.

“Lạ thật,” Lane tự nói với mình bằng một giọng ngạc nhiên. “Ngài có nhớ vết bẩn này nằm dưới chai axit nitric không, hả thanh tra?”

Thumm nheo mắt. “Vâng. Chắc chắn rồi. Nó đã ở đó hai tháng trước đây.”

“Hừm. Dấu vân tay trên chai axit nitric ?”

“Không thấy. Kẻ nào sử dụng nó đã đeo găng tay. Mặc dù thực tế là chúng tôi đã không tìm thấy dấu vết của axit nitric được sử dụng. Có lẽ Hatter đã dùng nó trong một thí nghiệm khi ông ta đang đeo găng tay cao su.”

“Thế thì,” Lane lãnh đạm nói, “không thể giải thích được vụ vết bẩn.” Ông lia mắt dọc theo dãy kệ.

“Còn thủy ngân clorua ?” Bruno hỏi. “Nếu chúng ta có thể tìm thấy nó ở đây cộng thêm báo cáo của Schilling rằng chất đó có trong quả lê…”

“Một phòng thí nghiệm phong phú, tôi phải nói thế,” Lane nhận xét. “Đây rồi, ngài Bruno.” Ông chỉ vào một cái chai trên cái kệ nằm giữa, hay thứ ba, nằm ở phần ngăn bên phải. Đó là cái chai thứ tám ở ngăn đó, trên nhãn ghi:

#168

THỦY NGÂN CLORUA

CHẤT ĐỘC

Cái chai không chứa đầy thứ chất độc lỏng đó. Trên kệ lớp bụi bám quanh vành chai đã bị xáo trộn. Thumm cầm lấy phần cổ cái chai và xem xét nó kĩ lưỡng. “Không có dấu vân tay. Lại găng tay nữa.” Ngài lắc chai, cau mày, và đặt nó về chỗ cũ. “Đây là nguồn gốc chất độc trong quả lê, được rồi. Quá tiện cho một kẻ hạ độc! Tất cả hung khí trên thế giới với tay là có liền.”

“Ừm,” Bruno nói. “Tên loại chất độc mà Schilling tìm thấy trong cơ thể của ông Hatter khi họ vớt ông ta lên khỏi vịnh Lower là gì ấy nhỉ?”

“ Axit Prussic ,” Lane trả lời. “Và nó đây.” Chất độc mà York Hatter đã nuốt ngay trước khi nhảy xuống biển nằm trong Chai số 57, trên kệ đầu tiên, ngăn bên phải. Như những chai đã xem khác, trên chai có ghi chữ CHẤT ĐỘC rõ ràng. Một lượng đáng kể chất lỏng không màu đã biến mất; và trên phần thủy tinh thanh tra Thumm thấy vài dấu vân tay. Lớp bụi chỗ cái chai được đặt chưa bị xáo trộn.

“Các dấu vân tay là của York Hatter. Chúng tôi đã kiểm tra chúng trong cuộc điều tra ban đầu về âm mưu hạ độc cô Campion trước đó.”

“Nhưng làm thế nào,” Lane ôn hòa hỏi, “mà các ngài lấy được mẫu vân tay của ông Hatter, hả thanh tra? Khi đó ông ta đã được chôn cất rồi, và tôi cũng không nghĩ các ngài lấy được dấu vân tay của ông ấy từ nhà xác.”

“Ông luôn thắc mắc đúng chỗ như vậy sao?” Thumm đáp bằng một nụ cười. “Không, chúng tôi không thể lấy dấu vân tay ông ta từ thi thể, vì phần ngón tay đã bị ăn cụt nên các đường xoắn mất hết. Chúng tôi đã đến đây và kiểm tra đồ đạc, tìm kiếm dấu tay. Chúng tôi tìm thấy rất nhiều dấu tay, sau đó đối chiếu với dấu tay trên chai axit prussic .”

“Trên đồ đạc ư?” Lane lẩm bẩm. “Hẳn vậy rồi. Tôi đã hỏi một câu ngu ngốc, thanh tra à.”

“Chắc chắn Hatter đã lấy một lọ nhỏ chất axit prussic này, hay axit hydrocyanic - như Schilling gọi - từ Chai số 57,” Bruno nói, “sau đó ra ngoài uống chất độc và lao xuống nước. Cái chai không được đụng vào kể từ đó.”

Dường như Drury bị những cái kệ cuốn hút. Ông cứ nhìn ngắm mãi không thôi. Ông lùi lại và quan sát cả mười lăm ngăn kệ một lúc lâu. Hai lần mắt ông dừng lại ở chỗ vết bẩn trên cạnh cái kệ đang để Chai số 69 - axit nitric . Ông tiến lại gần và đánh mắt dọc theo những mép kệ. Khuôn mặt ông nhanh chóng bừng sáng: có một vết bẩn hình oval khác, tương tự như cái đầu tiên, trên mép của cái kệ thứ hai, ngăn ở giữa, dưới Chai số 90, có ghi Axit Sulphuric . “Hai vết bẩn,” ông trầm ngâm nói, rồi một tia sáng mà trước đó chưa từng xuất hiện lóe lên trong đôi mắt màu xám xanh. “Thanh tra, vết bẩn thứ hai này có nằm ở đây trong lần đầu ngài kiểm tra phòng thí nghiệm không?”

“Vết đó ư?” Thumm chăm chú nhìn. “Không. Có vấn đề gì với nó à?”

“Tôi nghĩ thế này, thanh tra à,” Lane lãnh đạm đáp, “là bất cứ thứ gì nằm ở đây mà hai tháng trước chưa xuất hiện thì nên được quan tâm.” Ông cẩn thận nhấc cái chai khỏi vị trí, quan sát thấy vòng bụi bám quanh đế vẫn rõ nét và sắc cạnh. Đôi mắt ông ngay lập tức mở to, và niềm hân hoan biến khỏi khuôn mặt. Thay vào đó là sự lo nghĩ, một cái nhìn nghi ngờ, ông đứng đó do dự và lặng im một lúc, rồi nhún vai và quay đi. Ông tha thẩn trong phòng một lúc, vẻ muộn phiền, u sầu của ông nặng theo từng bước chân. Cái kệ như thể nam châm hút lấy ông, cuối cùng chẳng biết làm sao mà ông vẫn quay về chỗ chúng. Ông nhìn xuống chỗ cái tủ sàn mà năm cái kệ chia ngăn được đặt ở trên. Rồi ông mở hai cánh tủ rộng thấp và nhìn vào bên trong… Không có gì đáng quan tâm; thùng carton, hộp sắt, gói hóa chất, ống nghiệm, kệ đựng, máy làm lạnh mini, nhiều thiết bị điện các loại và vô vàn những đồ hóa chất linh tinh khác. Ông sập mạnh cửa tủ lại với một tiếng lẩm bẩm vì đã quá sốt ruột với sự thiếu chắc chắn của chính mình. Cuối cùng ông băng qua phòng tới chỗ cái bàn nắp cuộn ở gần cửa. Phần nắp đã được cuộn xuống, và ông thử mở ra. Nó bắt đầu cuộn lên. “Tới mà xem này, thanh tra,” ông nói.

Thumm khịt mũi. “Đã kiểm tra rồi, ngài Lane à. Chúng tôi mở nó ra và kiểm tra sau khi thi thể ông Hatter đã được tìm thấy ngoài khơi Sandy Hook. Chẳng có gì trong đó khiến chúng tôi phải chú ý trong vụ này. Nó chứa đầy giấy tờ cá nhân, tài liệu khoa học và sách vở, cùng một số ghi chú hóa học của ông Hatter - những thí nghiệm, tôi đoán vậy.”

Lane đẩy cái nắp lên và nhìn vào. Bên trong cái bàn là một mớ lộn xộn.

“Y như lần trước tôi thấy,” viên thanh tra nói.

Với một cái nhún vai, Lane đóng nắp bàn lại và đi đến chỗ tủ hồ sơ bằng thép. “Chỗ đó cũng được kiểm tra rồi,” Thumm kiên nhẫn nói; nhưng Lane vẫn kéo ngăn tủ bằng thép đã được mở sẵn ra, lục lọi cho đến khi tìm thấy một tờ danh mục nhỏ, được đặt gọn gàng phía sau những tập hồ sơ chứa đầy những giấy tờ của dữ liệu thực nghiệm.

“Ồ, vâng, cái ống tiêm,” vị công tố viên khẽ nói.

Lane gật đầu. “Danh mục ghi rằng có mười hai ống tiêm, ngài Bruno à. Tôi tự hỏi… Chúng đây rồi.” Ông buông tờ danh mục xuống và nắm lấy một cái hộp da lớn nằm ở sau ngăn kéo. Bruno và Thumm ngó qua vai ông. Trên phần nắp hộp là các chữ cái YH được mạ vàng. Bên trong, được xếp ngay ngắn trong những cái rãnh trên phần đáy phủ nhung tím, là mười một ống tiêm đủ kích cỡ. Có một rãnh trống rỗng.

“Chết tiệt,” Thumm nói, “Schilling cầm cái ống tiêm đó rồi.”

“Tôi không nghĩ rằng,” Lane nói, “việc đi lấy cái ống tiêm là cần thiết, thanh tra à. Ngài có nhớ số 6 trên ống tiêm mà chúng ta thấy trên giường của bà Hatter? Một ví dụ khác về đầu óc ngăn nắp của York Hatter.”

Ông lấy móng tay chạm vào cái rãnh rỗng. Tất cả các rãnh đều có một dải vải nhỏ màu đen, mỗi dải có in một con số màu trắng. Trên cái rãnh rỗng là số 6. “Và kích thước của cái rãnh,” Lane tiếp tục, “nếu tôi nhớ chính xác, phù hợp với kích thước của ống tiêm. Vâng, cái ống tiêm mà sau đó chứa đầy thủy ngân clorua được lấy ra từ chiếc hộp này. Và đây,” ông kết luận, khom lưng rồi vươn người dậy cầm một hộp da nhỏ, “nếu tôi không nhầm, thì chiếc hộp này chứa đầy kim tiêm. Vâng. Một cây kim bị mất, trong danh mục là mười tám cây kim, và chỉ có mười bảy cây ở đây. Chà!” Ông thở dài, đặt cả hai chiếc hộp trở lại ngăn kéo, rồi lục lọi các tập hồ sơ trong vẻ chán nán. Ghi chú, các thí nghiệm, dữ liệu ghi lại cho tương lai… Có một tập hồ sơ trong một ngăn riêng biệt hoàn toàn rỗng không.

Ông đóng ngăn kéo lại. Thumm, đâu đó phía sau ông, bỗng la lớn, và phản ứng tức thì của Bruno theo hướng mà viên thanh tra chỉ khiến Lane cũng nhanh chóng quay theo.

Thumm đang quỳ trên lớp bụi, gần như biến mất đằng sau một trong những cái bàn thí nghiệm nặng. “Có chuyện gì vậy?” Bruno hô lớn, khi ngài và Lane đi vòng qua cái bàn. “Tìm thấy gì ư?”

“Ừ,” Thumm trả lời, đứng lên, “trong khoảnh khắc nó trông giống như một bí ẩn, nhưng giờ thì hết rồi. Nhìn này!” Ánh mắt họ dõi theo ngón tay của Thumm, và họ thấy thứ đã khiến ngài phải thốt lên. Giữa hai cái bàn thí nghiệm, gần về phía lò sưởi hơn phía mấy cái kệ, có ba vết nhỏ hình tròn khá rõ hằn trên lớp bụi sàn nhà. Chúng xếp thành hình tam giác, cách đều nhau. Sau khi xem xét kỹ lưỡng hơn, Lane nhận thấy mấy chỗ đó cũng đầy bụi, nhưng chỉ là một màng mỏng so với lớp bụi dày đặc quanh họ. “Đơn giản. Lúc đầu tôi đã nghĩ có thể đó là thứ gì đó quan trọng. Nhưng chỉ là cái ghế đẩu thôi.”

“À, đúng rồi,” Lane đáp vẻ tư lự. “Tôi quên khuấy mất. Là cái ghế đẩu.”

Viên thanh tra nhấc cái ghế đẩu nhỏ ba chân được đặt trước mấy cái kệ lên khỏi mặt sàn, rồi đặt nó xuống sao cho mấy cái chân nằm chính xác lên mấy chỗ bám bụi. “Chuẩn rồi. Đơn giản vậy thôi. Ban đầu cái ghế đẩu được đặt ở đây, rồi được chuyển đi, chỉ thế thôi.”

“Chẳng có gì lạ hết,” Bruno thất vọng nói. “Chẳng có gì.”

Nhưng Lane có vẻ hài lòng bằng điệu bộ mờ ám, và ông nhìn chăm chăm vào vị trí đặt cái ghế, như thể ông đã kiểm tra nó từ khi còn đứng trước mấy cái kệ. Bản thân cái ghế cũng đầy bụi bặm, nhưng chỗ ngồi thì trầy xước và có đốm bẩn, bụi chỉ dính trên một số vị trí nhất định.

“Này thanh tra,” Lane khẽ nói. “Hai tháng trước khi ngài lục soát phòng thí nghiệm, thì cái ghế đẩu có được đặt ở vị trí giống bây giờ không? Ý tôi là, liệu nó có bị đụng chạm hay di chuyển kể từ lần điều tra đầu tiên?”

“Tôi biết thì chết liền.”

“Tôi cho rằng,” Lane nhẹ nhàng nói và quay đi, “thế là đủ rồi.”

“Tôi rất vui vì ngài đã hài lòng,” vị công tố viên gắt. “Tôi chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì cả.”

Drury Lane không trả lời. Ông lơ đãng bắt tay Bruno va Thumm, thì thầm điều gì đó về việc trở lại lâu đài Hamlet, rồi rời khỏi phòng thí nghiệm. Khuôn mặt ông mệt mỏi và vai rũ xuống một chút khi ông bước xuống cầu thang, lấy mũ và cây gậy từ tiền sảnh, rồi bước ra khỏi nhà.

Viên thanh tra lẩm bẩm: “Ông ấy cũng lao tâm khổ tứ với vụ này hệt như tôi.” Cho một thám tử lên mái nhà để bảo vệ lối vào ống khói, khóa cửa phòng thí nghiệm, nói lời chia tay với công tố viên Bruno (người rời khỏi nhà để trở về chốn văn phòng ồn ã trong bầu không khí vô vọng), rồi một mình đi xuống gác.

Thám tử Pinkussohn đang đứng ở tầng trệt múa may ngón tay cái vẻ thất vọng khi viên thanh tra đi xuống.