CẢNH 4 Phòng Ngủ Của Louisa. - Chủ Nhật, Ngày 5 Tháng Sáu - 12:50 P.M
“Ngài có thực sự nghĩ rằng…?” Công tố viên Bruno tỏ ra nghi ngại khi thanh tra Thumm cho dẫn giải Conrad Hatter, người đang bước đi như trong mơ, ra khỏi phòng dưới sự giám sát.
“Tôi sẽ không suy nghĩ gì nữa,” Thumm ngắt lời, “mà bắt tay vào hành động. Đôi giày này là bằng chứng khá thuyết phục, tôi thấy vậy!”
“À, thanh tra,” Drury Lane nói. Ông đi về phía trước và cầm lấy đôi giày vải trắng ố bẩn từ tay Thumm. “Cho tôi mượn.” Ông kiểm tra chúng. Đôi giày đã hỏng cả gót, cũ và mòn. Có một lỗ nhỏ ở đế giày bên trái. “Chiếc giày này có khớp với những dấu chân để lại trên tấm thảm?”
“Có chứ,” viên thanh tra cười tươi. “Khi Mosher nói với tôi những gì họ tìm thấy trong tủ quần áo của Hatter, tôi đã bảo họ kiểm tra rồi.”
“Nhưng rõ là,” Lane nói tiếp, “ngài không định coi thế là xong chuyện chứ?”
“Ý ngài là sao?” Thumm thắc mắc.
“À thì, thanh tra,” Lane đáp, trầm ngâm nhấc chiếc giày phải, “có lẽ theo tôi thì các ngài phải đưa chiếc giày này đi giám định.”
“Sao cơ? Giám định ư?”
“Nhìn đây.” Lane giơ chiếc giày phải lên. ở phía trước, trên mũi giày, có những vết bẩn lấm tấm, như bị dính một loại chất lỏng vậy.
“Hừm,” viên thanh tra lẩm bẩm. “Ngài nghĩ…?”
Lane cười đại lượng. “Tôi không nghĩ gì cả, thanh tra à, trong trường hợp này, tôi cũng chỉ đề nghị hành động thôi. Nếu là anh tôi sẽ gửi chiếc giày này cho bác sĩ Schilling ngay để giám định các vết bẩn. Nhiều khả năng đó là cùng một loại chất lỏng được đưa vào ống tiêm. Nếu như vậy…” Ông nhún vai. “Việc xác nhận rằng kẻ hạ độc đã mang đôi giày này, tôi e rằng trong trường hợp này sẽ gây bất lợi cho ông Hatter.”
Dường như có chút gì đó chế nhạo trong giọng nói của Lane, và Thumm nhìn ông vẻ gay gắt. Nhưng khuôn mặt Lane vẫn tỉnh bơ.
“Ngài Lane nói đúng,” Bruno đồng tình.
Viên thanh tra do dự, sau đó lấy đôi giày từ tay Lane, đi ra cửa, vẫy tay ra hiệu với một thám tử.
“Đưa cho bác sĩ Schilling. Pronto,” anh nói.
Viên thám tử gật đầu và mang đôi giày đi.
Vừa lúc đó thân hình mập mạp của bà Smith xuất hiện ở ngưỡng cửa. “Louisa giờ đã cảm thấy ổn hơn nhiều rồi, ngài thanh tra,” bà nói như rít lên. “Bác sĩ Merriam bảo các vị có thể thăm cô ấy. Cô ấy có điều muốn nói.”
Trên đường lên gác dẫn vào phòng ngủ của Louisa Campion, Bruno lẩm bẩm: “Cô ấy muốn kể chuyện quái gì với chúng ta đây?”
Thumm càu nhàu. “Chút suy nghĩ đáng nghi, tôi đoán thế. Sau rốt, cô ấy là một nhân chứng tệ hại. Vụ án trời ơi đất hỡi! Một vụ giết người với một nhân chứng sống, ơn trời, và cô ta vừa mù vừa câm vừa điếc. Cô ấy còn suýt chết đêm qua thì lời khai giúp ích được gì đây.”
“Tôi sẽ không quá chắc chắn về điều đó đâu, thanh tra,” Lane lẩm bẩm, nhanh chân bước lên cầu thang. “Cô Campion đâu có tàn phế hoàn toàn. Con người có tới năm giác quan mà.”
“Vâng, nhưng…” đôi môi Thumm khẽ rung động và Lane, người có thể đọc chúng, thấy buồn cười khi viên thanh tra liệt kê năm giác quan ra và bị lúng túng trong giây lát.
Bruno trầm ngâm: “Tất nhiên, có thể có manh mối gì đó. Nếu cô ấy có thể chỉ ra gã Conrad… Rốt cục, chí ít cô ấy cũng tỉnh táo trong khoảng thời gian gần khớp với thời điểm vụ án diễn ra - những dấu chân trần dính bột của cô ấy cho thấy như vậy - thậm chí từ vị trí cô ấy ngất đi và hướng quay của dấu chân hung thủ, thì có thể cô ấy đã chả…”
“Ý kiến tuyệt vời, ngài Bruno,” Lane đáp cụt lủn.
Trên hành lang từ đầu cầu thang, cánh cửa phòng ngủ giờ đã mở. Ba người bọn họ liền bước vào. Việc xác chết được đưa đi đã khiến căn phòng thay đổi, dù thực tế là những dấu chân trắng vẫn còn trên thảm và mớ ga giường vẫn nằm rúm ró. Không gian trở nên sáng sủa hơn; ánh mặt trời chiếu vào phòng, và các hạt bụi nhảy múa trong tia nắng. Louisa Campion ngồi trong một chiếc ghế bập bênh ở phía xa chiếc giường của mình, khuôn mặt cô trống rỗng như thường lệ, đầu nghiêng đi, tuy nhiên, theo một góc đặc biệt, như thể đang căng tai ra để nghe. Cô ta đung đưa chiếc ghế chầm chậm. Bác sĩ Merriam ở bên, bàn tay siết chặt sau lưng, nhìn ra ngoài cửa sổ xuống khu vườn bên dưới. Bà Smith đứng bên ô cửa sổ khác với một thái độ cẩn trọng. Và, chống người lên ghế của Louisa và khẽ vỗ má cô, là thuyền trưởng Trivett, người thủy thủ láng giềng, khuôn mặt đỏ râu ria nghiêm nghị đầy lo âu.
Họ đã nhận ra sự xuất hiện của ba người đàn ông; ngoại trừ Louisa, cô cũng dừng không đung đưa ghế ngay khi bàn tay nhăn gầy của Trivett thôi vỗ nhẹ khuôn mặt mình. Đầu Louisa theo bản năng ngoái về phía cửa ra vào; đôi mắt mù mở toang của cô vẫn vô cảm, nhưng một nét thông minh, gần như là háo hức, hiện lên trên khuôn mặt quá ư êm đềm, và các ngón tay của cô bắt đầu ngoe nguẩy.
“Xin chào, thuyền trưởng,” viên thanh tra nói. “Thật tiếc khi gặp lại ông trong hoàn cảnh này. Thuyền trưởng Trivett - công tố viên Bruno, ngài Lane.”
“Rất hân hạnh được gặp,” thuyền trưởng nói bằng chất giọng khàn của biển sâu. “Đây là điều khủng khiếp nhất tôi từng… tôi vừa được báo tin, và tôi qua để xem Louisa có ổn không.”
“Vâng, cô ấy ổn mà,” Thumm nói chân thành. “Cô ấy là một phụ nữ nhỏ bé can đảm.” Ngài vỗ nhẹ vào má cô. Cô co rúm người lại bằng phản xạ nhanh như chớp của một con côn trùng. Những ngón tay cô xoắn lại điên cuồng.
Người nào. Ai đấy ?
Bà Smith thở dài và cúi xuống bên cái bảng với những miếng như domino trong lòng của Louisa, xếp thành chữ: “Cảnh sát.”
Louisa từ từ gật đầu, và thân thể mềm mại của cô vững vàng hơn. Đã có những quầng thâm quanh mắt cô. Những ngón tay cô lại bắt đầu cử động.
Ý là tôi có chuyện muốn nói, có thể quan trọng đấy.
“Cô ấy tỏ vẻ nghiêm trọng,” Thumm thì thầm. Ngài xếp thành chữ trên tấm bảng: “Cô kể đi. Kể hết mọi chuyện. Dù ít dù nhiều cứ kể đi.”
Louisa Campion lại gật đầu khi những ngón tay lướt các dấu chấm kim loại, và một biểu hiện đáng ngạc nhiên của sự dứt khoát hiện trên môi cô. Cô giơ tay lên và bắt đầu.
Câu chuyện Louisa kể thông qua người trung gian là bà Smith như sau: Cô và bà Hatter đã lui về phòng ngủ của họ lúc mười rưỡi đêm hôm trước. Louisa thay đồ xong thì được mẹ đưa lên giường. Lưng cô đặt xuống giường lúc mười một giờ kém mười lăm; cô biết chính xác thời gian vì trước đó đã dùng tay hỏi mẹ mấy giờ rồi. Khi đó Louisa đang tựa người trên gối, đầu gối co lên để đỡ bộ chữ Braille bên trên, bà Hatter bảo với cô rằng muốn đi tắm. Louisa không giao tiếp gì với mẹ mình trong tầm bốn lăm đến sáu mươi phút sau đó, cô ước tính như vậy; cho tới lúc bà Hatter từ phòng tắm trở ra (cô đoán thế) và bắt đầu chuyện trò đôi chút với cô bằng bộ chữ Braille. Dù chỉ chuyện trò linh tinh - hai mẹ con bàn về quần áo mùa hè mới cho Louisa - cô đã cảm thấy không thoải mái…
(Lúc này Drury Lane nhẹ nhàng làm gián đoạn dòng chảy của câu chuyện bằng dòng chữ trên bảng: “Tại sao cô cảm thấy không thoải mái?”
Cô ta lắc đầu không yên vẻ thảm thương, và những ngón tay thì run rẩy.
Tôi không biết. Tôi chỉ cảm thấy vậy thôi.
Lane bóp nhẹ cánh tay Louisa để đáp lời.)
Suốt cuộc chuyện phiếm ngắn về tủ quần áo mùa hè dường như bà Hatter đã đi thoa phấn rôm, một hành động sau khi tắm xong. Louisa biết như vậy vì cô đã ngửi thấy mùi bột, thứ mà hai mẹ con cô đều sử dụng và luôn được đặt sẵn trên cái bàn đặt giữa hai chiếc giường. Rồi đến lượt bà Smith bước vào phòng ngủ. Cô biết, vì cô cảm thấy tay bà Smith trên trán mình, và vì bà Smith đã hỏi cô có muốn ăn trái cây không. Cô ra hiệu rằng không.
(Lane dừng câu chuyện của Louisa lại bằng cách nắm lấy bàn tay cô. “Bà Smith, khi bà bước vào phòng ngủ, bà Hatter vẫn đang thoa phấn ư?”
Bà Smith: “Không, thưa ngài, bà ấy vừa kết thúc, tôi nghĩ thế, vì bà chủ đã mặc áo ngủ rồi, còn hộp phấn thì đậy nắp hờ trên bàn, như tôi từng kể trước đây. Tôi có thấy những vệt phấn trên người bà ấy.”
Lane: “Bà có để ý thấy bột phấn rơi trên tấm thảm chỗ giữa phòng không?”
Bà Smith: “Tấm thảm sạch sẽ.”)
Louisa tiếp tục câu chuyện. Sau khi bà Smith rời đi được ít phút - Louisa không biết mốc thời gian chính xác - thì bà Hatter cũng đi ngủ, sau khi hôn và chúc cô con gái ngủ ngon theo lệ thường. Louisa chắc chắn rằng mẹ cô đã thực sự lên giường. Một lát sau, bằng một động cơ không thể giải thích, cô đã bò ra khỏi giường và hôn mẹ mình một lần nữa, bà mẹ vỗ nhẹ lên má cô trìu mến để cô yên lòng. Sau đó, Louisa trở lại giường mình và ngủ thiếp đi.
(Thanh tra Thumm ngắt lời: “Có phải tối qua mẹ cô đã nhắn nhủ rằng bà ấy đang sợ hãi điều gì đó không?”
Không. Mẹ tôi vẫn nhẹ nhàng và điềm tĩnh, như mọi khi vậy.
“Chuyện gì xảy ra sau đó?” Thumm hỏi tiếp.
Louisa rùng mình và tay cô bắt đầu run rẩy. Bác sĩ Merriam nhìn cô lo lắng. “Có lẽ ngài nên chờ một chút, thanh tra à. Cô ấy hơi khó chịu.”
Thuyền trưởng Trivett vỗ nhẹ vào đầu Louisa, và cô nhanh chóng vươn tay lên nắm lấy tay ông ta và siết chặt lấy. Người đàn ông già đỏ mặt, rồi một lúc sau thì rụt tay lại. Louisa có vẻ lại khuây khỏa, và vẫn đưa câu chuyện trở lại với những động tác tay mau lẹ và một cái miệng ú ớ ám chỉ sự căng thẳng cô phải chịu và quyết tâm sắt đá để tiếp tục.)
Giấc ngủ của cô chập chờn, cô vẫn thường ngủ kém, cả ngày lẫn đêm đều vậy. Cô không biết thời gian đã trôi qua bao lâu. Nhưng đột nhiên - hàng giờ sau đó, tất nhiên rồi - cô cảm thấy mình hoàn toàn tỉnh táo, sự tĩnh lặng như một tấm mềm bao trùm lên cô, nhưng các giác quan của cô thì căng ra hết cỡ. Điều gì đã đánh thức cô, chẳng biết nữa, nhưng cô biết rằng có gì đó sai sai ở đây, cô cảm thấy có gì đó là lạ trong phòng, rất gần, gần giường của cô…
(”Cụ thể hơn được không?” Công tố viên Bruno hỏi.
Những ngón tay Louisa khoa lên. Tôi không biết. Tôi không thể giải thích.
Bác sĩ Merriam vươn thân hình cao lớn dậy và thở dài. “Có lẽ tôi nên giải thích rằng thần kinh của Louisa hơi yếu, một sự phát triển tự nhiên từ tình trạng mất giác quan. Khả năng trực giác của cô ấy, một kiểu giác quan thứ sáu, luôn hoạt động một cách khác thường. Tôi tin đó là kết quả của việc các thị giác và thính giác hoàn toàn bị ngăn trở.”
“Tôi nghĩ chúng tôi hiểu,” Drury Lane nhẹ nhàng nói.
Bác sĩ Merriam gật đầu. “Chỉ cần một rung động, hay dư âm của một vật chuyển động, cảm giác tiếng bước chân là đủ để đánh động giác quan thứ sáu luôn cảnh giác của người phụ nữ bất hạnh này.”)
Con người mù câm điếc này vội phản ứng… Cô tỉnh hẳn người. Có người ở gần giường cô, mà đáng ra không được phép ở đó. Một lần nữa cô trải qua cảm xúc mơ hồ lạ lùng rất hiếm khi khuấy động cô - rằng cô khao khát được nói, được hét lên…
(Cô mở chiếc miệng xinh đẹp và phát ra một âm thanh ú ớ nghẹn ngào, hoàn toàn xa lạ với âm thanh thông thường mà con người phát ra, khiến tất cả họ đều đột nhiên cảm thấy ớn lạnh. Cảnh tượng một phụ nữ thấp bầu bĩnh, đang chìm trong trầm lặng, lại cất tiếng kêu gào méo mó như khi thú hoang sợ hãi, cảnh tượng ấy thật kinh khủng. Cô ngậm miệng lại và tiếp tục câu chuyện như thể không có chuyện gì xảy ra.)
Đương nhiên, cô nói tiếp, cô không thể nghe được gì, từ lúc sống trong thế giới không tiếng động suốt từ năm mười tám tuổi tới giờ; nhưng trực giác của cô thì không sai được. Và rồi, một cú đòn hữu hình đập vào những giác quan còn lại của cô, cô ngửi thấy mùi phấn rôm một lần nữa. Điều này rất lạ, bất ngờ, dường như thật vô lý, khiến cô cảm thấy hoảng sợ hơn nhiều lúc trước. Phấn rôm! Có thể là mẹ cô chăng? Chờ đã - không phải, cô biết đó không phải là mẹ mình; bản năng sợ hãi trỗi dậy bảo cô như thế. Đó là một ai khác - một người nguy hiểm.
Trong thời khắc quay cuồng ấy, cô đủ tỉnh táo để leo ra khỏi giường, để tránh càng xa mối đe dọa càng tốt. Bản năng chạy trốn bùng cháy trong cô…
(Lane nhẹ nhàng nắm những ngón tay Louisa. Cô dừng lại. Ông đến bên giường, giường của Louisa, và dễ dàng xác minh lại lời kể. Lò xo kêu lên cót két , ông gật đầu. “Có tiếng ồn,” ông nói. “Chắc chắn kẻ lạ mặt nghe thấy tiếng cô Campion ra khỏi giường.” Ông ấn vào tay Louisa để cô tiếp tục.)
Cô đã trườn mình về phía gần với giường mẹ cô. Đi chân trần trên thảm, cô len lỏi dọc theo thành giường về phía cuối giường. Gần đến nơi cô vươn thẳng người lên và duỗi tay ra.
Đột nhiên cô nhổm khỏi ghế, khuôn mặt nhăn nhó, và đi những bước đi chắc chắn quanh giường cô. Hiển nhiên cô đã nhận thấy rằng việc diễn tả bằng lời là chưa đủ, nên làm thêm động tác minh họa sẽ khiến câu chuyện trở nên rõ ràng hơn. Với vẻ thật trang nghiêm - giống như một đứa trẻ hăng say trong trò chơi - mặc nguyên quần áo, Louisa nằm xuống giường y như đêm hôm trước, rồi bắt đầu diễn lại những động tác không lời của mình vào đêm đó. Cô ngồi dậy lặng lẽ, một ánh nhìn rất tập trung trên khuôn mặt, đầu nghiêng hẳn sang một bên như muốn tập trung lắng nghe cho rõ. Rồi cô đưa đôi chân xuống sàn nhà, chiếc giường lò xo kẽo kẹt, trượt khỏi đó, và bắt đầu cong người xuống men dọc theo thành giường, một tay cảm nhận đường đi dọc theo chiếc đệm. Đến gần chỗ cuối giường thì cô đứng thẳng người lên, xoay lưng về phía giường mình và hướng mặt về phía giường bà mẹ, rồi chìa bàn tay phải ra…
(Tất cả họ dõi theo Louisa trong sự im lặng đến sững sờ. Cô đang sống lại thời điểm khủng khiếp ấy, sự căng thẳng và nỗi sợ hãi nào đó đang len lỏi vào họ thông qua hành động miệt mài không lời kia. Lane thấy khó thở; đôi mắt ông gần như khép lại, nhưng vẫn lấp lánh thấy rõ; chúng đang dán chặt vào Louisa…
Cánh tay phải của cô duỗi thẳng ra trước mặt, một động tác quen thuộc của người mù, thẳng đơ như một thanh thép và nằm song song chuẩn xác với sàn nhà. Ánh nhìn sắc bén của Lane dõi về một vị trí trên tấm thảm, ngay chỗ đầu ngón tay Louisa chỉ xuống.)
Louisa thở dài, thả lỏng, và thả phịch cánh tay xuống bên hông. Sau đó, cô bắt đầu nói chuyện tiếp bằng tay, bà Smith phiên dịch không ngừng nghỉ.
Khoảnh khắc Louisa giơ cánh tay phải ra, có gì đó lướt qua đầu ngón tay cô. Lướt qua - cô cảm thấy đó là một chiếc mũi và sau đó là một khuôn mặt… một bờ má, thực vậy, khi khuôn mặt đó chạy qua những ngón tay cứng đơ của cô.
(“Mũi và má!” viên thanh tra la lên. “Chúa ơi, thật may mắn! Đây, để tôi nói chuyện với cô ấy…”
Lane nói: “Này, thanh tra, chớ nên hớn hở vậy chứ. Nếu ngài cho phép, tôi muốn cô Campion đây lặp lại những gì cô ấy vừa minh họa cho chúng ta.”
Ông cầm bộ chữ và cho Louisa biết ông muốn gì. Cô khẽ đưa cánh tay qua trán, nhưng vẫn gật đầu và quay trở lại giường. Họ xem với vẻ chăm chú hơn lần trước.
Kết quả thật kỳ lạ. Trong mỗi cử động, mỗi góc nghiêng của đầu và cơ thể, mỗi cử chỉ của tay, lần minh họa thứ hai của cô là một sự lặp lại chính xác của lần đầu tiên!
”Ồ, tuyệt vời!” Lane lẩm bẩm. “Thật may mắn, các ngài ạ. Cũng như những người mù khác, cô Campion đây có một trí nhớ thấu niệm cho những chuyển động cơ thể. Nó sẽ giúp ích đáng kể đấy. Rất đáng kể.”
Họ chưa hiểu gì hết - cái gì giúp ích đáng kể cơ? Ông chẳng giải thích gì thêm, nhưng từ biểu hiện bất thường trên khuôn mặt mình, có thể thấy rõ rằng ông gần như đang chìm hẳn vào suy tư - điều gì đó đáng chú ý đến độ ngay cả người như ông, người được đào tạo suốt cuộc đời trong nhà hát để điều khiển cảm xúc khuôn mặt, cũng không thể che giấu phản ứng của mình trước khám phá trí tuệ này.
“Tôi chưa hiểu…” Công tố viên Bruno mở lời một cách khó khăn.
Nét mặt của Lane duỗi ra một cách kỳ diệu, và ông nói trơn tuột: “Chỉ e là tôi đã nói hơi quá. Làm ơn quan sát vị trí đứng của cô Campion kìa. Cô ấy đứng chính xác chỗ đã đứng đêm qua - đôi giày của cô ấy gần như khớp hẳn với dấu chân trần chỗ chân giường cô ấy. Chúng ta thấy gì ở vị trí ngược lại, đối diện với cô ấy? Các dấu giày khựng lại của hung thủ. Hiển nhiên, tên hung thủ đã đứng ở khu vực phủ đầy phấn rôm ngay lúc chạm vào ngón tay của cô Campion - nên chỗ này mới có hai dấu chân rõ ràng nhất, như thể hắn ta bị khựng lại ở đó khi cảm nhận được những ngón tay ma quái thò ra từ bóng tối.”
Thanh tra Thumm gãi gãi cái cằm rậm rạp. “Được rồi, nhưng thế thì có gì là tuyệt vời? Chẳng phải nãy giờ chúng ta vẫn hình dung như thế sao. Tôi chưa hiểu… Một giây trước dường như ông…”
“Tôi đề nghị,” Drury Lane nhanh chóng cắt lời, “để cô Campion tiếp tục.”
“Nào, nào, chờ một chút,” viên thanh tra đáp. “Đừng vội vã thế, ngài Lane. Tôi nghĩ tôi hiểu điều ông suy tính rồi.” Thumm quay sang Bruno. “Thấy không, Bruno, từ vị trí cánh tay của người phụ nữ khi cô ấy chạm vào má của hung thủ, chúng ta có thể xác định được chiều cao của kẻ giết người.” Viên thanh tra nhìn Lane vẻ đắc thắng.
Khuôn mặt của vị công tố viên tối lại. “Cũng hay đấy,” ngài sắc sảo đáp, “nếu làm được như thế. Nhưng chẳng được đâu.”
“Tại sao không?”
“Nào, nào, thưa các ngài,” Lane sốt ruột chen vào, “hãy tiếp…”
“Chờ chút thôi, ngài Lane,” Bruno lạnh lùng đáp. “Nhìn đây, Thumm. Ngài bảo rằng chúng ta có thể tái tạo lại chiều cao của hung thủ từ thực tế là cánh tay cô Campion đã dang ra và chạm vào má kẻ giết người. Vâng, chắc chắn rồi - nếu mà hắn ta đang đứng thẳng khi cô ấy chạm vào!”
“Chà, nhưng…”
“Nhưng vấn đề ở đây là,” Bruno nhanh chóng nói tiếp, “chúng ta có lý do để cho rằng hung thủ khó có khả năng đứng thẳng, mà đang cúi mình khi cô Campion chạm vào. Từ các dấu chân để lại, có thể thấy rõ là hắn ta vừa mới từ chỗ đầu giường của bà Hatter rời đi sau khi giết bà ấy và đang lần mò ra khỏi phòng. Hẳn là hắn ta đã nghe thấy, như ngài Lane đã chỉ ra, những tiếng ọp ẹp từ giường cô Campion. Do đó, hắn ta sẽ khẩn trương hành động theo bản năng là ngay lập tức cúi xuống, co mình lại.” Ngài khẽ cười. “Vậy nên thế chưa ổn đâu, Thumm. Sao ngài có thể xác định được tên hung thủ đã co người lại chừng nào? Ngài phải biết chính xác điều đó trước khi luận ra chiều cao của hắn ta.”
“Được rồi, được rồi,” Thumm nói, mặt đỏ bừng. “Đừng gây khó khăn nữa.” Viên thanh tra chua chát nhìn về phía Lane. “Nhưng như tôi thấy thì ngài Lane đây đã bị ý tưởng nào đó nặng như cả tấn gạch rơi trúng. Nếu không phải chuyện chiều cao hung thủ thì là chuyện quái gì đây?”
“Ái chà, ngài thanh tra,” Lane khẽ nói, “ngài tâng bốc tôi quá thể đấy. Thực sự tôi đã khiến ngài cảm thấy vậy sao?” Ông siết chặt cánh tay Louisa, và cô liền tiếp tục với câu chuyện của mình.)
Nhiều điều đã xảy ra trong một khoảng khắc chớp nhoáng. Cú sốc, một cơ thể trần trụi hiện ra từ bóng tối vĩnh cửu, hiện thực sờ thấy được của những nỗi sợ hãi vô hình, làm cô ngất đi. Cô khiếp hãi nhận ra rằng các giác quan đã bỏ rơi cô, và cô cảm thấy đầu gối mình khuỵu mạnh xuống. Cô vẫn còn một chút ý thức khi gục xuống; nhưng lực rơi dường như mạnh hơn cô hình dung, đầu cô đập vào sàn cứng và cô chẳng nhớ gì nữa cho đến khi được cấp cứu vào sáng sớm…
Những ngón tay cô bất động, hai tay rũ xuống, và với đôi vai chùng xuống, cô quay trở lại chiếc ghế bập bênh. Thuyền trưởng Trivett một lần nữa vỗ nhẹ lên má cô. Cô tựa má vào bàn tay ấy, vẻ mệt mỏi.
Drury Lane quan sát hai người bạn đồng hành bằng vẻ dò hỏi. Cả hai đều tỏ ra bối rối. Ông thở dài và đi đến chỗ Louisa. “Cô đã bỏ sót điều gì đó. Cái má mà ngón tay cô chạm vào như thế nào?”
Hình như có một sự ngạc nhiên làm tan biến vẻ mệt mỏi của Louisa trong khoảnh khắc. Họ đọc được trên nét mặt cô, rõ ràng như thể cô ta nói được: “Tại sao, tôi đã kể rồi mà, phải không?” Rồi những ngón tay Louisa khua lên, và bà Smith dịch ra bằng giọng run run: Đó là một cái má mềm mịn.
Nếu có một quả bom phát nổ phía sau, thanh tra Thumm cũng không thể kinh ngạc hơn được nữa. Cặp hàm lớn của ngài há hốc ra, còn đôi mắt thì dán vào những ngón tay bất động của Louisa Campion như thể ngài không tin nổi vào mắt mình, hay đôi tai mình. Công tố viên Bruno vẫn nhìn chằm chằm vào bà y tá vẻ đầy hoài nghi.
“Bà có chắc chắn không, bà Smith, rằng đã dịch chính xác?” Bruno khó khăn mở lời.
”Đó đúng là những gì cô ấy nói, thưa ngài,” bà Smith bồn chồn đáp.
Thanh tra Thumm lắc đầu như một võ sĩ quyền Anh rũ bỏ dư chấn của một cú đòn mạnh - phản ứng quen thuộc của ngài khi ngạc nhiên - và nhìn chằm chằm vào Louisa. “Mềm và mịn,” ngài kêu lên. “Không thể nào. Tại sao, má của Conrad Hatter…”
“Tức là đó không phải má của Conrad Hatter,” Drury Lane nhẹ nhàng nói. “Sao cứ phải khư khư giữ thành kiến như vậy? Rốt cục, nếu lời khai của cô Campion là đáng tin cậy, chúng ta phải sắp xếp lại dữ kiện. Chúng ta biết rằng hung thủ đi đôi giày của Conrad tối qua, nhưng chỉ như thế thôi mà đi đến kết luận, như ngài và Bruno đã làm, rằng đó là giày của Hatter tức là Hatter đã đeo chúng, thì là sai lầm rồi.”
“Ông nói hoàn toàn đúng, như thường lệ,” Bruno lẩm bẩm. “Thumm…”
Nhưng Thumm, với bản tính kiên cường của mình, từ chối loại bỏ cái giả thuyết quá ư dễ dàng kia. Ngài nghiến răng và gắt lên với bà Smith: “Lấy bộ chữ và hỏi lại cô ấy cho chắc, và chi tiết về sự mềm mịn. Làm đi!”
Bà Smith tỏ vẻ sợ hãi, liền vâng lời ngay. Louisa hăm hở lướt những ngón tay lên tấm bảng. Cô gật đầu ngay tức khắc, và đôi tay cô lại khua lên lần nữa. Một bờ má rất mềm mịn. Tôi không nhầm đâu.
“Chà, cô ta có vẻ chắc lắm,” viên thanh tra lẩm bẩm. “Hãy hỏi cô ấy, bà y tá, xem đó có thể là bờ má của người em Conrad không.”
Không. Không thể. Đó không phải là má đàn ông, tôi chắc chắn.
“Được rồi,” Thumm nói. “Mọi việc an bài. Rốt cục, chúng ta phải tin lời cô ấy thôi. Vậy hung thủ không phải là Conrad, cũng chẳng phải là đàn ông. Thế thì là một phụ nữ, ơn trời. Ít ra chúng ta cũng hiểu được điều đó!”
“Cô ta hẳn phải đi đôi giày của Conrad Hatter nhằm để lại dấu vết giả,” Bruno nhận xét. “Có nghĩa việc lọ bột bị đánh đổ ra thảm là có chủ ý. Dù là ai, kẻ đó cũng biết đôi giày sẽ để lại dấu vết, cũng như việc chúng ta sẽ tìm kiếm đối giày nào khớp với chúng.”
“Ngài có nghĩ vậy không, Bruno?” Lane hỏi. Vị công tố viên cau mày. “Không, tôi không phải người khôi hài hay thông minh,” Lane nói tiếp bằng giọng lo lắng. “Có điều gì đó hết sức phi lý về tất cả chuyện này.”
“Phi lý thế nào cơ?” Thumm thắc mắc. Bài toán dễ hiểu mà, như Bruno đã giải thích nó, với tôi thì là thế.”
“Không dễ hiểu đâu, thanh tra à, tôi mạn phép được nói vậy, và còn lâu mới có đáp án.” Lane thao tác với bộ chữ kim loại Braille, xếp thành một thông điệp: ”Có thể nào cô đã sờ thấy chính má của mẹ cô không?”
Câu trả lời phủ định hiện lên: Không. Không. Không. Mặt mẹ tôi có nếp nhăn cơ. Nếp nhăn. Đằng này lại mịn màng. Mịn màng.
Lane cười rầu rĩ. Có cảm giác rằng mọi điều mà con người đáng kinh ngạc này truyền đạt đều là sự thật không thể chối cãi. Thumm sải những bước dài đi qua đi lại trên sàn, còn Bruno thì chìm vào trầm tư. Thuyền trưởng Trivett, bác sĩ Merriam, bà Smith chỉ biết lặng thinh đứng đó. Khuôn mặt Lane lộ vẻ cương quyết, ông sắp xếp lại bộ chữ một lần nữa. “Nghĩ kĩ đi. Cô còn nhớ bất cứ điều gì, điều gì khác ấy?”
Louisa ngập ngừng khi đọc được dòng chữ, rồi ngả đầu tựa vào lưng ghế. Đầu cô lúc lắc từ bên này sang bên kia - một sự phủ định chậm chạp và miễn cưỡng, như thể có điều gì đó sắp nhớ ra mà mãi không nhớ được.
“Có điều gì đó,” Lane lẩm bẩm với vẻ phấn khích, khi ông quan sát khuôn mặt trống rỗng.“Nó cần được gợi lại!”
“Nhưng để làm gì hở trời?” Thumm kêu lên. “Chúng đã biết đủ để có thể hi vọng rằng…”
“Không,” Lane nói. “Chưa đủ đâu.” Ông dừng lại, rồi chậm rãi tiếp tục: “Chúng ta đang làm việc với một nhân chứng sống có hai trong số ba giác quan bị khiếm khuyết. Cách duy nhất để cô ấy giao tiếp với thế giới bên ngoài là vị giác, xúc giác, và khứu giác. Bất kỳ phản ứng nào của cô ấy thể hiện qua ba giác quan còn lại này đều là những manh mối khả dĩ nhất của chúng ta.”
“Tôi chưa từng nghĩ về nó theo cách đó,” Bruno trầm ngâm nói. “Và đúng là cô ấy đã cung cấp một đầu mối thông qua xúc giác. Có lẽ…”
“Chính xác, ngài Bruno. Việc hi vọng về một đầu mối từ vị giác của cô ấy thì tất nhiên là vô ích. Nhưng khứu giác! Chúng ta có mọi lý do để tin tưởng… Nếu cô ấy là một loài vật, như chó chẳng hạn, với khả năng truyền đạt lại cảm giác, thì việc này sẽ đơn giản làm sao! Tuy nhiên trường hợp lạ lùng như vậy vẫn tồn tại chứ. Dây thần kinh khứu giác của cô ấy chắc rất nhạy cảm…”
“Đúng thế,” bác sĩ Merriam hạ giọng nói, “hoàn toàn chính xác, thưa ngài Lane. Đã có rất nhiều tranh luận trong ngành y tế về chuyện bù đắp giác quan. Nhưng Louisa Campion là một trường hợp đáng để tranh luận. Các dây thần kinh ở đầu ngón tay của cô ấy, cơ quan khứu giác trong mũi cô ấy rất phát triển.”
“Tuyệt vời,” viên thanh tra nói, “nhưng tôi…”
“Kiên nhẫn đi,” Lane đáp. “Chúng ta có thể sắp gặp điều gì đó phi thường đấy. Chúng ta đang bàn về khứu giác. Louisa đã ngửi được mùi phấn rôm khi nó bị đổ - chắc chắn đó không phải là một sự nhạy cảm thông thường. Đó gần như có thể…” Ông cúi nhanh xuống và sắp xếp lại các miếng kim loại trên bảng chữ nổi Braille. “Mùi hương. Cô có ngửi thấy gì khác ngoài mùi bột phấn? Hãy nghĩ đi. Mùi hương.”
Chậm rãi, khi những ngón tay Louisa lướt qua các dấu chấm trên bảng, điều gì đó vừa hân hoan vừa bối rối hiện lên trên khuôn mặt cô, và hai lỗ mũi cô mở to ra. Cô đang vật lộn với một ký ức đã rõ ràng; ký ức đó đang hiện dần lên… Rồi ánh sáng bừng lên trong cô, và cô lại thốt ra một tiếng kêu rộn ràng theo bản năng, nó dường như được vỡ òa khi cô thức tỉnh. Những ngón tay cô khẽ cử động.
Bà Smith chỉ biết há mốc miệng khi nhìn vào ngón tay ra ký hiệu ấy. “Thật khó để tin cô ấy nhận thức được mình đang nói điều gì…”
“Gì cơ?” Bruno háo hức thốt lên đến chói tai.
“Tại sao, các ông có biết,” người y tá tiếp tục với vẻ sững sờ trong lời nói, “cô ấy nói rằng ngay khi chạm vào khuôn mặt ấy, và khi ngã ngất đi, cô ấy ngửi thấy mùi…”
“Tiếp đi!” Drury Lane la lên, đôi mắt ông lấp lánh, dán vào cặp môi dày của bà Smith khi bà ta ngừng lại. “Cô ấy đã ngửi thấy mùi gì?”
Bà Smith cười một cách lo lắng. “Vâng, mùi gì đó giống như mùi kem, hay bánh!”
Trong một khoảnh khắc họ nhìn chằm chằm vào người y tá, và bà ta cũng nhìn lại. Ngay cả bác sĩ Merriam và thuyền trưởng Trivett cũng tỏ vẻ kinh ngạc. Thì thầm không thành tiếng, Bruno lặp lại những từ đó như thể ngài không tin vào tai mình. Còn khuôn mặt Thumm thì cau có đến kinh khủng.
Nụ cười trong căng thẳng biến khỏi khuôn mặt của Lane. Rõ là ông đang bối rối. “Mùi kem hay bánh,” ông chậm rãi nhắc lại. “Lạ thật, rất kỳ lạ.”
Viên thanh tra đột ngột cười như điên. “Thế đấy,” ngài nói. “Không chỉ mù câm điếc, ơn trời, mà cô ta còn thừa hưởng sự điên rồ của gia đình này nữa. Mùi kem hay bánh! Địa ngục và sự nguyền rủa. Đây là một trò hề.”
“Từ từ đã… Có thể nó không điên rồ như ta tưởng đâu. Tại sao cô ta lại nghĩ về mùi kem hay bánh? Hầu như không có điều gì chung giữa hai thứ này ngoại trừ một mùi thơm thật dễ chịu. Có thể - vâng, tôi tin là nó không điên rồ như ngài nghĩ đâu.”
Ông di chuyển những miếng chữ kim loại. “Cô nói mùi kem hay bánh. Khó tin thật. Có lẽ là phấn trang điểm hay kem dưỡng da.”
Một sự ngập ngừng, khi những ngón tay Louisa sờ tấm bảng. Không. Không phải phấn trang điểm của phụ nữ, hay kem dưỡng da. Nó giống… chà, giống mùi bánh hay kem, chỉ có điều là mạnh hơn.
“Không xác định rõ. Đó là một mùi hương ngọt ngào phải không?”
Vâng. Ngọt ngào. Ngọt sắc.
“Mùi ngọt sắc,” Lane lẩm bẩm. “Ngọt sắc.” Ông lúc lắc đầu và xếp một câu hỏi khác. “Có lẽ từ một bông hoa?”
Có lẽ … Louisa ngập ngừng, và mũi cô nhăn lại khi cô dồn sức để quyết tâm nhớ lại mùi hương ấy. Vâng. Một loại hoa. Mùi phong lan, một loại rất hiếm. Thuyền trưởng Trivett từng tặng nó cho tôi. Nhưng tôi không chắc lắm …
Cặp mắt già nua của thuyền trưởng Trivett hấp háy; chúng có màu xanh sắc nét, nhưng giờ đang lộ vẻ hoang mang. Khuôn mặt dạn dày sương gió của ông ta chuyển sang màu giống da yên ngựa cũ khi cặp mắt mọi người đổ dồn về phía ông ta.
“Chà, thuyền trưởng à?” Thumm thắc mắc. “Ông có thể giải thích giúp không?”
Giọng nói khàn đục của thuyền trưởng Trivett vỡ ra. “Cô ấy vẫn nhớ, trời ạ! Để xem nào… Đó là một tối của bảy năm về trước. Một người bạn của tôi - thuyền trưởng Corcoran của tàu Trinidad - đã mang nó theo từ vùng Nam Mỹ…”
“Bảy năm trước!” vị công tố viên thốt lên. “Một quãng thời gian dài để nhớ về một mùi hương.”
“Louisa là một phụ nữ phi thường,” viên thuyền trưởng nói tiếp, chớp mắt một lần nữa.
“Phong lan,” Lane trầm ngâm. “Được trồng ở nước ngoài. Giống phong lan nào vậy, thuyền trưởng, ông còn nhớ không?”
Đôi vai to bè xương xẩu của người thủy thủ già giật bắn. “Xin chịu thôi,” ông ta nói, với chất giọng như tiếng một cái tời cũ gỉ. “Một giống quý hiếm.”
“Hừm.” Lane xếp bộ chữ nổi một lần nữa. “Chỉ có đúng mùi loại phong lan đó thôi, không có gì khác à?”
Vâng. Tôi yêu hoa và không bao giờ quên mùi của chúng. Đó là lần duy nhất tôi từng ngửi mùi hoa phong lan.
“Bí ẩn vĩ đại của nghề làm vườn,” Lane nhận xét, cố tỏ ra tươi vui. Nhưng đôi mắt ông thì chẳng vui chút nào và một chân ông thì mải gõ xuống sàn. Họ dõi theo ông với vẻ mệt mỏi vô vọng. Rồi đột nhiên Lane bừng tỉnh, và vỗ đánh bốp vào trán. “Phải rồi! Tôi đã bỏ qua câu hỏi hiển nhiên nhất!” và thêm một lần nữa trở nên bận rộn với những miếng chữ kim loại nhỏ. Thông điệp như sau: “Cô bảo là ‘kem.’ Loại kem nào? Chocolate? Dâu? Chuối? Óc chó?”
Việc vấn đề đặt ra cuối cùng đã đi trúng đích rõ ràng đến nỗi ngay cả thanh tra Thumm, người mà tâm trạng chẳng hề thân thiện, cũng nhìn Lane với vẻ ngưỡng mộ. Khoảnh khắc mà Louisa khám phá ra điều Lane hỏi thông qua những đầu ngón tay, khuôn mặt cô sáng lên, cô gật đầu tươi rói như một con chim, gật liên hồi, rồi ngay lập tức đáp lại bằng ngôn ngữ ký hiệu: Tôi biết rồi. Không phải dâu, không phải chocolate, không phải chuối, không phải óc chó. Là mùi vani! Vani! Vani!
Louisa đang ngồi vắt vẻo trên rìa chiếc ghế, đôi mắt mù chẳng thể hiện gì, nhưng khuôn mặt cô đang tha thiết mong được ngợi khen. Thuyền trưởng Trivett lén vuốt tóc cô.
“Vani!” họ đồng thời kêu lên.
Những ngón tay khua lên. Vani. Không nhất thiết phải là kem hay bánh hay phong lan hay mùi gì đó xác định. Chỉ là hương vani thôi. Tôi chắc chắn đấy. Chắc chắn.
Lane thở dài, và nếp nhăn giữa hai mắt ông sâu thêm. Những ngón tay của Louisa giờ di chuyển rất nhanh chóng, khiến cho bà Smith mất thời gian hơn để dịch ra; bà ta phải bảo Louisa lặp lại ký hiệu. Có gì đó dịu dàng hiện lên trong đôi mắt bà y tá khi bà ta quay sang những người khác.
Làm ơn đi. Như vậy có giúp được gì không? Tôi muốn giúp đỡ. Tôi phải giúp đỡ. Liệu nó có giúp ích gì không ?
“Thưa cô,” viên thanh tra nói dứt khoát và sải bước đến cửa phòng ngủ, “dám cá là nó rất hữu ích.”
Bác sĩ Merriam cúi xuống chỗ Louisa, người cô đang run rẩy, và đặt tay lên cổ tay cô. Ông gật đầu, vỗ nhẹ vào má cô, và lùi lại. Thuyền trưởng Trivett trông có vẻ tự hào, dù không rõ vì lý do gì.
Thumm mở cửa và hét lên: “Pink! Mosher! Đâu hết rồi! Gọi bà quản gia lên đây ngay lập tức!”
Thái độ mở màn của bà Arbuckle là sự hùng hổ. Cú sốc ban đầu lúc cảnh sát điều tra ngôi nhà này đã qua đi. Túm vạt váy bằng cả hai tay, bà ta hổn hển leo lên gác, dừng chân chỗ đầu cầu thang, miệng lẩm bẩm gì đó vẻ chống đối, rồi bà ta bước vào căn phòng chết chóc và nhìn thẳng vào viên thanh tra. “Tôi đây! Các ngài muốn gì ở tôi nào?” bà thắc mắc.
Viên thanh tra không bỏ phí thời gian. “Bà đã nướng món gì hôm qua?”
“Nướng? Trời ạ!” Họ đối mặt nhau như hai võ sĩ. “Ngài đang muốn biết gì vậy?”
“Chà!” Thumm gay gắt nói. “Trốn tránh câu hỏi à? Thế hôm qua bà có nướng gì không đây?”
Bà Arbuckle khịt mũi. “Tôi không nhớ… Không, tôi không nướng gì cả.”
“Không ư? Hừm.” Hai cằm ngài được đẩy lên gần nhau hơn. “Thế bà có dùng vani trong nấu ăn không?”
Bà Arbuckle nhìn chằm chằm vào viên thanh tra như thể ngài bị điên. “Vani? Ngạc nhiên ghê! Chắc chắn tôi có dùng vani rồi. Ngài nghĩ kho thức ăn để làm gì chứ?”
“Bà có dùng vani,” Thumm nói một cách thận trọng. Ngài thanh tra quay sang vị công tố viên và nháy mắt. “Bà ấy có dùng vani, Bruno à… Được rồi, bà Arbuckle. Bà có dùng chút vani nào để làm gì đó vào hôm qua không?” Ngài xoa đôi bàn tay.
Bà Arbuckle đi về phía cửa. “Tôi sẽ không đứng đây như một kẻ ngốc đâu, nói cho biết luôn,” bà ta ngắt lời. “Tôi sẽ xuống gác nơi mà tôi không phải trả lời những câu hỏi điên rồ.”
“Bà Arbuckle!” viên thanh tra la lớn.
Bà ta dừng lại ngập ngừng và nhìn quanh. Họ đều nhìn chằm chằm về phía bà ta vẻ cực kỳ nghiêm túc. “Tôi không dùng.” Bà ta nói trong vẻ hoang mang giống khi trước: “Nói đi, có phải các ngài đang muốn dạy tôi cách đảm đương việc nhà không?”
“Xin bình tĩnh,” Thumm nhẹ nhàng nói. “Đừng tỏ ra khó chịu thế. Bà có để vani trong kho thức ăn hay nhà bếp không?”
“Có. Một chai vani mới toanh. Tôi hết sạch vani từ ba ngày trước, vì vậy tôi đã đặt mua một chai mới từ hiệu Sutton. Tôi còn chưa mở nó ra cơ.”
“Nhưng sao có thể như vậy được, bà Arbuckle?” Lane hỏi nhẹ nhàng. “Theo tôi biết thì mỗi ngày bà đều chuẩn bị món cocktail trứng cho cô Campion mà.”
“Vậy thì liên quan gì chứ?”
“Khi tôi còn là một cậu bé, bà Arbuckle à, món cocktail phải chứa vani.”
Thumm tiến về phía trước, tỏ vẻ ngạc nhiên. Bà Arbuckle lúc lắc đầu. “Thế thì chứng minh được gì đây? Các ngài sẽ tìm thấy bột nghiền hạt nhục đậu khấu trong bếp của tôi. Đó cũng là một tội ác sao?”
Thumm ló đầu vào sảnh. “Pink!”
“Vâng.”
“Đi xuống tầng dưới với người quản gia. Mang lên tất cả mọi thứ có mùi vani.” Thumm chỉ ngón tay cái về phía cửa. “Đi lấy đi, bà Arbuckle, nhanh chân lên.”
Không ai nói bất cứ điều gì trong lúc chờ đợi. Thumm huýt sáo vẩn vơ và đi tới đi lui, hai tay chắp sau lưng. Bruno thì chìm trong suy nghĩ xa xăm; ngài có vẻ buồn chán. Louisa ngồi lặng lẽ, và sau lưng cô là những thân hình bất động của bà Smith, bác sĩ Merriam, và thuyền trưởng Trivett. Lane thì mải ngắm khu vườn vắng bên ngoài cửa sổ.
Mười phút sau, bà Arbuckle và viên thám tử nặng nề bước lên cầu thang. Pinkussohn mang theo một chai nhỏ hình dẹt được bọc trong giấy. “Có rất nhiều thứ mùi dưới đó, lạ lùng và đủ loại,” viên thám tử cười toe toét, “nhưng chẳng có gì mang mùi vani trừ cái chai này. Nó còn chưa mở, thưa sếp.”
Thumm nhận lấy cái chai từ Pinkussohn. Nó được dán nhãn Tinh chất Vani , dấu niêm phong và bọc ngoài của nó còn nguyên vẹn. Ngài đưa nó cho Bruno kiểm tra, bằng vẻ thờ ơ, Bruno trả lại nó. Lane vẫn đứng nguyên chỗ cửa sổ.
“Bà đã làm gì với cái chai cũ, bà Arbuckle?” Thumm hỏi.
“Ném nó ra ngoài thùng rác ba ngày trước,” người quản gia nhanh nhảu đáp.
“Cái chai rỗng không à?”
“Vâng.”
“Bà có thấy cái chai vơi đi chút gì trong khi vẫn còn vani trong đó không?”
“Làm thế quái nào tôi biết được chứ? Ngài nghĩ tôi đo đếm từng giọt chắc?”
“Chả biết được đâu,” viên thanh tra đáp. Ngài xé bao bọc và dấu niêm phong, tháo nút chai, và giơ nó lên mũi mình. Một mùi vani mạnh từ từ thấm vào không khí trong phòng ngủ; chắn chắn đây là một chai vani thật. Nó còn đầy nguyên và chưa bị đụng vào.
Louisa Campion lúc lắc người, hai lỗ mũi mở ra. Cô khịt mạnh mũi, và xoay đầu về phía cái chai, giống như một con ong mật đánh hơi từ xa. Những ngón tay cô cứ khua lên.
“Cô ấy nói chính nó - chính mùi này.” Bà Smith xúc động kêu lên.
“Thật à?” Drury Lane khẽ hỏi, giờ đã quay người lại và đang nhìn đôi môi của bà y tá. Ông sải bước về phía trước và xếp một thông điệp trên tấm bảng. “Mùi có mạnh như cô đang ngửi thấy không?”
Không hẳn. Tối qua mùi nhẹ hơn.
Lane gật đầu có phần vô vọng. “Trong bếp có kem không, bà Arbuckle?”
“Không, thưa ngài.”
“Hôm qua có không?”
“Không, thưa ngài. Cả tuần chẳng có gì.”
“Không thể hiểu nổi nữa,” Lane nói. Đôi mắt ông như rực lên vẻ suy tư hơn bao giờ hết, khuôn mặt ông trẻ trung và tươi tắn, nhưng có điều gì đó mệt mỏi trong đó, như thể ông đã kiệt sức vì suy tư. “Thanh tra, có thể sẽ tốt nếu tập hợp tất cả mọi người trong nhà lại đây ngay lập tức. Còn bà Arbuckle, nếu có lòng, xin mời bà thu thập và mang vào đây tất cả các loại bánh kẹo trong nhà.”
“Pink,” thanh tra Thumm gắt, “anh hãy đi theo hộ tống cho chắc.”
Căn phòng giờ đã đầy người. Mọi người đều có mặt: Barbara, Jill, Conrad, Martha, George Arbuckle, Virginia người hầu gái, Edgar Perry, thậm chí Chester Bigelow và John Gormly, hai người bọn họ vẫn kiên trì bám lại trong ngôi nhà. Conrad dường như choáng váng, và cứ mải ngẩn người nhìn viên cảnh sát ở bên cạnh mình. Những người khác đều có vẻ trông ngóng… Thanh tra Thumm ngập ngừng, sau đó lùi lại. Ngài và Bruno đều có vẻ ủ rũ. Lane vẫn đứng đó, chờ đợi. Những đứa trẻ, như thường lệ, bị người lớn tóm lấy đưa vào phòng. Chúng tỏ ra ồn ào và vừa chạy vừa la khắp phòng. Lần này chẳng ai chú ý đến trò nghịch ngợm của chúng nữa.
Bà Arbuckle và Pinkussohn lệ khệ bê vào một núi bánh kẹo. Mọi người nhìn họ vẻ kinh ngạc. Bà Arbuckle đặt chúng lên giường của Louisa và lấy khăn tay lau cái cổ gầy gò. Pinkussohn, với biểu hiện của sự phẫn nộ sâu sắc, đổ ụp đống bánh kẹo lên chiếc ghế và bước ra ngoài.
“Có người nào ở đây còn giữ bánh kẹo trong phòng không?” Lane nghiêm nghị hỏi.
Jill Hatter nói: “Tôi. Tôi luôn để trong phòng.”
“Phiền cô mang hết ra đây, cô Hatter.”
Jill yểu điệu ra khỏi phòng và quay lại ngay với một hộp hình chữ nhật lớn, trên đó có ghi rõ dòng chữ: Năm pound . Khi nhìn thấy đống kẹo to đùng này làn da trắng của John Gormly ửng hồng. Anh ta cười yếu ớt và ngọ nguậy đôi chân.
Dưới những ánh mắt ngạc nhiên, Drury Lane tiến hành một công đoạn kỳ lạ. Ông thu thập tất cả các hộp kẹo chất đống trên ghế, và mở từng hộp một. Có năm hộp - một đậu phông giòn, một chocolate nhân trái cây, một kẹo cứng, một chocolate nhân cứng, và hộp kẹo của Jill, đã mở sẵn, với một dãy quả hạch và trái cây mọng nước đắt tiền nhìn là muốn ăn. Lane chọn những mẩu ngẫu nhiên từ tất cả năm hộp, bẻ thành miếng nhỏ, rồi đưa chúng cho Louisa Campion. Cậu nhóc hiếu động, Billy, nhìn cảnh đó với cặp mắt thèm thuồng; và Jackie, bị hớp hồn bởi hành động bí ẩn này, đứng trên một chân và nhìn chằm chằm như bị thôi miên.
Louisa Campion lắc đầu. Không. Tất cả đều không phải. Không phải kẹo, tôi đã sai. Vani!
“Vậy là chẳng loại nào có vani,” Lane nhận xét, “hoặc có quá ít vani nên vị giác không phân biệt được.” Ông nói với bà Arbuckle: “Còn chỗ bánh này, bà Arbuckle. Toàn là bà tự làm à?”
Bà ta chỉ vào ba chiếc bánh vẻ tự hào.
“Bà có cho vani vào trong không?”
“Không.”
“Những chiếc khác là được mua ư?”
“Vâng, thưa ngài.”
Lane đưa từng mẩu bánh nhỏ của mỗi loại cho cô gái mù câm điếc. Cô lại lắc đầu lần nữa một cách dứt khoát. Bà Smith thở dài và nhìn những ngón tay Louisa.
Không, tôi không ngửi thấy mùi vani.
Lane đặt chỗ bánh trở lại giường và đứng đăm chiêu trong tuyệt vọng.
“Ơ… tất cả những chuyện linh tinh này là sao?” luật sư Bigelow thắc mắc với vẻ thích thú.
“Tôi xin lỗi.” Lane lơ đãng quay lại. “Cô Campion đã mặt đối mặt với kẻ đã giết bà Hatter tối qua. Cô ấy khẳng định rằng tại thời điểm tiếp xúc, cô ấy đã nhận ra mùi vani rõ ràng, có lẽ bắt nguồn từ người hoặc trên đồ của hung thủ. Đương nhiên, chúng tôi đang cố gắng để giải quyết bí ẩn nhỏ này, nó có thể dẫn đến một khám phá quan trọng và thắng lợi cuối cùng.”
“Vani!” Barbara Hatter nhắc lại đầy kinh ngạc. “Khó mà tin nổi, thưa ngài Lane. Ký ức về cảm giác của Louisa cũng thật kỳ lạ. Tôi chắc chắn…”
”Cô ta điên rồi,” Jill dõng dạc nói. “Cô ta toàn bịa chuyện nọ chuyện kia. Trí tưởng tượng phong phú quá.”
“Jill,” Barbara nói.
Jill hất đầu đi, nhưng vẫn im lặng.
Một diễn biến dễ đoán tiếp theo. Có âm thanh lộn xộn của những bước chân nhộn nhạo, và họ thấy Jackie Hatter, cơ thể nhỏ nhanh nhẹn như một con khỉ, lao vào giường của Louisa, hai tay vơ lấy đống kẹo. Cậu nhóc Billy ré lên với niềm vui rồi lẩn mất. Bọn trẻ bắt đầu vội vàng điên cuồng nhét đầy kẹo vào miệng.
Martha tóm lấy chúng, la oai oái: “Jackie! Trời đất, con sẽ bị đau bụng đấy… Billy! Dừng lại ngay lập tức, hoặc mẹ sẽ tét đít!” Cô lắc người chúng và vỗ mạnh vào những ngón tay đang nắm chặt kẹo.
Billy tỏ ra thách thức, dù đã buông kẹo ra. “Con muốn ăn kẹo như chú John đã cho hôm qua!” thằng bé kêu gào.
“Cái gì cơ?” Thanh tra Thumm la lên, lao về phía trước. Ngài cúi xuống chỗ cái cằm nhỏ ương ngạnh của Billy, và gắt lên: “Hôm qua chú John đã cho cháu kẹo gì?”
Thumm, ngay cả trong những khoảnh khắc hiền hòa, cũng hiếm khi là người có thể truyền sự tự tin cho những cậu nhóc; và khi cau mày, như ngài đang làm bây giờ, ngài tỏ ra thực sự đáng sợ. Billy nhìn chằm chằm vào cái mũi gãy trong một khoảnh khắc như bị thôi miên, rồi vùng ra khỏi bàn tay của Thumm, cậu nhóc vùi cái đầu nhỏ vào váy mẹ và rú lên.
“Bài bản thật đấy, thanh tra à,” Lane nhận xét, đẩy Thumm sang một bên. “Ngài sẽ khiến cả một sĩ quan thủy quân lục chiến hoảng sợ với những chiến thuật này… Nào, con trai,” ông nói, ngồi xổm xuống bên cạnh Billy và bóp vai cậu bé trấn an, “đừng sợ nữa. Không ai làm đau cháu đâu.”
Thumm khịt mũi. Nhưng chỉ chưa đầy hai phút ở trong vòng tay của Lane, Billy đã mỉm cười sau đôi mắt ướt, và Lane đã trò chuyện với cậu nhóc về sở thích liên quan đến bánh kẹo, đồ chơi, sâu bọ, những chàng cao bồi và người da đỏ. Billy thấy tự tin hơn hẳn; đây là một người đàn ông tốt. Chú John đã đưa kẹo cho Billy. Khi nào? Hôm qua.
“Cho cháu nữa!” Jackie la lên, giật giật áo của Lane.
“Thật à. Là loại kẹo gì vậy hả Billy?”
“Cam thảo!” Jackie la lên.
“Cam chảo,” Billy nói ngọng. “Những túi lớn.”
Lane đặt cậu bé xuống và nhìn John Gormly. Ngài bực bội xoa xoa sau gáy. “Có thật thế không, ông Gormly?”
“Tất nhiên, đó là sự thật!” Gormly nói vẻ cáu kỉnh. “Tôi hy vọng ngài sẽ không ám chỉ kẹo đã bị đầu độc? Tôi đến thăm cô Hatter - tôi mang cho cô ấy hộp kẹo năm pound kia - và biết rằng lũ trẻ thích cam thảo, tôi đã mang cho chúng một ít. Thế thôi.”
“Tôi chẳng ám chỉ gì cả, ông Gormly,” Lane nhẹ nhàng đáp. “Và chuyện cũng chỉ thế thôi, vì cam thảo không có mùi vani. Dù sao người ta cũng đừng nên guá cẩn trọng. Tại sao chưa gì đã phải dè chừng trước những câu hỏi đơn giản nhất?” Ông cúi xuống chỗ Billy một lần nữa. “Hôm qua còn ai khác cho cháu kẹo không hả Billy?”
Billy nhìn chăm chú; câu hỏi này đã vượt tầm hiểu biết của cậu nhóc. Jackie cắm thẳng đôi chân gầy lên tấm thảm và rít lên: “Tại sao ông không hỏi cháu? Cháu có thể trả lời.”
“Rất tốt, Jackie, xin được hỏi cháu vậy.”
“Không. Không ai nữa cả. Chỉ có chú John thôi.”
“Tốt.” Lane ấn vào bàn tay cáu bẳn của mỗi đứa trẻ một nắm kẹo chocolate và đưa chúng về chỗ mẹ. “Xong rồi, thanh tra,” ông nói.
Thumm ra hiệu cho mọi người ra khỏi phòng.
Lane để ý thấy Edgar Perry, người gia sư, xoay xở để được chen bước bên cạnh Barbara: hai người họ bắt đầu thấp giọng trò chuyện trong khi bước xuống cầu thang.
Thumm tỏ ra bồn chồn, do dự, và tại thời điểm cuối cùng, khi Conrad Hatter được cảnh sát thả ra, Thumm nói: “Hatter! Đợi chút đã.”
Conrad lại bắt đầu lo lắng. “Có chuyện gì - chuyện gì nữa đây?” Anh ta đang sợ hãi, sự hùng hổ trước đây đã không còn nữa, anh ta tỏ ra muốn hợp tác.
“Hãy để cô Campion sờ vào mặt anh.”
“Sờ mặt tôi…?”
“Ồ, tôi xin nói,” Bruno phản đối, “Thumm này, cô ấy…”
“Tôi không quan tâm gì nữa đâu,” Thumm cố nói. “Tôi chỉ muốn chắc chắn thôi. Bà Smith, hãy bảo cô ấy sờ mặt ông Hatter.”
Bà y tá âm thầm vâng lời. Louisa tỏ vẻ ngóng chờ. Conrad, nhợt nhạt và căng thẳng, cúi xuống chỗ cái ghế bập bênh và bà Smith đặt tay Louisa lên khuôn mặt nhẵn nhụi, gần như không có râu của anh ta. Louisa đưa tay sờ nhanh xuống, lên, xuống lần nữa; và lắc đầu.
Những ngón tay cô lại khua lên. Bà Smith dịch ra: “Cô ấy bảo khuôn mặt kia mềm hơn nhiều. Của phụ nữ cơ. Không phải ông Hatter.”
Conrad đứng thẳng người lên, hoang mang cực độ. Thumm lắc đầu. “Được rồi,” ngài nói trong sự bực tức sâu sắc. “Anh có thể thoải mái đi lại trong nhà, Hatter, nhưng không được rời đi. Cậu kia, sĩ quan, trông chừng anh ta.” Conrad lê bước ra ngoài, theo sau là viên cảnh sát. Thumm nói: “Chà, ngài Lane, thật là một mớ hỗn độn, phải không nào?” và đưa mắt tìm người nghệ sĩ. Lane đã biến mất từ bao giờ.
Màn ảo thuật này, tuy nhiên, lại nằm trong tính toán. Lane đã lẻn ra khỏi phòng ngủ với mục đích dự tính trước; một công chuyện đơn giản, như là việc đơn thuần đuổi theo một mùi hương. Ông lang thang từ phòng này sang phòng khác, từ tầng nọ đến tầng kia, đi qua các phòng ngủ, phòng tắm, phòng trống, nhà kho - ông chẳng bỏ qua thứ gì. Chiếc mũi đẹp như tạc của ông luôn cảnh giác. Ông ngửi tất cả mọi thứ có thể đặt tay lên; nước hoa, mỹ phẩm, lọ hoa, thậm chí quần áo trong của phụ nữ có mùi thơm. Cuối cùng, ông đi xuống cầu thang và vào khu vườn, nơi mà ông đã trải qua mười lăm phút chiêm niệm những bông hoa bằng khứu giác. Toàn bộ sự việc, như bằng cách nào đó ông đã biết kết quả của nó, đã tỏ ra vô ích hoàn toàn. Ông không thể đánh hơi thấy thứ mùi tương tự như hương vani “ngọt sắc” mà Louisa Campion đã ngửi thấy ở bất kỳ đâu. Khi quay trở lại với Thumm và Bruno ở trên gác, bác sĩ Merriam đã đi, và thuyền trưởng Trivett đang chuyện trò với Louisa thông qua bộ chữ nổi Braille. Hai nhà điều tra tỏ ra thất vọng.
“Ngài đã đi đâu vậy?” Thumm thắc mắc.
“Theo đuổi cái đuôi của một mùi hương.”
“Mùi hương có đuôi cơ đấy. Hừm!” Không ai cười, và Thumm gãi cằm ngượng ngùng, “Tôi đoán không phát hiện ra gì cả?”
Lane lắc đầu.
“Vâng, tôi cũng chả ngạc nhiên. Chẳng có manh mối gì sất. Ngôi nhà đã được lục soát kĩ càng sáng nay, và chúng tôi không tìm thấy bất kỳ dấu vết gì quan trọng.”
“Bắt đầu có hơi hướng,” vị công tố viên nhận xét, “như thể chúng ta đang hành động trong vô vọng.”
“Có thể, có thể,” Thumm nói. “Nhưng tôi sẽ nhìn qua căn phòng thí nghiệm bên cạnh sau khi ăn trưa. Tôi đã ở đó hai tháng trước, và có thể là…”
“À vâng, căn phòng thí nghiệm,” Drury Lane rầu rĩ nói.