HẬU TRƯỜNG “Xem toàn bộ khung cảnh, với sự phán xét đầy nghiêm khắc - Rồi từ chối trao công trạng cho hắn nếu bạn có thể.”
Drury Lane nằm dài trên cỏ, ngả người về phía miệng hồ bằng đá, cho những con thiên nga đen ăn vụn bánh mì, trong khi ông già Quacey xuất hiện trên lối đi cùng với thanh tra Thumm và công tố viên Bruno đằng sau. Cả hai người họ trông đều e dè và ngần ngại. Quacey chạm vào vai Lane; ông quay đầu lại. Ông đứng ngay dậy và tỏ ra rất ngạc nhiên.
“Thanh tra! Ngài Bruno!” ông thốt lên.
“Rất vui được gặp ngài,” Thumm lẩm bẩm, bổ người về phía trước như một cậu học sinh. “Chúng tôi đến thăm, Bruno và tôi.”
“Ờ, đúng vậy,” Bruno nói.
Họ đứng như thể không biết phải làm gì với chính mình. Lane quan sát họ chăm chú. “Các ngài có thể ngồi trên bãi cỏ,” cuối cùng ông lên tiếng. Ông mặc quần short và một chiếc áo len cổ lọ, và đôi chân rám nắng cơ bắp của ông lẫn trong màu xanh của cỏ. Ông co đôi chân lại và làm động tác ngồi xổm, giống như một người da đỏ.
Bruno cởi áo khoác, cởi cúc cổ áo, rồi ngồi xuống với một tiếng thở dài biết ơn. Viên thanh tra do dự, rồi cũng quăng mình xuống đất với một tiếng la rõ to. Họ vẫn im lặng một lúc lâu. Lane vẫn chú tâm đến cái hồ, và cú sà xuống tuyệt đẹp của một con thiên nga đen đang vươn cổ tới chỗ mẩu bánh mì nhấp nhô trên mặt nước.
“Chà,” Thumm cuối cùng cũng lên tiếng, “có thể… Này!” Ông bước tới và chạm vào cánh tay của Lane; ông quay lại nhìn Thumm. “Tôi muốn nói chuyện, ngài Lane!”
“Thật sao,” Lane lẩm bẩm. “Ngài cứ nói đi.”
“Tôi muốn nói với ngài,” Thumm nói, chớp mắt, “rằng chúng tôi - Bruno và tôi - chúng tôi muốn hỏi ngài chút chuyện.”
“Liệu Louisa Campion có chết một cách tự nhiên?”
Họ giật mình, và quay sang nhìn nhau. Rồi Bruno ngả người về phía trước. “Đúng vậy,” ngài công tố viên hồ hởi đáp. “Ngài đã đọc báo phải không. Chúng tôi đang nghĩ đến việc mở lại vụ án… Ngài nghĩ sao?”
Thumm không nói gì; ngài chau đôi mày rậm nhìn Lane. “Tôi tưởng là,” Lane thì thầm, “bác sĩ Schilling nhất trí với phán quyết suy tim của bác sĩ Merriam.”
“Vâng,” viên thanh tra chậm rãi nói. “Đúng vậy. Dù sao thì bác sĩ Merriam vẫn tuyên bố cô Campion bị bệnh tim. Hồ sơ bệnh án của ông ta cũng đã xác nhận. Nhưng chúng tôi không chắc chắn như vậy…”
“Chúng tôi nghĩ rằng,” Bruno nói, “một loại chất độc có thể đã được sử dụng mà không để lại dấu vết, hoặc một mũi tiêm nào đó đã gây ra cái chết mà không bị nghi vấn.”
“Nhưng tôi đã nói với các ngài từ hai tháng trước rồi,” Lane trả lời nhẹ nhàng, tung vài mảnh vụn bánh mì lên trên mặt nước, “là tôi đã xong việc.”
“Chúng tôi biết,” Bruno vội nói, trước khi Thumm gắt lên đáp trả, “nhưng chúng tôi vẫn luôn có cảm giác là ngài biết những sự thật mà…”
Thumm dừng lại. Lane đã quay đầu sang một bên. Nụ cười hiền hòa vẫn nở trên môi, nhưng đôi mắt xanh xám của ông như bao trùm lên những con thiên nga mà không thực sự nhìn chúng. Sau một lúc lâu ông thở dài và quay lại với hai vị khách. “Các ngài đã đúng,” ông nói.
Thumm vặt một nắm cỏ và ném xuống bàn chân to bè của mình. “Tôi biết mà!” Ngài thốt lên. “Bruno, tôi đã bảo thế nào nhỉ? Ngài ấy biết điều gì đó chúng ta có thể lợi dụng để…”
“Vụ án này đã xong rồi, thanh tra à,” Lane lặng lẽ nói.
Cả hai vị khách đều giật mình, và Thumm nắm chặt cánh tay của Lane khiến ông phải nhăn mặt. “Đã xong?” Ngài cất giọng khàn khàn. “Là ai? Như thế nào? Khi nào? Khi nào, trời đất ạ - trong tuần này ư?”
“Nó đã được phá từ hơn hai tháng trước đây.”
Trong một khoảnh khắc họ như không đủ hơi sức để trò chuyện. Rồi Bruno thở hổn hển rõ to và tái mặt; còn môi trên của Thumm thì run lên như một đứa trẻ. “Và ý ngài là,” cuối cùng Thumm lên tiếng, “trong hai tháng này ngài đã giữ kín chuyện đó trong khi hung thủ còn nhởn nhơ?”
“Hung thủ không hề nhởn nhơ.”
Họ nhảy cẫng lên như hai con rối được nối chung với nhau. “Ý ngài là…?”
“Ý tôi là,” Lane đáp với giọng nói u buồn nhất có thể mường tượng, “kẻ giết người đã… chết.”
Một con thiên nga vỗ đôi cánh đen, và dòng nước lấp lánh bắn vào họ.
“Ngồi xuống đi nào, cả hai ngài,” Lane nói. Họ máy móc nghe theo. “Tôi mừng vì các ngài đến đây hôm nay, lại cũng vừa lo nữa. Thời điểm này tôi không chắc đã nên kể hết cho các ngài chưa…”
Thumm rên rỉ.
“Không, thanh tra à, tôi không trêu ngươi ngài bằng việc lấy sự chịu đựng của ngài ra làm vui đâu,” Lane nói tiếp vẻ ủ rũ. “Chuyện đó thực sự không dễ dàng.”
“Nhưng tại sao ngài không cho chúng tôi biết?” Bruno kêu trời kêu đất.
“Bởi vì,” Lane nói, “ngài sẽ không tin tôi.” Một giọt mồ hôi chảy xuống mũi của viên thanh tra và rớt khỏi cái cằm khổng lồ của ông ấy. “Thật không thể tin được,” Lane lặng lẽ nói tiếp, “là tôi sẽ không đổ lỗi cho hai vị nếu các vị muốn đá một kẻ nói dối trơ trẽn, một gã ba hoa, một người điên như tôi xuống hồ sau khi nghe xong những gì tôi sắp nói,” giọng ông run run, “điên như cái gia đình Hatter.”
“Đó là Louisa Campion,” Bruno chậm rãi nói.
Đôi mắt Lane liếc ngài công tố viên. “Không phải,” ông đáp.
Thanh tra Thumm vung cánh tay lên bầu trời xanh. “Đó là York Hatter,” ngài gắt lên. “Tôi đã biết từ đầu mà.”
“Không phải.” Drury Lane thở dài và quay lại với bầy thiên nga. Ông quăng một nắm bánh mì xuống hồ trước khi họ lại nghe thấy giọng nói trầm, rõ ràng và vô cùng buồn bã của ông. “Không phải,” ông lặp lại. ”Đó là… Jackie.”
Cả thế giới như đứng im. Gió đột nhiên ngừng thổi, và những con thiên nga lướt đi, thứ duy nhất di chuyển trong tầm nhìn của họ. Khi ông già Quacey, đâu đó thật xa phía sau họ, vui sướng hét lên lúc bắt được một con cá vàng trong đài phun nước hình tiên cá Ariel, thì thứ ma thuật kia mới tan biến.
Lane quay người lại. “Các ngài không tin tôi,” ông nói.
Thumm hắng giọng, cố gắng nói nhưng không nên lời, lại hắng giọng lần nữa. “Không,” cuối cùng ông nói. “Tôi không tin ngài. Tôi không thể…”
“Đó là điều không thể, ngài Lane!” Bruno thốt lên. “Hoàn toàn điên rồ!”
Lane thở dài. “Không phản ứng như thế thì các ngài cũng chưa bị điên đâu,” ông lẩm bẩm. “Tuy nhiên, trước khi nói xong, tôi phải thuyết phục cả hai ngài rằng Jackie Hatter - một đứa trẻ mười ba tuổi, một thiếu niên mới chạm ngưỡng tuổi mới lớn, gần như còn ở tuổi vị thành niên khi sự việc xảy ra - chính là hung thủ đã ba lần đầu độc Louisa Campion, kẻ đập vào đầu bà Hatter và gây ra cái chết của bà ta, kẻ mà…”
“Jackie Hatter,” Thumm lẩm bẩm. “Jackie Hatter,” như thể bằng cách lặp lại cái tên đó thì ngài có thể hiểu được toàn bộ vụ việc. “Nhưng làm thế quái nào mà một thằng nhóc mười ba tuổi bé loắt choắt có thể dàn dựng một vụ án như thế và tiến hành thành công? Tại sao, thật là… thật là điên rồ! Chẳng ai tin nổi chuyện này!”
Công tố viên Bruno trầm ngâm lắc đầu. “Đừng mất bình tĩnh, Thumm. Cậu đang bị kích động, hoặc cậu đang quá muốn biết câu trả lời. Việc một cậu bé mười ba tuổi làm theo một bản phác thảo tội ác được chuẩn bị sẵn cho mình đâu phải là quá khó hiểu.”
Lane khẽ gật đầu, và nằm dài xuống bãi cỏ.
Viên thanh tra lúng túng như gà mắc tóc. “Bản phác thảo của York Hatter!” Ngài thốt lên. “Giờ thì tôi hiểu rồi. Lạy Chúa! Thằng nhóc quỷ sứ đó… Tôi đã nghĩ đó là York Hatter - ông ta chưa chết - thằng nhóc đã cố làm theo chỉ dẫn của người chết…” Ngài lắc đầu cười khổ trong cay đắng và xấu hổ.
“Chưa bao giờ là York Hatter,” Lane đáp, “dù còn sống hay đã chết, tất nhiên rồi, vẫn có khả năng ông ta còn sống, việc xác định danh tính chưa hoàn toàn chắc chắn… Không, các ngài ạ, đó là Jackie Hatter và từ đầu chỉ có thể là Jackie Hatter. Tôi sẽ cho các ngài biết cách thức và nguyên do của vụ án.”
Họ chỉ còn biết gật đầu. Drury Lane nằm trên cỏ, gối tay dưới đầu, và để câu chuyện lạ thường của mình vang lên bầu trời không một gợn mây.
“Tôi sẽ bắt đầu,” ông nói, “tại cuộc điều tra lần thứ hai - vụ sát hại Emily Hatter. Xin hãy nhớ rằng, điểm bắt đầu của tôi chẳng hơn gì các ngài. Tôi bước vào hiện trường với không chút định kiến nào. Những gì tôi đã thấy, những gì tôi phải tin hoàn toàn là kết quả của sự quan sát và phân tích. Tôi sẽ chỉ ra lý lẽ của mình từ những sự kiện - lý lẽ đã thuyết phục tôi rằng cậu bé này chính là chủ mưu trong mọi việc, từ đó dẫn tôi đến bản phác thảo đầy bi kịch của York Hatter…
“Ngay từ đầu vụ án này đã cho thấy những trở ngại đặc biệt khó khăn. Chúng ta đã phải đối mặt với một vụ giết người mà ở đó có một nhân chứng bằng xương bằng thịt hẳn hoi, nhưng xem ra nhân chứng này lại không thể giúp ích như đã kỳ vọng. Một phụ nữ mù câm điếc… một người không thể nghe thấy cũng không thể nhìn thấy và, vấn đề còn phức tạp hơn nữa, không thể nói được. Tuy nhiên, trở ngại này đâu phải không thể vượt qua, vì cô ấy vẫn còn các giác quan khác nữa. Một là vị giác; hai là xúc giác; và ba là khứu giác.
“Vị giác thì hoàn toàn vô dụng rồi; chúng ta chẳng trông mong gì vào nó được. Nhưng còn xúc giác, khứu giác, và chủ yếu dựa trên cơ sở manh mối từ việc Louisa đã chạm vào kẻ giết người và ngửi thấy mùi gì đó của hắn mà tôi đã tìm ra sự thật.
“Tôi đã chứng minh rằng âm mưu đầu độc bằng quả lê trong bát trái cây của Louisa Campion và vụ sát hại bà Hatter ở giường bên cạnh là hành động của một kẻ duy nhất. Tôi cũng đã chứng minh trong các phân tích trước rằng vụ đầu độc Louisa chưa bao giờ là dụng ý thực sự, mục đích duy nhất trong âm mưu này là cái chết của bà Hatter. Rất hay. Khi kẻ hạ độc và kẻ giết người chỉ là một, thì cái người mà Louisa đã chạm vào đêm đó trong bóng tối của căn phòng - cái chạm đã khiến cô ngất xỉu - chính là hung thủ của chúng ta. Các ngài hãy nhớ là Louisa đã chạm vào mũi và má của hung thủ trong khi cô ấy đứng thẳng, tay song song với sàn nhà, vai thẳng. Thanh tra à, thực ra ngài đã đi đúng hướng đấy.”
Viên thanh tra chớp mắt, rồi đỏ mặt.
“Tôi không hiểu…” Bruno chậm rãi nói.
Lane, nằm duỗi lưng, đôi mắt nhìn bầu trời, không trông thấy chuyển động môi của Bruno. Ông lặng lẽ tiếp tục: “Ngài từng nói rằng, thanh tra à, chiều cao của hung thủ có thể được xác định bằng cách xác định độ cao tính đến mũi và má khi bị nhân chứng chạm vào mà chiều cao nhân chứng thì đã biết. Quá hay! Chính lúc đó ngài đã chạm tay vào sự thật dễ thấy kia, và có thể nó đã sớm lộ ra, hay có vẻ sẽ dẫn đến sự thật. Nhưng Bruno lại lên tiếng phản đối; viên Công tố bảo: ‘Sao ngài biết hung thủ đã không cúi mình vào thời điểm đó?’ - chắc chắn đó là một sự phản đối khôn ngoan, vì nếu hung thủ cúi mình, chiều cao của hắn phụ thuộc vào mức độ co người lại, điều đương nhiên không thể xác định. Vì vậy, chẳng hề suy xét kĩ hơn những dữ kiện, cả ngài và Bruno đều bỏ dở hướng điều tra này. Nếu đi tiếp - thực ra chỉ cần nhìn xuống sàn thôi - các ngài sẽ biết sự thật ngay lúc đó, như tôi vậy.”
Bruno cau mày, và Lane cười buồn khi ngồi dậy và quay lại đối diện với họ. “Thanh tra, đứng lên đi.”
“Hả?” Thumm hoang mang hỏi.
“Vui lòng đứng lên.”
Thumm làm theo vẻ ngạc nhiên.
“Bây giờ, ngài hãy kiễng chân lên.”
Gót chân Thumm lúng túng nhấc khỏi thảm cỏ, và ngài lảo đảo đứng trên các đầu ngón chân.
“Bây giờ, vẫn đứng kiễng chân, cúi mình và thử đi lại xem.”
Viên thanh tra uốn cong đầu gối một cách vụng về, gót chân vẫn kiễng, và cố bước đi. Ông chỉ lạch bạch được hai bước rồi sau đó bị mất thăng bằng. Bruno cười - trông ngài công tố viên như một con vịt quá khổ.
Lane mỉm cười một lần nữa. “Và thử nghiệm này chứng minh điều gì, hả thanh tra?”
Thumm bứt một ngọn cỏ và quắc mắt với Bruno. “Đừng cười nữa, đồ linh cẩu nhà anh!” Thumm gắt lên. “Chứng minh rằng hành động kiễng chân trong tư thế cúi người thật là khó.”
“Rất tốt!” Lane nói quả quyết. “Tất nhiên việc đó là có thể, nhưng chúng ta chắc chắn có thể loại bỏ khả năng cúi mình khi đang kiễng chân của một kẻ giết người đang vội vã rời khỏi hiện trường sau khi thực hiện tội ác. Kiễng chân, có thể; nhưng không thể vừa kiễng chân vừa cúi mình. Đó là một tư thế khó khăn, không tự nhiên đối với con người, và chẳng để làm gì; thậm chí còn làm chậm tốc độ… Nói cách khác, nếu tại thời điểm Louisa Campion chạm vào hung thủ, hắn ta đang nhón chân ra khỏi phòng, chúng ta có thể loại bỏ ngay lập tức cái khả năng là khi đó hắn cũng đang cúi mình.
“Sàn nhà cho chúng ta biết một câu chuyện dễ hiểu. Những dấu giày trên lớp bột phấn vung vãi, hãy nhớ lại, chỉ là phần mũi giày từ chỗ cái giường đến vị trí mà Louisa chạm vào hung thủ - vị trí này cũng là nơi hung thủ chuyển hướng và chạy khỏi phòng, tất cả những dấu giày sau đó không chỉ có phần mũi mà có cả phần gót nữa, và nằm cách xa nhau hơn…”
“Dấu mũi giày,” Bruno lẩm bẩm. ”Có thể chăng? Mấy cái vụ này thì tôi kém lắm. Tôi không thể nhớ rõ những hình ảnh. Đúng là dấu mũi giày sao…?”
“Đúng vậy mà,” Thumm gắt. “Thôi đi, Bruno.”
“Nào,” Lane bình tĩnh nói tiếp, ”chỗ mà chỉ có dấu mũi giày, thì có thêm một sự thật là mỗi dấu vết chỉ cách nhau mười phân. Chỉ có một lời giải thích khả thi - sau khi từ giường quay ra, tại vị trí mà hung thủ đập vào đầu bà Hatter, hắn đã không để lại dấu gót giày nào. Hơn thế, hắn còn nhón bước nữa, vì những dấu vết rõ ràng chỉ cách nhau có mười phân, khoảng cách bình thường giữa các bước chân trong khi nhón bước khá là hẹp… Thế nên lúc Louisa Campion chạm vào hung thủ, hắn đang đứng thẳng - tức là không cúi mình - và đang kiễng chân!”
“Giờ thì,” Lane nói nhanh, “chúng ta đã có cơ sở để tính toán chiều cao của kẻ giết người. Hãy cho tôi lạc đề một chút. Chúng ta có thể thấy, tất nhiên rồi, Louisa Campion có một chiều cao nhất định. Tại thời điểm đọc di chúc, khi cả gia đình tập hợp cùng nhau, có thể thấy rõ là Louisa và Martha Hatter có cùng một chiều cao và ngoài ra, họ là những người trưởng thành thấp nhất trong cả gia đình. Sau đó tôi biết được chiều cao chính xác của Louisa khi đến thăm bác sĩ Merriam và tra cứu hồ sơ bệnh án của cô ấy, cô ấy cao một mét sáu ba. Nhưng bản thân tôi không cần chiều cao chính xác; tôi có thể quan sát và ước lượng gần đúng chiều cao khi cô ấy đang diễn lại câu chuyện. Tôi ước tính chiều cao của cô ấy lúc đó - dựa trên chiều cao của chính tôi - rồi làm một phép tính nhanh. Giờ thì làm ơn nghe đây, nghe kĩ vào.”
Họ dõi theo Lane đầy chăm chú.
“Khoảng cách tính từ đỉnh đầu của một người đến vai của người đó là bao nhiêu? Hả, Bruno?”
“Ờ… tôi không rõ nữa,” Bruno đáp. ”Mà tôi cũng chẳng biết ngài làm thế nào nói được chính xác.”
“Nhưng ngài có thể mà,” Lane mỉm cười. “Các phép đo khác nhau trên mỗi người, và tất nhiên có sự khác biệt giữa nam giới và nữ giới. Tôi tình cờ biết được một cách gián tiếp; đó là một thông tin tôi thu nhặt được từ Quacey, người biết nhiều về cấu tạo đầu con người hơn bất cứ ai mà tôi từng gặp… Khoảng cách từ đỉnh đầu phụ nữ đến chóp vai họ là từ hai ba đến hai bảy phân - hãy coi là hai bảy phân đối với tất cả phụ nữ có chiều cao trung bình, các ngài có thể xác minh bằng cách nhìn vào bất kỳ người phụ nữ bình thường nào và ước lượng bằng mắt. Thế được rồi nhé! Việc các ngón tay của Louisa chạm vào má chỗ giáp phần mũi hung thủ nói với tôi một điều rằng kẻ giết người thấp hơn Louisa. Nếu hắn ta có cùng chiều cao, thì cô ấy sẽ chạm vào chóp vai hắn. Nhưng bằng việc chạm vào mũi và má, chứng tỏ hắn thấp hơn cô ấy.
“Tôi có thể biết chiều cao của kẻ giết người chính xác hơn không? Có thể chứ. Louisa cao một mét sáu ba. Khoảng cách từ cánh tay dang ra đến sàn nhà sẽ ngắn hơn chiều cao đầy đủ của cô ấy hai bảy phân, nên vị trí bờ má hung thủ chỗ Louisa chạm vào cũng thấp hơn ngần ấy tức là khoảng cách là một mét ba mươi bảy tính từ sàn nhà. Nếu bờ má chỗ gần mũi của hung thủ cách sàn nhà một mét ba bảy, chúng ta chỉ phải ước lượng khoảng cách tương ứng từ mũi của kẻ giết người đến đỉnh đầu để có được chiều cao hoàn chỉnh. Vì hắn thấp hơn Louisa, sẽ là khoảng mười sáu phân. Tổng chiều cao của kẻ giết người là khoảng một mét năm ba. Nhưng kẻ giết người đang đứng kiễng chân, vì vậy để có được chiều cao thật sự của hắn, ta phải trừ đi khoảng cách kiễng chân. Tôi nghĩ các ngài sẽ thấy nó tầm khoảng tám phân. Nói cách khác, kẻ giết người của chúng ta cao khoảng một mét bốn lăm!”
Bruno và Thumm ngơ ngác. “Chúa ơi,” Thumm rên rỉ, “chúng ta có cần thiết phải làm toán như thế không?”
Lane tiếp tục nói. “Một cách khác để tính toán chiều cao của kẻ giết người: Nếu hung thủ và Louisa có cùng một chiều cao, như tôi đã nói lúc nãy, thì Louisa sẽ chạm vào chóp vai hắn, vì cánh tay của cô ấy được duỗi thẳng ra. Nhưng cô ấy lại chạm vào mũi và má hắn. Điều này có nghĩa rằng chiều cao của hắn bằng chiều cao của Louisa trừ đi khoảng cách giữa vai và mũi của hắn. Khoảng mười phân. Còn tám phân khi kiễng chân nữa - là mười tám phân cả thảy. Nên hung thủ sẽ thấp hơn Louisa mười tám phân, người cao một mét năm ba. Từ đó hung thủ cao khoáng một mét bốn lăm - củng cố vững chắc tính toán ban đầu của tôi.”
“Phù!” Bruno lên tiếng. “Hơi bị vi diệu đấy. Lấy được con số chính xác từ những ước lượng bằng mắt!”
Lane nhún vai. “Ngài có thể thấy việc đó là khó nhằn, và đúng là những con số của tôi có vẻ khó nhằn thật. Nhưng thực ra nó khá đơn giản… Để tôi diễn giải thêm lập luận của mình. Giả sử cánh tay Louisa khi duỗi ra không hoàn toàn song song với sàn - mà thấp hơn một chút so với vai cô, hoặc cao hơn một chút. Chỉ có thể là một trong hai trường hợp đó, hãy nhớ Louisa là một người mù mà động tác quen thuộc nhất là cánh tay duỗi thẳng ra khi bước đi; nhưng chúng ta cho phép sai số khoảng năm phân cao hơn hoặc thấp hơn, thế đã là quá xông xênh so với thực tế rồi. Nên hung thủ của chúng ta sẽ cao tầm một mét bốn mươi đến một mét năm mươi, vẫn là một người rất nhỏ… Các ngài vẫn có thể phản đối - tôi thấy mắt thanh tra như đang muốn cãi nhau - rằng những ước lượng của tôi về khoảng cách từ mũi đến đỉnh đầu, hoặc đến vai, là quá chính xác. Các ngài có thể tự mình kiểm tra. Nhưng dù thế nào, chính việc Louisa chạm vào mũi của hung thủ khi hắn đứng kiễng chân cho thấy hắn thấp hơn đáng kể so với cô ấy - và chính điều này đã đủ để tôi nói rằng: cô ấy hẳn đã chạm vào Jackie Hatter.”
Ông dừng lại lấy hơi, và Thumm thở dài. Mọi chuyện dường như thật đơn giản khi nghe Lane giải thích.
“Tại sao lại là Jackie Hatter?” một lúc sau Lane tiếp tục. “Một lời giải thích sơ bộ là đủ. Vì Louisa và Martha là những người lớn thấp nhất trong nhà - cô ấy và Martha có cùng tầm vóc - có thể thấy rõ như vậy khi họ đứng chung với nhau trong khi nghe đọc di chúc, nên kẻ mà cô ấy chạm vào không phải là người lớn trong nhà. Tất cả những người lớn khác trong nhà đều bị loại trừ: Edgar Perry thì cao, ông bà Arbuckle cũng cao, cả Virginia nữa. Còn người ngoài, nếu như tội ác do một ai đó không phải người trong nhà gây nên? Nào, thuyền trưởng Trivett, John Gormly, bác sĩ Merriam - tất cả đều cao. Chester Bigelow có chiều cao trung bình, nhưng chiều cao trung bình của một người đàn ông chắc chắn không thấp hơn một mét rưỡi! Hung thủ không thể là một người bên ngoài, vì từ các yếu tố khác của tội ác, kẻ giết người đã chứng tỏ hắn thân thuộc với ngôi nhà, những thói quen ăn uống khác nhau của người trong nhà, địa thế trong nhà, vân vân.”
“Tôi hiểu rồi, tôi hiểu rồi,” viên thanh tra rầu rĩ nói. “Ngay dưới mũi chúng ta trong mọi lúc.”
“Lần đầu tiên tôi phải đồng ý với ngài,” Lane cười đáp. “Nên hung thủ chỉ có thể là Jackie Hatter, người mà con mắt mách bảo rằng có chiều cao đúng như tôi tính - và điều này đã được khẳng định khi tôi đọc thẻ bệnh án tại vân phòng bác sĩ Merriam và phát hiện ra thằng bé cao một mét bốn hai - chỉ lệch có ba phân, vậy đấy… Đương nhiên, hung thủ không thể là cậu em trai Billy, chỉ cần nghĩ là sẽ thấy vô lý rành rành, vì cậu bé mới biết đi, lại cao chưa đầy một mét. Một điểm nữa: Louisa cho biết cô sờ thấy một bờ má mềm mịn. Người ta sẽ liên hệ ngay đến một phụ nữ - như ngài vậy. Tuy nhiên, một cậu bé mười ba tuổi cũng có bờ má mềm mịn.”
“Tôi đáng bị nguyền rủa,” viên thanh tra lên tiếng.
“Vậy là, đứng đó trong phòng ngủ để dõi theo lời chứng của Louisa, quan sát cô ấy lập lại trải nghiệm của đêm trước - rồi tính toán nhanh - và tôi đã tìm ra. Dường như Jackie Hatter chính là kẻ rình mò trong đêm trước đó, người đã đầu độc quả lê dành cho người bác của mình và đã đập vào đầu bà nội, gây ra cái chết của bà ấy.”
Lane dừng lại một lát để thở dài và để ý bầy thiên nga của mình. “Tôi xin nói ngay rằng kết luận này có vẻ ngớ ngẩn đến mức tôi loại bỏ nó ngay lập tức. Đứa trẻ đó đã dựng lên một cốt truyện phức tạp đòi hỏi trí thông minh của người trưởng thành - và lại còn là một tên sát nhân nữa? Thật nực cười! Tôi đã có phản ứng hệt như ngài lúc trước, thanh tra à; tôi tự cười chính mình. Điều đó là không thể. Tôi đã sai ở đâu đó, hoặc phải có một người lớn đứng đằng sau chỉ đạo đứa trẻ. Tôi thậm chí còn nghĩ đến một người, người mà tôi chưa từng thấy, ẩn mình phía sau - một người lùn chẳng hạn - cao gần một mét rưỡi. Nhưng điều này thật ngớ ngẩn. Tôi không biết phải nghĩ gì nữa.
“Tôi vẫn giữ kín quan điểm của mình, tất nhiên rồi. Sẽ thật điên rồ tại thời điểm đó nếu tiết lộ kết quả tính toán của tôi với các ngài. Làm sao tôi có thể mong các ngài tin theo khi chính tôi đây còn chẳng tin?”
“Tôi bắt đầu hiểu được rất nhiều điều,” Bruno lẩm bẩm.
“Thật ư?” Lane lẩm bẩm. “Tôi không nghĩ ngài thấy được một nửa - một phần tư thôi - của sự việc, Bruno ạ, dù tôi rất tôn trọng sự sáng suốt của ngài… Chuyện gì đã xảy ra? Louisa Campion tuyên bố cô ấy ngửi thấy mùi vani trên mình hung thủ. Vani! Tôi đã tự nhủ; không phù hợp với một đứa trẻ. Tôi đã tìm kiếm mọi thứ mang mùi vani mà tôi có thể nghĩ ra - kẹo, bánh, hoa, và phần còn lại thì các ngài đã biết. Không có kết quả gì. Tôi đã một mình lục soát ngôi nhà để tìm một mối liên hệ khả dĩ, một manh mối, vẫn chẳng có gì. Vậy nên cuối cùng tôi đã loại bỏ giả thuyết thằng bé có liên quan đến vani và xem xét chuyện vani là một chất hóa học.
“Nhờ bác sĩ Ingalls tôi phát hiện ra rằng có một thành phần nào đó trong thuốc mỡ được dùng để chữa các loại bệnh ngoài da, tên gọi nhựa thơm Peru, có mùi vani đặc trưng. Nhờ bác sĩ Merriam tôi phát hiện ra rằng York Hatter đã bị một chứng bệnh ngoài da trên cánh tay và đã thực sự dùng nhựa thơm Peru để chữa bệnh. Trong phòng thí nghiệm tôi tìm thấy một ghi chép về lọ nhựa thơm này… York Hatter! Một người đã chết. Có khả năng nào ông ta vẫn còn sống?”
“Đó là chỗ mà tôi đã lạc đường,” Thumm rầu rĩ nói.
Lane không để ý. “Đúng thế, chuyện đó là có thể. Việc xác định nhân dạng không hoàn toàn chắc chắn. Mới chỉ đơn thuần coi cái xác được vớt lên chính là ông ta… Nhưng, còn vấn đề chiều cao? Theo lời kể ban đầu của ngài, thanh tra ạ, việc phát hiện thi thể không đề cập đến chiều cao; thậm chí nếu đó không phải là thi thể của York Hatter và ông ta đang lập kế hoạch lừa gạt, hẳn ông ta sẽ chọn một xác chết có chung vóc dáng, nên chiều cao của tử thi có thể giúp được tôi. Nhưng tôi đã biết chiều cao của York Hatter từ hồ sơ của bác sĩ Merriam. Ông ấy cao một mét sáu lăm. Vậy nên Louisa không thể đã chạm vào York Hatter - hung thủ thấp hơn Louisa khá nhiều, cao một mét rưỡi là cùng…
“Vậy mùi vani thì giải thích thế nào đây? Theo logic thì thứ nhựa thơm Peru kia phải là nguồn gốc của mùi vani trong đêm giết người; nó là một chất hóa học, nó ở trong phòng thí nghiệm nơi hung thủ lựa chọn chất độc cho mình, có thể lấy nó trên các kệ, và tôi không tìm thấy dấu vết của nguồn gốc mùi vani nào khác… Vì vậy, mặc dù thực tế tôi cảm thấy Hatter không thể chịu trách nhiệm cho mùi nhựa thơm Peru vào đêm xảy ra án mạng, tôi vẫn đi theo con đường này hy vọng sẽ tìm ra lý do tại sao thứ mùi này được sử dụng bởi người khác. Lý do duy nhất tôi có thể gán cho việc sử dụng nó vào đêm giết người là hung thủ cố tình để lại dấu vết hy vọng cảnh sát sẽ phát hiện ra York Hatter từng sử dụng nhựa thơm Peru trong quá khứ. Nhưng điều này cũng có vẻ ngớ ngẩn - York Hatter đã chết. Hoặc là chưa? Vấn đề lúc đó khá rối rắm.”
Lane thở dài. “Điểm dừng chân tiếp theo là phòng thí nghiệm. Các ngài có nhớ lại việc bố trí chai lọ trên kệ? Có năm kệ, mỗi kệ chia thành ba ngăn, mỗi ngăn chứa hai mươi chai lọ, mỗi chai lọ đánh số theo thứ tự; số một đặt ở bên trái kệ trên cùng, ngăn thứ nhất. Hãy nhớ lại, thanh tra, là tôi đã chỉ ra chai Strychnine , số 9, được đặt gần như ở giữa ngăn thứ nhất kệ trên cùng. Và chúng ta thấy chai axit prussic trong Chai số 57, cũng ở kệ trên cùng, nhưng ở ngăn thứ ba bên phải. Nếu tôi không có mặt ở đó, và ngài mô tả vị trí cho tôi, thì tôi cũng biết rằng thứ tự của các chai lọ chạy từ trái sang phải đến hết kệ, từ ngăn đầu tiên rồi ngăn thứ hai đến ngăn thứ ba. Nên chai số 9 và 57 không thể ở đâu khác trừ phi chúng bị tráo vị trí… Tạm thời là thế.
“Nhựa thơm Peru, theo bản thống kê, nằm trong Lọ số 30 - cái lọ đã biến mất sau vụ cháy nổ, nhưng tôi có thể nói chính xác nơi nó từng được đặt từ hiểu biết của tôi về thứ tự của các chai lọ. Một ngăn chứa đủ hai mươi chai, và không có chỗ trống, số 30 phải nằm ở chính trung tâm của kệ trên cùng… Tôi đã phát hiện ra rằng Martha Hatter là thành viên gia đình duy nhất ngoài bản thân York biết rằng ông ta bị bệnh ngoài da. Tôi đã hỏi và cô ấy xác nhận điều này: đúng, cô ấy biết ông ta bôi một loại thuốc mỡ - cô không nhớ tên - nhưng cô biết nó có mùi vani. Khi tôi hỏi cô ấy về vị trí vẫn đặt cái lọ - tôi đã đặt những chai lọ rỗng trong ngăn giữa của kệ trên cùng - cô ấy bước tới ngăn giữa và lấy xuống cái lọ đặt ở vị trí mà số 30, nhựa thơm Peru, từng được đặt… Nhưng sau đó tôi phát hiện ra một điều quan trọng - điều chẳng liên quan gì đến chuyện mùi thơm hết!”
“Điều gì thế?” Thanh tra Thumm thắc mắc. “Tôi đã ở đó, và tôi có thấy gì đáng chú ý xảy ra đâu.”
“Không ư?” Lane mỉm cười. “Nhưng sau đó ngài đâu có lợi thế như tôi, hả thanh tra. Làm cách nào Martha Hatter lấy được cái lọ xuống? Bằng cách đứng kiễng chân là đủ để cô ấy với được cái lọ. Điều đó có nghĩa gì? Đơn giản là Martha Hatter, một trong hai người trưởng thành thấp nhất trong gia đình, đã phải căng người và kiễng chân để với được cái lọ trên kệ trên cùng. Nhưng vấn đề là - cô ấy có thể với tới kệ trên cùng trong khi vẫn đứng trên sàn nhà!”
“Nhưng điều đó thì chứng tỏ được gì, hả ngài Lane?” Bruno cau mày.
“Ngài sẽ thấy.” Hàm răng Lane lóe lên. “Ngài có nhớ rằng trong lần điều tra sơ bộ của chúng ta ở phòng thí nghiệm - lúc trước vụ cháy - chúng ta đã phát hiện ra hai vết mờ trên mép của cái kệ? Cả hai đều có hình bầu dục - rõ ràng là những dấu vết còn lại của ngón tay. Vết đầu tiên nằm trên mép của kệ thứ hai nằm ngay dưới Chai số 69, vết còn lại nằm trên mép của kệ thứ hai dưới Chai số 90. Ngoài ra, hai vết mờ này không đi hết chiều dày của mép kệ, mà chỉ nằm ở nửa trên mép. Cả Chai số 90 và Chai số 69 đều không có bất kỳ mối liên hệ với vụ án - chai đầu tiên chứa axit sulfuric , chai thứ hai chứa axit nitric . Nhưng vị trí các vết mờ còn có một ý nghĩa nữa - số 69, nằm trên vết đầu tiên, lại nằm ngay dưới Chai số 9, nói cách khác là nằm cách một kệ; và số 90, nằm trên vết thứ hai, thì nằm dưới Chai số 30 - cũng nằm cách một kệ. Cả Chai số 9 và Chai số 30 đều liên quan đến vụ án - số 9 chứa Strychnine , được sử dụng trong vụ đầu độc đầu tiên, trong món cocktail của Louisa; số 30 chứa nhựa thơm Peru, thứ mùi phát ra từ hung thủ trong đêm bà Hatter bị giết. Điều này không thể chỉ là một sự trùng hợp, rõ ràng là thế… Vì vậy, tâm trí tôi ngay lập tức nhảy sang một tình huống khác. Cái ghế đẩu ba chân, mà bằng chứng là ba vết bụi thông thường nằm giữa hai cái bàn thí nghiệm, lại được tìm thấy bên dưới những ngăn kệ trung tâm. Và cái ghế cho thấy dấu hiệu của sự xáo trộn - những vết trầy xước và vết bụi không đồng đều trên mặt ghế. Chắc chắn nếu chỉ ngồi thôi thì chẳng thể tạo ra dấu vết không đều như vậy, hành động ngồi chỉ có thể để lại một vệt hằn trơn nhẵn hoặc là xóa hết lớp bụi đi. Nó không thể gây ra các vết trầy xước… Cái ghế này đã rời khỏi vị trí, nhớ không, và nằm ngay dưới Chai số 30 và 90 ở ngăn kệ giữa. Tất cả điều này có nghĩa gì? Tại sao cái ghế được sử dụng? Nếu không phải để ngồi, thì để làm gì? Rõ ràng là để đứng, điều này sẽ giải thích cho các vết trầy xước và vết bụi không đồng đều. Nhưng tại sao phải đứng? Trả lời được thì câu chuyện sẽ trở nên rõ ràng.
“Các vết ngón tay trên mép kệ thứ hai cho thấy đã có kẻ cố với lấy Chai số 9 và 30 trên kệ trên cùng nhưng thất bại, các đầu ngón tay chỉ chạm đến mép của kệ thứ hai. Để lấy được chúng kẻ này phải đứng trên một thứ gì đó, chính là cái ghế đẩu. Có lẽ, tất nhiên rồi, lần thử thứ hai đã thành công, vì chúng ta biết những chai này đã được sử dụng. Điều này đưa tôi đến đâu? Đến một điểm: Nếu có kẻ để lại dấu tay ngay dưới Chai số 69 và 90, thì khoảng cách từ kệ có vết tay đến sàn nhà sẽ cho thấy chiều cao của kẻ này - tất nhiên không phải là chiều cao chính thức, mà là chiều cao khi duỗi hay vươn người hết cỡ. Vì khi ta cố lấy một vật nằm ngoài tầm với, ta sẽ vươn người hết cỡ, tự động đứng kiễng chân, và duỗi cánh tay ra để với được xa nhất.”
“Tôi hiểu rồi,” Bruno chậm rãi nói.
“Đúng thế. vì Martha Hatter có thể đứng trên sàn với tay lấy cái lọ trên kệ đầu tiên mà không cần ghế đẩu! Có nghĩa rằng tất cả người lớn trong trường hợp đều có thể với được lọ nhựa thơm Peru trên kệ đầu tiên theo cách đó, bởi Martha và Louisa là những người trưởng thành thấp nhất trong vụ này. Nên kẻ để lại dấu tay trên mép kệ thứ hai và kẻ đứng trên ghế đẩu để với lên những cái chai thấp hơn kha khá so với Martha, và cũng không phải là một người lớn… Thấp hơn bao nhiêu? Cũng dễ tính thôi. Tôi đã mượn cái thước của ngài, thanh tra à, và đo khoảng cách giữa những chiếc kệ, biết rằng khoảng cách chính xác từ kệ trên cùng đến kệ có dấu tay bên dưới là mười lăm phân. Tôi cũng đo độ dày của tấn ván; nó dày hai phân rưỡi. Có thể ước lượng thế này, mười lăm phân cộng với hai phân rưỡi cộng với hai phân rưỡi nữa (vì Martha còn với tay cao hơn cái kệ một chút) - tức là kẻ dùng ghế đẩu thấp hơn Martha tầm hai chục phân. Mà Martha lại có cùng chiều cao với Louisa, và Louisa thì cao một mét sáu ba, tức là kẻ dùng ghế đẩu cao tầm một mét bốn ba! Một sự xác nhận đáng chú ý và khá thuyết phục cho suy luận ban đầu của tôi - một lần nữa cho thấy dấu vết của một kẻ giết người cao một mét tư. Vẫn là Jackie!”
Một sự im lặng trong giây lát. “Tôi không thể chấp nhận điều đó,” viên thanh tra lẩm bẩm. “Tôi không thể.”
“Tôi không trách ngài,” Lane nghiêm trang đáp. “Tôi cũng ngày càng buồn hơn - sự xác nhận đáng nguyền rủa về một giả thuyết mà tôi không tài nào tin nổi. Nhưng có quá nhiều trùng hợp. Tôi không thể nhắm mắt trước sự thật được nữa. Jackie Hatter không chỉ là người đã đầu độc lê và đập vào đầu bà Hatter, mà cũng là người đã đổ chất độc Strychnine vào món cocktail và với lấy cái lọ nhựa thơm Peru… tất cả đều quy về kẻ giết người.”
Lane dừng lại và hít một hơi dài. “Tôi đã xem xét cẩn thận. Giờ tôi không nghi ngờ gì nữa, dù sự việc có vẻ điên rồ, Jackie mười ba tuổi là hung thủ chính thức của chúng ta. Quái lạ, nhưng không thể sai được! Tuy nhiên, âm mưu của cậu ta phức tạp theo một cách quá thần tình, với sự cẩn trọng và trí thông minh không thể phủ nhận. Không thể tưởng tượng nổi một đứa trẻ mười ba tuổi có thể tự nghĩ ra âm mưu này, dù tinh khôn thế nào đi nữa. Thế là đủ để tôi có thể tuyên bố mà chẳng cần làm gì thêm: Chỉ có hai cách giải thích thôi. Một là cậu bé chỉ là con rối của một người lớn rất thông minh, kẻ chủ mưu và bằng cách nào đó lợi dụng đứa trẻ để thực hiện… Nhưng rõ ràng cách giải thích này là sai. Liệu một người lớn có thể lợi dụng một đứa trẻ làm công cụ cho mình - những tạo vật không đáng tin cậy nhất? Có thể nhưng sẽ rất khó - kẻ chủ mưu sẽ gặp nguy cơ rất lớn nếu đứa trẻ tiết lộ bí mật của hắn vì tính bồng bột không giữ mồm giữ miệng, hoặc đơn giản do mấy trò tinh nghịch kiểu anh hùng con trẻ; cũng có thể đứa trẻ sẽ khai tuốt tuồn tuột dưới áp lực của cuộc thẩm tra chính thức và làm đổ bể toàn bộ câu chuyện. Tất nhiên, có khả năng đứa trẻ bị bắt im miệng bằng những lời đe dọa mang tính bạo lực cá nhân. Nhưng khả năng này cũng rất khó xảy ra; trẻ em thì dễ nhìn nhận, và hành vi của Jackie từ đầu đến cuối không phải là của một đứa trẻ bị thúc đẩy bởi sự sợ hãi.”
“Tôi không phản bác gì về điểm đó,” viên thanh tra lẩm bẩm.
“Không,” Lane mỉm cười. “Thậm chí nếu coi như có kẻ lợi dụng cậu bé làm công cụ, thì chắc chắn vẫn có những mâu thuẫn rõ ràng trong việc tiến hành âm mưu mà một người trưởng thành sẽ không bao giờ tán thành - những điều mà một người trưởng thành sẽ không bao giờ cho phép xảy ra - những điều mà như tôi sẽ chỉ ra ngay sau đây, chỉ là biểu hiện cho một tâm trí non nớt chứ không phải của một đầu óc trưởng thành. Dựa trên những mâu thuẫn ấy mà tôi bác bỏ giả thuyết về một người trưởng thành thao túng hành vi của Jackie. Nhưng tôi vẫn luôn tin rằng khởi sự của âm mưu này là sản phẩm của một đầu óc trưởng thành. Vậy là tôi phải đối mặt với một vấn đề: Làm thế nào mà một người lớn có thể thai nghén âm mưu này và một đứa trẻ có thể thực hiện nó - mà lại không có sự đồng lõa giữa họ? Chỉ có một câu trả lời khả dĩ - đó là phương án của tôi - rằng đứa trẻ đã làm theo một kế hoạch được người lớn viết sẵn, và người này không hề biết gì về chuyện đó (nếu không người ấy sẽ báo cho cảnh sát ngay).”
“Hóa ra đó là cách ngài tìm ra cái cốt truyện kia,” Bruno trầm tư nói.
“Đúng thế. Tôi cảm thấy giờ tôi đã đi đúng hướng. Liệu có bất kỳ dấu hiệu nào về chủ nhân của cái âm mưu kia không? Có chứ. Bởi lẽ cái việc người đó biết cách và thoải mái sử dụng các loại chất độc chỉ có thể nhắm tới một nhà hóa học, đó là York Hatter. Thêm nữa, trong lời khai ban đầu Barbara Hatter đã đề cập đến chuyện cha cô ấy muốn viết tiểu thuyết. Chi tiết này đã giáng mạnh vào tôi. Tiểu thuyết! Rồi còn nhựa thơm Peru, thứ chỉ có York Hatter mới dùng… Các dấu hiệu đều chỉ đến ông ta, dù sống hay chết.”
Lane thở dài, và duỗi cánh tay của mình. “Ngài có nhớ lúc tôi bảo tôi có hai hướng đi để lần theo không thanh tra, và ngài đã rất ngạc nhiên? Hướng thứ nhất là mùi vani mà tôi đã mô tả; hướng thứ hai là chuyến viếng thăm Barbara Hatter để lần theo người viết ra âm mưu kia. Tôi hài lòng khi cô ấy cho biết phỏng đoán của tôi về chuyện York Hatter từng viết một câu chuyện trinh thám là đúng. Loại tiểu thuyết liên quan đến tội phạm là tiểu thuyết trinh thám, và tôi biết phải là như thế. Cô ấy không biết gì hơn, ngoại trừ việc Hatter bảo là ông ta đang phác thảo cốt truyện. Một bản thảo có lẽ đang tồn tại! Tôi bị thuyết phục rằng York Hatter, người chí ít đã vẽ ra một âm mưu giết người trong sách vở, sau khi chết đi đã vô tình cung cấp cho cậu bé Jackie những hướng dẫn chi tiết cho một tội ác tày trời.
”Jackie đã làm theo cốt truyện đó. Cậu bé đã tiêu hủy bản thảo chưa? Có lẽ là không; tâm lý trẻ em sẽ muốn giấu nó đi hơn muốn tiêu hủy nó. Ít nhất cũng đáng để tìm kiếm. Nếu cậu ta giấu nó, thì sẽ giấu ở đâu đây? Một nơi nào đó trong nhà, tất nhiên rồi. Tuy nhiên, ngôi nhà đã được lục soát từ trước và chẳng có thứ gì còn sót. Ngoài ra, tôi cảm thấy chắc chắn rằng một cậu bé mười ba tuổi - thích cướp biển, cao bồi và người da đỏ, những chuyện phiêu lưu, trinh thám - sẽ chọn một nơi che giấu rất kỳ công cho cái bản thảo kia. Tôi đã phát hiện ra cách mà cậu bé đột nhập vào phòng thí nghiệm - qua đường ống khói và lò sưởi. Có khả năng chính cái lối đi rất ư là kỳ công kia đã biến thành nơi che giấu bản thảo cũng kỳ công không kém. Vì nghĩ đó là nơi thích hợp, nên tôi đã tìm kiếm bên trong ống khói lò sưởi và thấy trên bức tường gạch ngăn cách có một viên gạch rời ra, đằng sau nó là bản thảo cần tìm. Điều này cũng hợp lý khi xét rằng Jackie chắc chắn sẽ không nghĩ còn có người biết về cái con đường tuyệt diệu thông giữa hai phòng này, và việc giấu bản thảo ở đó sẽ đảm bảo rằng chẳng có ai phát hiện ra nó.
“Liên quan đến chuyện cái ống khói, chắc chắn đứa trẻ này - tinh nghịch, ngoan cố, không vâng lời - trong lúc lọ mọ quanh nhà đã cố gắng tìm cách tiếp cận phòng thí nghiệm sau khi bị người bà nghiêm khắc cấm đoán. Kể cũng ngạc nhiên thật, hành động như một đứa trẻ, cậu bé hẳn đã lọ mọ trong lò sưởi ở phía phòng ngủ, thấy rằng bức tường ngăn không xây hết liền trèo lên, và theo cách này phát hiện ra việc có thể vào phòng thí nghiệm mà chẳng cần dùng đến cửa. Rồi cậu ta hẳn đã tha thẩn trong phòng; và trong một ngăn tủ hồ sơ mà chúng ta thấy trống rỗng, cậu ta đã phát hiện ra cái bản thảo mà Hatter để sẵn ở đó trước khi tự sát. Một thời gian sau, có lẽ sau khi quyết định biến cái tội ác trên sách vở kia thành hiện thực, cậu ta đã nới lỏng viên gạch trong ống khói - có thể là nó đã lỏng ra sẵn rồi và cậu ta chỉ tận dụng nó như một chỗ giấu đồ… Một điều nữa: Hãy nhớ rằng cậu bé đã có một khoảng thời gian dài giữa việc phát hiện ra bản thảo và vụ hạ độc đầu tiên để nghiền ngẫm kĩ lưỡng cái âm mưu giết người hấp dẫn kia, đánh vần các từ khó, tìm hiểu nội dung của bản thảo, có thể chưa hiểu nổi đến một nửa nội dung, nhưng cũng nắm được sơ bộ để biết phải làm gì. Hãy nhớ rằng, việc phát hiện ra bản thảo xảy ra trước vụ hạ độc đầu tiên nhưng sau cái chết của York Hatter.”
“Chỉ là một đứa trẻ,” viên thanh tra lẩm bẩm. “Và tất cả chuyện này…” Ngài lắc đầu. “Tôi… khỉ thật, tôi không biết phải nói gì nữa.”
“Hãy quay lại chuyện cái bản thảo,” Lane tiếp tục, không cười nữa. “Tôi không thể mang nó đi khi tìm thấy nó; Jackie sẽ phát hiện ra nó đã biến mất, trong khi mục đích của tôi là khiến cậu ta nghĩ rằng mình là một kẻ chủ mưu cực kỳ thành công. Vậy nên tôi đã sao lại nó ngay tại chỗ và trả bản gốc về chỗ cũ. Tôi cũng tìm thấy một cái ống chứa đầy chất lỏng màu trắng mà tôi chắc chắn là chất độc, và đổ sữa vào đó thay thế cho an toàn - và còn một lý do khác mà các ngài sẽ biết khi đọc bản thảo kia.” Trên bãi cỏ có một chiếc áo khoác cũ nằm gần đó, và Lane với tay lấy. “Tôi đã mang nó theo nhiều tuần nay,” ông khẽ nói. “Một tài liệu đáng kinh ngạc. Mời các ngài đọc nó trước khi tôi tiếp tục.”
Ông lôi từ túi áo khoác ra cái bản thảo được chép lại bằng bút chì của York Hatter, và đưa nó cho Bruno. Hai vị khách cùng nhau đọc say sưa. Lane chờ đợi trong im lặng cho đến khi họ kết thúc. Mặt mày họ trông sáng sủa hơn hẳn trong khi trả lại nó cũng trong sự im lặng.
“Tôi đã nói lúc nãy,” Lane tiếp tục sau khi cất bản sao kia đi, “rằng có một số mâu thuẫn rõ ràng và ấu trĩ trong việc tiến hành thực hiện một âm mưu được lên kế hoạch kĩ càng. Tôi sẽ nói về chúng khi chúng xuất hiện trong cuộc điều tra.
“Đầu tiên, quả lê độc. Thử quên đi cái ý định không nhằm giết Louisa. Ít nhất kẻ hạ độc cũng cần đầu độc quả lê, dù động cơ của hắn là gì. Giờ chúng ta tìm thấy cái ống tiêm dùng để tiêm chất độc tại chính căn phòng đó. Quả lê, như chúng ta biết, ban đầu không có trong phòng: nó đã được kẻ hạ độc đưa vào. Nói cách khác, kẻ hạ độc đã đem vào phòng một quả lê chưa có độc rồi tiêm vào nó ngay tại hiện trường gây án. Thật kỳ quặc! Đúng ra thì thật ấu trĩ! Một người trưởng thành sẽ làm thế hay sao? Trong khi tội ác cần diễn ra nhanh chóng, vì có thể bị phát hiện hoặc bị gián đoạn. Một người trưởng thành có ý định đầu độc lê sẽ đầu độc nó ở bên ngoài trước khi vào phòng và để nó lại, để không cần thiết phải đứng đó và châm kim tiêm vào quả lê tại thời điểm mà mỗi giây đều quý giá, việc bị phát hiện có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
“Đúng vậy, nếu hung thủ cố tình để lại ống tiêm trong phòng, thì tôi sẽ không thể kết luận là nó được mang vào để tiêm độc vào quả lê, tôi sẽ không biết liệu lê đã bị đầu độc bên trong hoặc bên ngoài căn phòng. Nhưng cứ coi như tôi đang bàn luận theo giả thuyết là cái ống tiêm được cố tình để lại trong phòng đi. Tại sao ư? Chỉ có một khả năng hợp lý: để thu hút sự chú ý đến việc quả lê đã bị đầu độc. Nhưng điều này là không cần thiết; vụ sát hại bà Hatter, được chứng minh là một tội ác có tính toán trước chứ không phải một tai nạn, và đặc biệt là nó diễn ra sau âm mưu đầu độc trước đó, sẽ dẫn đến chuyện khám phá ra quả lê độc, cảnh sát sẽ tìm kiếm dấu hiệu của chất độc - thực tế là thanh tra Thumm đã làm thế. Vậy nên nhiều khả năng ống tiêm được tình cờ bỏ lại, và điều này có nghĩa rằng lý do duy nhất để mang ống tiêm vào phòng là để tiêm chất độc vào quả lê ngay tại căn phòng đó… Và điều này đã được khẳng định khi tôi đọc bản thảo kia.”
Một lần nữa ông lấy ra bản thảo từ trong túi áo và mở nó ra. “Chính xác thì bản thảo này viết gì? Nó viết: “Ý tưởng lần này là đầu độc một quả lê và đặt nó vào trong bát trái cây,” đại loại thế. Rồi sau đó nó viết: ‘Y… mang vào phòng một quả lê hỏng được tiêm chất độc vào,’ vân vân. Thật là ấu trĩ, ” Lane tiếp tục, ném những tờ giấy lên bãi cỏ, “bản thảo này không rõ ràng, không nói rõ quả lê bị tiêm độc trước hay sau khi vào phòng. Nó cũng không nói đến chuyện bỏ lại ống tiêm trong phòng. Như bất kỳ người lớn nào khác, Hatter đã mặc nhiên coi quả lê bị tiêm độc trước khi được đưa đến hiện trường vụ án. Vậy nên kẻ nào đã diễn giải những chỉ dẫn trong bản thảo này thì cũng hiểu nó theo nghĩa đen, là tiêm độc vào quả lê trong căn phòng chết… Tôi thấy ngay rằng đây là dấu hiệu của một tâm trí non nớt. Nói cách khác, vụ việc do một người lớn nghĩ ra nhưng lại do một đứa trẻ tiến hành - quá trình thực hiện cho thấy đó là một tâm trí non nớt khi không có chỉ dẫn cụ thể nào.”
“Thật đáng nguyền rủa nếu đó không phải là sự thật,” viên thanh tra lẩm bẩm.
“Mâu thuẫn thứ hai. Các ngài có nhớ lớp bụi trên sàn nhà trong phòng thí nghiệm có lẫn nhiều dấu chân, chẳng dấu chân nào còn nguyên hay rõ nét? Lớp bụi này chẳng liên quan gì đến cái cốt truyện của York Hatter. Hiển nhiên rồi - trong cốt truyện đó thì bản thân ông ta sống trong phòng thí nghiệm và sẽ không có chút bụi nào ở đó cả. Vì vậy, các dấu chân và bất cứ thứ gì chúng ta thu được từ việc xem xét chúng đều chỉ liên quan đến những sự kiện thực tế. Chúng ta đã thấy bằng chứng của việc kẻ sử dụng phòng thí nghiệm đã xóa đi đường nét của mọi dấu chân dễ thấy - với một cậu bé thì thế là tài đấy. Nhưng lại không có dấu chân nào, bị xóa hay chưa xóa, ở gần cánh cửa duy nhất dẫn vào phòng! Nào, một người trưởng thành sẽ không bỏ qua việc để lại dấu chân chỗ gần cửa, vì lối đột nhập thực sự là thông qua ống khói, và điều này là để nhằm giữ bí mật. Những dấu chân gần cửa có thể khiến cảnh sát tin rằng hung thủ đã đột nhập qua lối cửa chính, có lẽ với một chiếc chìa khóa được sao lại. Việc thiếu những dấu chân gần cửa chắc chắn sẽ mời gọi cảnh sát khám xét cái lò sưởi. Một lần nữa, như tôi đã nói, đó là dấu hiệu của một tâm trí non nớt, để lại kẽ hở to tướng khi hành động - nếu nghĩ đến việc xóa dấu chân, thì đó là kẽ hở mà một người lớn chắc chắn sẽ không mắc phải.”
“Lại còn thế nữa,” Thumm cất giọng khàn khàn. “Trời ạ, tôi chẳng còn biết nói gì!”
“Mâu thuẫn thứ ba, và có lẽ cũng là mâu thuẫn thú vị nhất trong tất cả.” Đôi mắt Lane lấp lánh trong giây lát.
“Cũng như tôi, cả hai ngài đều lúng túng trước thứ vũ khí lạ kỳ đã lấy mạng bà Hatter. Sao lại có thể chọn một cây đàn mandolin cơ chứ! Tại sao? Thành thật mà nói, cho đến khi đọc bản thảo này tôi không hiểu nổi tại sao Jackie lại chọn cây đàn mandolin đó làm vũ khí. Tôi tự nhiên cho rằng trong cái âm mưu của ai đó mà cậu ta làm theo, cây đàn được chọn vì một lý do đặc biệt. Tôi thậm chí còn xem xét khả năng nó được sử dụng để ám chỉ chủ nhân của nó, York Hatter. Nhưng dù thế nào thì cũng thật vô lý.”
Ông lại nhặt bản thảo lên. “Xem trong cốt truyện nhé. Nó viết gì? Chẳng có từ nào về cây đàn mandolin! Nó chỉ viết thế này: ‘Đập vào đầu Emily bằng một khí cụ đầu tù.’”
Đôi mắt Thumm mở to, và Lane gật đầu. “Tôi thấy ngài có vẻ hiểu rồi đấy. Dấu hiệu rõ ràng cho sự diễn giải kiểu trẻ con. Hãy hỏi một đứa trẻ mười ba tuổi bất kỳ thế nào là một khí cụ ‘đầu tù’. Một ngàn đứa thì may ra mới có một đứa biết. Không một từ nào khác trong bản thảo đề cập đến dụng cụ giết người này, York Hatter đã đột ngột dừng ý, biết rằng bất kỳ người trưởng thành nào cũng hiểu - một khí cụ đầu tù là một kiểu vũ khí nặng đầu bè ra. Jackie đọc nó, và chẳng hiểu được từ này. Cậu ta phải tìm được thứ kỳ lạ mang tên ‘khí cụ đầu tù’ và lấy nó đập vào đầu người bà đáng ghét. Đầu óc một đứa trẻ sẽ làm thế nào đây? Khí cụ - với một đứa trẻ thì từ này chỉ có một nghĩa duy nhất: nhạc khí. Còn đầu tù - chà, cậu ta không hiểu nó; có lẽ chưa bao giờ nghe thấy, hoặc nếu từng nghe, cậu ta cũng không biết nó có nghĩa gì. Hoặc có thể cậu ta đã tra từ điển và biết rằng đó là một cái gì đó to bè, không nhọn; cùn chứ không sắc. Cậu ta hẳn đã nghĩ ngay đến cây đàn mandolin - ‘nhạc cụ’ duy nhất trong nhà, như Barbara Hatter nói, từng thuộc về York Hatter, người viết nên cốt truyện! Đây là bằng chứng xác đáng về một đứa trẻ; chỉ một gã ngốc trưởng thành mới hiểu ‘khí cụ đầu tù’ theo cách đó.”
“Tuyệt vời, tuyệt vời,” là tất cả những gì Bruno có thể thốt ra.
“Nói chung, tôi biết rằng Jackie đã tìm thấy bản thảo trong phòng thí nghiệm và đã từng bước từng bước một gây ra tội ác thực sự. Bây giờ hãy xem xét cái cốt truyện kia: nó nói rõ rằng chính York Hatter - tất nhiên Hatter ở đây là nhân vật trong câu chuyện hư cấu của ông ta, tương ứng với chính tác giả - chính York Hatter là hung thủ. Giả sử một người lớn tìm thấy bản thảo và lên kế hoạch làm theo để tiến hành một tội ác thực sự. Hắn ta đọc được York là tội phạm trong câu chuyện. Nhưng York đã chết. Chẳng phải kẻ đó sẽ vứt bỏ bất kỳ phần nào trong cốt truyện có liên quan đến York đi hay sao? Tất nhiên rồi. Nhưng hung thủ của chúng ta đã làm gì? Hắn đã để lại dấu vết của nhựa thơm Peru, là manh mối dẫn đến York Hatter như bản thảo đã chỉ ra. Dụng ý của York Hatter khi viết chi tiết này rất thông minh: thứ ‘mùi’ này truy ngược lại hung thủ trong cốt truyện, là manh mối khiến ông ta bị bắt vào cuối câu chuyện. Tuy nhiên, trên thực tế Hatter đã chết, việc sử dụng mùi vani để truy ngược về York Hatter thật ngây ngô… Một lần nữa chúng ta thấy gì nào? Một cái đầu chỉ biết làm theo chỉ dẫn một cách cứng nhắc - một trí tuệ non nớt.
“Đó là mâu thuẫn thứ tư, hay thứ năm? Trong cốt truyện của Hatter, rất hợp lý khi ông ta là hung thủ và để lại một đầu mối có thể truy ngược lại chính ông ta - mùi vani. Trong cốt truyện đó thì manh mối này là chuẩn xác. Nhưng manh mối về đôi giày - đôi giày của Conrad - là một manh mối ngụy tạo, nhằm để ngụy tạo bằng chứng; như thể hung thủ đã cố tình lôi Conrad vào vụ án nhằm làm lệch hướng điều tra của cảnh sát.
“Tuy nhiên, tình thế đã thay đổi, khi nó không còn là một câu chuyện, mà biến thành hiện thực - có người dùng cốt truyện hư cấu kia làm hình mẫu cho tội ác thực sự. Lúc này mùi vani dẫn đến York cũng trở thành một manh mối ngụy tạo nốt! Vì York đã chết, giờ không còn là một nhân tố trong âm mưu này nữa. Vậy tại sao lại sử dụng hai manh mối ngụy tạo dẫn đến hai người khác nhau, như hung thủ đã làm? Bất kỳ người trưởng thành nào ở vị trí của Jackie sẽ chọn đôi giày của Conrad là manh mối ngụy tạo thích hợp và loại bỏ mùi vani của một người đã chết - chí ít thì cũng chỉ chọn một trong hai, không thể chọn bừa cả hai. Nếu chọn đôi giày, người đó không cần phải đi chúng như Jackie đã làm. Chỉ cần đánh đổ chất độc lên phần mũi giày, rồi sau đó để lại đôi giày vào trong tủ quần áo của Conrad. Nhưng một lần nữa Jackie, chưa hiểu được những chỉ dẫn đầy ngụ ý được ghi rõ, đã đi luôn đôi giày đó khi trong cốt truyện chẳng đề cập gì đến chuyện mang giày cả… Những dấu chân dính bột phấn không được ghi trong cốt truyện, chỉ đơn thuần là một tai nạn, đã chứng tỏ đôi giày không được mang nhằm mục đích để lại dấu chân - đó là lời bào chữa khả thi duy nhất cho việc đi giày… Tất cả đã cho thấy một kẻ giết người còn chưa biết cân nhắc thiệt hơn, khi phải đối mặt với một tình huống đòi hỏi trí thông tuệ thông thường của người lớn. Một lần nữa, như tôi đã nói, dấu hiệu của một đứa trẻ.
“Và cuối cùng, là chuyện đám cháy. Ngọn lửa làm tôi bối rối trước khi đọc được bản thảo kia. Cũng là tình cờ thôi, trước khi tôi đọc cốt truyện kia có nhiều tình tiết khiến tôi khó hiểu, vì tôi đang thử tìm lý do cho mọi việc, và chẳng tìm thấy gì hết! Những tình tiết diễn ra một cách mù quáng… Trong cốt truyện, mục đích của đám cháy là thế này: để làm ra vẻ như York Hatter bị tấn công bởi một kẻ bên ngoài, từ đó biến thành nạn nhân vô tội. Nhưng vì Hatter đã chết, vụ cháy nhằm vào phòng thí nghiệm trở nên vô nghĩa, và bất kỳ người trưởng thành nào cũng sẽ loại bỏ nó luôn, hoặc biến đổi cho phù hợp với mục đích riêng - có thể phóng hỏa chính căn ph?