Chương 3 Chiếc Hộp Đen
Người đàn ông dừng chân trên ngưỡng cửa, mắt nhìn bàn làm việc. Có nét ngạc nhiên trên gương mặt gầy còm của anh ta khi bộ não nhận thấy cái ghế trống trơn. Rồi đôi mắt anh ta gặp ánh mắt ngài công tố viên. Anh ta mỉm cười buồn, gật đầu rồi bước vào phòng đứng ngay giữa tấm thảm, hoàn toàn bất động, một sự bình thản hoàn hảo. Anh ta trông còn thấp hơn cả tôi, thể hình gọn gàng phần nào tạo ấn tượng phân bố cơ bắp của động vật. Dáng đi đứng và hình thể của anh ta khiến tôi có cảm giác lạ lùng, không giống một thư ký. Anh ta có vẻ tầm tuổi bốn mươi, dù sở hữu một diện mạo không tuổi khó xác định.
Tôi lại nhìn bố. Điếu xì gà vẫn cách miệng ông một khoảng. Đôi mắt ông đang nhìn chăm chú người mới đến với sự kinh ngạc chân thực nhất.
Rồi viên thư ký của người quá cố cũng nhìn bố tôi chăm chú hòng tìm ra dấu hiệu nhỏ nhất cho thấy hai người nhận ra nhau, tôi cũng không thể phát hiện ra rung động đơn thuần nào trên đôi mắt trơ tráo của anh ta. Ánh mắt anh ta nhìn sang tôi, nét mặt thoáng ngạc nhiên. Nhưng thế cũng là quá nhiều ở vào địa vị của anh ta, khi đứng trước một người phụ nữ trong khung cảnh u ám thế này.
Đôi mắt tôi lại quay sang bố. Ông đang lặng lẽ hút điếu xì gà và gương mặt ông lại đờ ra. Dường như không ai nhận thấy trạng thái sững sờ ngắn ngủi của ông. Nhưng tôi biết ông đã nhận ra người này là Carmichael, và cho dù anh ta không để lộ ra bất kỳ dấu hiệu nào, tôi dám chắc rằng anh ta cũng bị sốc trong một khoảnh khắc. Tôi tự nhủ một cá nhân có khả năng tự chủ giỏi đến thế, hẳn sẽ chịu được cảnh bị người khác soi mói.
“Carmichael,” John Hume đột ngột lên tiếng, “cảnh sát trưởng Kenyon nói rằng anh có thông tin quan trọng muốn nói với chúng tôi.”
Cặp lông mày viên thư ký hơi nhướng lên. “Còn phụ thuộc ngài muốn nói ‘quan trọng’ với ý gì, ngài Hume. Dĩ nhiên, tôi thấy xác chết…”
“Phải, phải.” Giọng công tố viên bâng quơ. Thư ký của thượng nghị sĩ Fawcett… Tôi hình dung mình đã nắm được các sắc thái. “Kể chúng tôi nghe chuyện đã xảy ra đêm nay đi.”
“Sau bữa tối thượng nghị sĩ cho gọi ba người: đầu bếp, quản gia và hầu phòng - vào phòng làm việc ở đây và cho phép họ nghỉ ngơi tối nay. Ông ấy…”
“Làm sao cậu biết chuyện này?” Hume đột ngột hỏi.
Carmichael mỉm cười. “Tôi cũng có mặt mà.”
Kenyon cúi người về phía trước. “Đúng đấy, Hume. Tôi vừa chào hỏi những người hầu rồi. Họ đi xem phim trong thành phố, vừa quay về nửa tiếng trước.”
“Nói tiếp đi, Carmichael.”
“Khi những người hầu ra ngoài, thượng nghị sĩ bảo tôi cũng có thể nghỉ ngơi tối nay. Sau khi giải quyết xong các thư từ cho thượng nghị sĩ, tôi rời khỏi nhà.”
“Chẳng phải yêu cầu này có hơi bất thường sao?”
Thư ký nhún vai. “Không hề.” Miệng anh ta nở nụ cười khoe hàm răng trắng. “Ông ấy thường xuyên… tham dự những việc riêng; chuyện ông ấy giải phóng chúng tôi như thế này cũng bình thường. Dù sao đi nữa, tôi đã quay về sớm hơn dự kiến và phát hiện cửa trước mở toang…”
“Chú ý thời gian,” bố nói bằng giọng trầm vang. Nụ cười của anh ta có phần ngỡ ngàng, rồi trở lại trạng thái ban đầu; anh ta kiên nhẫn chờ đợi câu hỏi quan tâm lịch sự hơn. Phong thái của anh ta thật hoàn hảo, tôi tự nhủ; điều này khiến tôi hết sức kinh ngạc, không thể hình dung một thư ký tầm thường đang trải qua một cuộc thẩm vấn, mà vẫn cư xử khôn khéo đến vậy. “Khi rời khỏi nhà, cậu có đóng cửa không?”
“Có chứ! À, mà cửa ra vào, như các ngài có thể đã nhận ra, có một khóa lò xo. Và ngoài thượng nghị sĩ và tôi, chỉ những người hầu mới có chìa khóa. Thế nên tôi cho rằng thượng nghị sĩ đã tự cho phép ai đó bước vào đây.”
“Làm ơn không phỏng đoán,” Hume ngắt lời. “Chúng tôi cần thông tin xác thực, anh biết đấy! Anh quay về và thấy cửa trước mở. Rồi sau đó?”
“Sự thực này khiến tôi cực kỳ nghi ngờ, có cảm giác rằng đang có chuyện không ổn. Tôi chạy vào trong phòng thì phát hiện thi thể của thượng nghị sĩ tại bàn, ngồi trên ghế, đúng như tư thế lúc cảnh sát trưởng Kenyon đến. Tất nhiên, việc đầu tiên tôi làm khi phát hiện ra xác chết đó là gọi điện cho cảnh sát.”
“Anh không đụng vào xác chết chứ?”
“Dĩ nhiên là không.”
“Hừm. Lúc đó là mấy giờ, Carmichael?”
“Chính xác là mười rưỡi. Khi tôi trông thấy thượng nghị sĩ Fawcett đã bị giết, tôi lập tức xem ngay đồng hồ. Tôi biết chi tiết như thế có thể quan trọng.”
Hume nhìn bố tôi. “Thú vị, đúng không? Anh ta phát hiện xác chết mười phút sau khi kết thúc công việc… Và anh không thấy bất kỳ ai rời khỏi nhà?”
“Không. Tôi e rằng có hơi lơ đãng khi tới gần lối đi bộ vào nhà. Lúc đó trời cũng tối. Hẳn sẽ cực kỳ đơn giản nếu kẻ sát nhân lẩn trốn trong bụi rậm khi nghe tiếng bước chân tôi, và đợi chờ tôi bước vào nhà trước khi tẩu thoát.”
“Đúng vậy, Hume,” bố tôi bất ngờ nói. “Sau khi gọi cho cảnh sát, Carmichael, cậu đã làm gì?”
“Tôi vẫn đứng nguyên trên ngưỡng cửa và chờ đợi. Cảnh sát trưởng Kenyon đến rất nhanh. Không quá mười phút sau cuộc gọi của tôi.”
Bố tôi bước lộp cộp ra cửa, ngó ra ngoài hành lang. Rồi ông quay vào và gật đầu.
“Rộng đấy. Vậy là cậu nhìn rõ cửa trước suốt thời gian đó. Cậu có trông thấy hay nghe thấy ai đang cố gắng ra khỏi nhà không?”
Carmichael quả quyết lắc đầu. “Không ai rời khỏi hoặc cố gắng rời khỏi. Tôi thấy cửa phòng làm việc mở và tôi không đóng nó lại. Ngay cả khi gọi điện thoại, tôi đứng đối mặt với cửa vào, có thể thấy bất kỳ ai đi qua. Tôi chắc chắn trong nhà chỉ có mình tôi.”
“Tôi e rằng tôi không hoàn toàn hiểu…” John Hume bắt đầu bằng giọng tức giận.
Kenyon mắt cá cắt ngang bằng giọng nam trung the thé. “Bất kỳ kẻ nào làm việc này cũng đã thực hiện nó trước khi Carmichael tới. Chẳng ai bỏ trốn sau khi chúng tôi đến. Chúng tôi đã khám xét cả bãi rác từ trên xuống dưới nữa.”
“Còn những lối ra khác thì sao?” bố tôi hỏi.
Kenyon vỗ vào lò sưởi phía sau bàn làm việc trước khi đáp. “Không thể,” lão ta nhếch mép. “Chúng tôi thấy tất cả lối ra đều bị khóa từ bên trong, ngoại trừ cửa trước, cả các cửa sổ cũng thế.”
“Ô, được rồi,” Hume nói. “Chúng ta đang phí thời gian.” Anh ta bước đến bàn làm việc cầm lên con dao rọc giấy nhuốm máu. “Anh có nhận ra cái này không, Carmichael?”
“Thực ra là có. Nó là dao của thượng nghị sĩ. Lúc nào nó cũng nằm trên bàn của ông ấy, thưa ngài Hume.” Carmichael nhìn chăm chú thứ vũ khí này chỉ một lát, rồi hơi quay mặt đi. “Còn gì khác nữa không? Tôi đang rất đau buồn, ngài biết đấy…”
Đau buồn! Anh ta còn yếu thần kinh hơn cả một con côn trùng.
Công tố viên bỏ con dao xuống bàn. “Anh biết gì về tội ác này không? Có gợi ý nào không?”
Anh ta trông thật sự đau buồn. “Tôi chẳng có ý tưởng nào hết, thưa ngài Hume. Dĩ nhiên, chính ngài cũng biết rằng thượng nghị sĩ có không ít kẻ thù trong sự nghiệp chính trị của ông ấy…”
Hume chậm rãi nói: “Điều anh vừa nói có ý gì?”
Carmichael có vẻ mặt đau khổ. “Ý gì ư? Tôi biết chắc mình vừa nói gì. Thượng nghị sĩ là người bị nhiều kẻ căm ghét như ngài cũng biết. Có lẽ là rất nhiều đàn ông - mà có cả phụ nữ nữa - những kẻ có thể được xem là những hung thủ tiềm năng…”
“Tôi hiểu,” Hume lẩm bẩm. “Đến lúc này chúng tôi đã hỏi xong. Vui lòng đợi ở ngoài.”
Carmichael gật đầu, mỉm cười rồi rời phòng.
Bố tôi kéo công tố viên sang một bên, tôi nghe thấy giọng nam trầm của ông đang làm Hume bối rối với những nghi vấn về thượng nghị sĩ Fawcett, những kẻ thân thiết với ông ta, mức độ những sự phá hoại chính trị của ông ta và một loạt những câu hỏi rất ngớ ngẩn về Carmichael.
Cảnh sát trưởng Kenyon tiếp tục tuần tra sàn nhà, nhìn lên các bức tường và trần nhà một cách ngu ngốc.
Cái bàn làm việc bên kia phòng hấp dẫn tôi. Và tôi tự hỏi - như tôi đã làm suốt quãng thời gian Carmichael được thẩm vấn - rằng liệu mình có dám đứng dậy khỏi ghế và bước đến chỗ cái bàn không. Dường như với tôi, có nhiều thứ đơn giản đã bị bỏ qua, không quan tâm đến. Tôi không thể hiểu nổi tại sao bố tôi, công tố viên lẫn Kenyon đều không thèm chú ý xem xét kỹ rất nhiều thứ trên mặt bàn gỗ.
Tôi nhìn quanh. Chẳng ai trông thấy tôi.
Jeremy cười toét khi tôi đứng lên nhanh chóng bước đến chiếc bàn. Không để phí thời gian, không e sợ bị ngắt quãng hay lời la mắng nghiêm khắc nào đó, tôi cúi xuống mặt bàn. Ngay trước cái ghế nơi thi thể của thượng nghị sĩ Fawcett từng ngồi, có một bàn thấm màu xanh. Nằm trên bàn thấm, chiếm một nửa mặt bàn làm việc, là một tập giấy ghi chú dày và mịn. Tờ giấy trên cùng sạch sẽ, trống trơn. Tôi thận trọng nhấc tập giấy ghi chú lên và phát hiện một thứ khiến tôi tò mò.
Thượng nghị sĩ đã tựa sát vào mép bàn, tì hẳn người vào nó. Tôi nhớ lại những vết thương trên ngực ông ta không bắn máu lên quần ông ta hay lên ghế như bây giờ tôi quan sát thấy, mà bắn lên bàn thấm. Khi nhấc tập giấy ghi chú lên, tôi phát hiện một lượng máu lớn đã bắn vào bàn thấm màu xanh. Thế nhưng vết máu này thật lạ lùng. Nó có hình dáng của một trong những góc dưới của tập giấy. Nghĩa là khi nhấc tập giấy khỏi bàn thấm, tôi trông thấy một vết tối màu trên mặt bàn thấm màu xanh sáng có hình cầu không bình thường, tuy nhiên, trên chiếc bàn thấm ở nơi từng bị góc tập giấy ghi chú đè lên, lại xuất hiện một khoảng hình chữ nhật rất sạch sẽ.
Thế là rõ rồi! Tôi nhìn quanh. Bố tôi và Hume vẫn đang trò chuyện bằng giọng thấp. Keynon vẫn đang nhịp chân một cách máy móc. Nhưng Jeremy và một số người mặc đồng phục đang nhìn tôi, đôi mắt nghiêm khắc và tôi ngần ngừ. Có lẽ như thế là không thông minh… Nhưng giả thuyết này cần được thử nghiệm. Tôi hạ quyết tâm và cúi xuống bàn bắt đầu đếm tập giấy ghi chú. Có phải còn mới nguyên không? Vẻ ngoài của nó dường như cho thấy điều này. Thế nhưng… Có chín mươi tám tờ giấy trong tập giấy. Trên tờ bìa nếu tôi không nhầm chắc phải có ghi chép…
Phải! Tôi đã đúng. Tờ bìa của tập giấy cho tôi biết rằng tập giấy còn nguyên, chưa được sử dụng phải bao gồm một trăm tờ. Tôi đặt lại tập giấy xuống cuốn sổ nháp như cũ, tim đập thình thịch trong lồng ngực như con chó đập đuôi xuống sàn. Trong khi thử nghiệm và xác nhận giả thuyết này của mình, tôi tự hỏi phải chăng phát hiện của tôi không có tầm quan trọng lớn lao. Đúng, vào lúc này nó dường như chẳng dẫn đến đâu cả. Thế nhưng một đầu mối sẽ mang đến những khả năng không thể bỏ sót trong tâm trí…
Tôi cảm thấy bố chạm vào vai tôi, “Rình mò hả Patty?” ông thô lỗ hỏi nhưng đôi mắt nhìn chằm chằm tập giấy tôi vừa bỏ xuống, nhíu mày lại trầm tư. Hume nhìn tôi với sự quan tâm chiếu lệ, khẽ mỉm cười rồi quay đi. Tôi nghĩ: ”Ra thế đấy, ngài Hume! Kẻ cả bề trên à!” Tôi quyết tâm bóc mẽ cái vẻ ngoài tự mãn của anh ta ngay trong cơ hội đầu tiên.
“Giờ hãy cùng xem thứ vớ vẩn này, Kenyon,” anh ta mạnh mẽ nói. “Tôi muốn xem thanh tra Thumm nghĩ gì về nó.”
Kenyon càu nhàu, thọc hai tay vào túi lôi ra một đồ vật rất lạ kỳ.
Trông nó giống như một phần của món đồ chơi. Một hộp đồ chơi được làm bằng loại gỗ rẻ tiền, mềm mại như gỗ thông. Chiếc hộp nhuốm một màu đen lốm đốm, hoen gỉ với một số ghim bấm kim loại thô nhỏ trên các góc để trang trí, cứ như thể đây là mô hình của một cái rương. Những chiếc ghim bấm kim loại tượng trưng các mảnh đồng bảo vệ các góc. Tuy nhiên, tôi không có cảm giác như thế, trông nó giống một cái hộp hay cái rương thu nhỏ hơn. Chiều cao của nó không quá ba phân.
Nhưng đặc điểm thu hút của đồ vật này là ở chỗ, nó là phần duy nhất của một chiếc rương thu nhỏ. Mặt phải của miếng này được cưa rất gọn và mịn, thứ Kenyon đang cầm trong những ngón tay cáu bẩn, móng tay đen đúa chỉ rộng có hai phân. Tôi làm một con tính nhanh. Theo tỷ lệ chiều cao, toàn bộ cái rương chắc phải rộng khoảng sáu phân. Cái này rộng hai phân; do đó nó chỉ bằng một phần ba kích thước rương thật.
“Dù tôi có nói gì ông cũng phải chấp nhận,” Kenyon nghiêm túc nói với bố tôi. “Ông cớm thành phố sẽ nói gì về nó hả?”
“Ông tìm thấy nó ở đâu?”
“Trên cái bàn kia, đang dựng đứng lên, không thể nhầm được khi chúng tôi lao vào đây. Nó nằm phía sau tập giấy, đối diện với cái xác cứng ngắc.”
“Đúng là lạ lùng,” bố tôi lẩm bẩm, lấy đồ vật trên ngón tay Kenyon xem xét kỹ hơn.
Nắp hộp - đúng hơn là một phần của cái nắp đang nằm trên phần rương còn lại sau khi bị cưa - gắn liền vào thân rương bằng một bản lề nhỏ xíu. Bên trong chẳng có gì; mặt trong rương không bị nhuốm bẩn, bề mặt gỗ mới toanh của rương cũng sạch bong. Và ở mặt trước cái hộp nổi lên trên màu đen bẩn thỉu có hai chữ cái mạ vàng được sơn tỉ mỉ, H-E .
“Giờ thì cái chữ quái quỉ này có ý gì?” Bố ngây ra nhìn tôi. “Anh ta là ai?”
“Khó hiểu, đúng không?” Hume mỉm cười, ra vẻ là người ra câu đố thú vị.
”Dĩ nhiên,” tôi trầm tư nói, “có lẽ nó chẳng hề mang nghĩa là ‘anh ta’ đâu.”
“Điều gì khiến cô nói vậy, cô Thumm?”
“Ngài Hume,” tôi đáp bằng giọng ngọt ngào nhất có thể, “tôi phải nghĩ rằng, một người có nhận thức như ngài sẽ thấy những khả năng trong cái được gọi là ý tưởng bất ngờ. Một phụ nữ đơn thuần, ngài biết đấy…”
“Tôi không thể tin nổi điều này lại quan trọng,” Hume đột ngột ngắt lời, nụ cười của anh ta thật sự khó hiểu. “Ngài Kenyon cũng không nghĩ vậy. Đồng thời chúng tôi không muốn bỏ qua một đầu mối khả dĩ nào. Ngài nghĩ sao, thanh tra?”
“Con gái tôi,” bố đáp, “đã gợi ý một bước ngoặt. Đây có thể chỉ là một phần của một từ - hai chữ cái đầu tiên. Và trong trường hợp đó sẽ không có nghĩa là “anh ta.” Hoặc nó là từ đầu tiên của một câu ngắn.”
Kenyon thốt lên tiếng nhạo báng.
“Đã khám nghiệm vân tay cái này chưa?”
Hume gật đầu, anh ta dường như bối rối. “Chỉ có dấu vân tay của Fawcett thôi.”
“Tìm thấy trên bàn à,” bố tôi lẩm bẩm. “Đêm nay khi Carmichael rời khỏi nhà, nó có nằm trên bàn không?”
Hume nhướng mày. “Thực ra tôi không nghĩ hỏi anh ta chuyện này là ý hay. Cứ gọi Carmichael vào đây rồi tìm hiểu đi.”
Công tố viên sai người đi gọi tay thư ký. Anh ta nhanh chóng xuất hiện với vẻ lịch thiệp và dò hỏi hiện trên gương mặt dịu dàng. Đồ vật nhỏ bằng gỗ trong tay bố tôi đập vào mắt anh ta.
“Tôi thấy các ngài đã tìm thấy nó,” anh ta lẩm bẩm. “Thú vị, đúng không?”
Hume trở nên cứng rắn. “Anh thấy vậy à? Anh biết gì về nó?”
“Đó là một câu chuyện nhỏ hiếu kỳ, ngài Hume. Tôi không có cơ hội kể cho ngài, hay ngài Kenyon nghe về nó…”
“Chờ chút đã,” bố tôi dài giọng. “Cái vật không tên này tối nay có nằm trên bàn thượng nghị sĩ khi cậu rời phòng không?”
Carmichael mỉm nụ cười mỏng, bình thản. “Không.”
“Vậy thì chúng ta có thể nói,” bố tôi tiếp tục, “rằng cái thứ này có đủ ý nghĩa nào đó đối với Fawcett, hoặc kẻ giết ông ta, để bằng cách này hay cách khác đặt nó lên bàn. Chẳng lẽ điều này còn không đủ quan trọng với cậu hay sao hả Hume?”
“Có lẽ ông nói đúng. Tôi đã không nhìn nó theo chiều hướng đấy.”
“Dĩ nhiên chẳng hạn, chúng ta không thể nói rằng thượng nghị sĩ không lấy nó ra khi ông ta ở một mình chỉ để xem qua. Trong trường hợp đó, có lẽ chẳng liên quan gì đến kẻ sát nhân. Cho dù theo kinh nghiệm của mình tôi thấy rằng khi một người bị giết làm gì đó trong những hoàn cảnh như thế này - khi đuổi mọi người xung quanh đi hết - thì việc này phần lớn đều có liên quan đến vụ giết người. Chọn đi. Tôi sẽ nói thứ này cần được xem xét kỹ lưỡng.”
“Có thể,” Carmichael gợi ý nhẹ nhàng, “các quý ông, tốt hơn hết các ngài nên lắng nghe điều tôi phải nói trước khi đưa ra bất kỳ kết luận nào. Cái hộp gỗ kia đã nằm trong bàn làm việc của thượng nghị sĩ nhiều tuần rồi. Trong ngăn kéo này.” Anh ta đi vòng quanh bàn rồi mở ngăn kéo trên cùng ra. Những thứ bên trong ngăn kéo rất lộn xộn.
“Ai đó đã đụng vào ngăn kéo này!”
“Ý anh là sao?” Công tố viên hỏi nhanh.
“Thượng nghị sĩ Fawcett là một người cực kỳ ngăn nắp. Yêu thích mọi thứ phải nằm đúng chỗ. Tôi tình cờ biết được điều này ngày hôm qua, chẳng hạn cái ngăn kéo này đã được sắp xếp ngay ngắn đến hoàn hảo. Giờ thì các giấy tờ lộn xộn hết cả lên. Ông ta không bao giờ để chúng như thế, tôi chắc chắn đấy. Tôi dám nói rằng ai đó đã lục lọi ngăn kéo này!”
Kenyon thét lác người của lão ta. “Có ai ngu xuẩn lảng vảng quanh cái bàn này không?” Không một câu trả lời vang lên. “Vui thật,” lão lẩm bẩm. “Đích thân tôi bảo họ để nguyên cái bàn này. Tên quái nào lại…?”
“Bình tĩnh lại đi, Kenyon,” bố tôi càu nhàu. “Chúng ta đang đạt được bước tiến. Không thể nói chắc được, có vẻ hung thủ đã làm thế. Nào, Carmichael, điều rắc rối gì đằng sau món đồ vật ngớ ngẩn này. Nó nghĩa là gì?”
“Tôi ước gì có thể nói với ngài, thưa thanh tra,” tay thư ký trả lời nuối tiếc. Bốn mắt họ nhìn nhau vô cảm. “Nhưng với tôi nó cũng đầy bí ẩn như với ngài thôi. Ngay cả cách làm sao nó xuất hiện ở đây cũng khó hiểu rồi. Khoảng ba tuần trước, tôi nghĩ vậy - nó đã đến trong một… Không, có lẽ tôi nên bắt đầu từ đầu.”
“Ngắn gọn thôi.”
Carmichael thở dài. “Thượng nghị sĩ đã nhận ra rằng ông ta đang trong cuộc chiến tiền bầu cử khó khăn, ngài Hume…”
“Ồ vậy sao, ông ta ư?” Hume nói với cái gật đầu buồn bã. “Và chuyện này thì liên quan gì?”
“Thượng nghị sĩ Fawcet nghĩ rằng mình có thể là một ứng cử viên nổi tiếng hơn nếu đứng ra - tôi dùng từ này thận trọng đấy - bảo vệ cho người dân nghèo địa phương. Ông ta có ý tưởng mở một gian hàng bán các sản phẩm của tù nhân lao động cưỡng bức - tất nhiên là ở nhà tù Algonquin - cho những người thất nghiệp trong hạt.”
“Việc này bùng nổ khá dữ trên tờ Leeds Examiner.” Hume lạnh lùng ngắt lời. “Cắt bỏ hết các tin không quan trọng. Cái hộp có liên quan gì đến gian hàng?”
“Thượng nghị sĩ được sự cho phép của Ban Quản lý nhà tù và cai ngục Magnus để kiểm tra một vòng Nhà tù Algonquin,” Carmichael nói tiếp. “Chuyện này xảy ra khoảng một tháng trước. Ông ta thu xếp với cai ngục gửi các mẫu sản phẩm của tù nhân đến cho mình ở đây để quảng cáo trước.” Carmichael dừng lại, đôi mắt anh ta rực sáng. “Và trong thùng đồ chơi được sản xuất tại xưởng mộc trong tù, có bao gồm mẩu rương xinh xắn này!”
“Vậy,” bố tôi lẩm bẩm. “Làm sao cậu biết được chuyện này?”
“Tôi mở các thùng carton ra mà.”
“Cái vật này nằm xen lẫn với các món đồ vô giá trị còn lại à?”
“Không hoàn toàn, thưa thanh tra. Nó được bọc trong một tờ giấy bẩn thỉu ghi bằng bút chì gửi cho thượng nghị sĩ. Có một mẩu giấy bên trong gói, nằm trong một phong bì cũng được gửi cho ông ta.”
“Mẩu giấy!” Hume rít lên. “Trời ạ, chính thứ đó có tầm quan trọng cực kỳ đấy! Tại sao anh không nói với chúng tôi tất cả mọi chuyện từ nãy? Nó đâu rồi? Anh đã đọc chưa? Mẩu giấy viết gì?”
Carmichael trông buồn bã. “Tôi rất tiếc, ngài Hume, nhưng vì cái hộp và bức thư cũng được gửi cho thượng nghị sĩ Fawcett, nên tôi không thể… Ngài thấy đấy, khi tìm thấy chúng tôi đã gửi lại cho thượng nghị sĩ. Lúc tôi mở các thùng carton ông ấy ngồi bên bàn đang xem xét mấy thứ. Tôi không biết trong gói ấy có cái gì, cho đến khi ông ấy mở nó ra. Tôi chỉ kịp nhìn lướt qua một dòng địa chỉ. Mặt thượng nghị sĩ tái nhợt như xác chết khi chợt nhìn thấy cái hộp, ông ấy mở phong bì với những ngón tay run rẩy. Tôi xin thề mình nói thật. Và cùng lúc đó ông ấy bảo tôi đi ra ngoài - ông ấy sẽ đích thân mở các thùng carton…”
“Tệ quá, tệ quá,” Hume ngắt lời. “Vậy là anh không biết lá thư ấy ở đâu, hoặc liệu ông Fawcett đã hủy nó đi rồi hay chưa, đúng không?”
“Sau khi chuyển đống đồ chơi và các thùng carton khác qua các nơi bán hàng trong thành phố, tôi nhận thấy mảnh rương ấy không nằm trong thùng đồ chơi nữa. Còn về lá thư thì tôi không bao giờ thấy lại nữa..”
Hume nói: “Chờ chút đã, Carmichael,” rồi thì thầm điều gì đó với Kenyon, trông rất chán nản, càu nhàu một mệnh lệnh với ba cảnh sát viên. Một trong số ba người lập tức đến bên bàn làm việc, ngồi xổm xuống bắt đầu lục lọi các ngăn kéo. Hai người kia đi ra ngoài.
Bố tôi liếc mắt trầm tư nhìn phần đầu điếu xì gà. “Carmichael, cậu cho tôi biết ai là người đã chuyển thùng carton đồ chơi đến? Cậu đã nói đến chuyện này chưa nhỉ?”
“Hình như chưa! Những tù nhân được hưởng đặc ân ở từng khu, ngài biết đấy. Thật ra tôi không quen biết họ.”
“Nói tôi nghe. Thùng carton đồ chơi khi chuyển đến cho cậu có niêm phong không?”
Carmichael nhìn chằm chằm. “Ô, tôi biết rồi. Ngài nghĩ người chuyển đến có thể đã mở thùng và bỏ cái gói ấy vào trên đường đến đây? Tôi không nghĩ vậy, ngài thanh tra. Dấu niêm phong hoàn hảo. Tôi chắc chắn nếu có những dấu hiệu bị can thiệp, hẳn tôi đã phát hiện ra rồi.”
“Ha,” bố tôi nói, chép miệng. “Xuất sắc. Phải thận trọng hơn nữa đấy, Hume. Nhà tù, Chúa ơi. Tôi nghĩ cậu đã bảo rằng chi tiết nhỏ này không quan trọng!”
“Tôi đã lầm,” Hume thú nhận, có sự phấn khích trẻ con trong đôi mắt đen của anh ta. “Và thưa cô Thumm, cô cũng nghĩ rằng điều này là quan trọng chứ?”
Thái độ hợm hĩnh chế nhạo trong giọng anh ta khiến tôi sôi máu. Dám kẻ cả với tôi lần nữa à! Tôi hếch cằm lên, rồi đáp bằng giọng cay độc. “Ngài Hume thân mến của tôi, chắc chắn điều tôi nghĩ thì ảnh hưởng gì đến ngài nhỉ?”
“Ồ, thôi nào. Tôi không có ý xúc phạm cô. Cô thật sự nghĩ gì về chuyện cái rương gỗ?”
“Tôi nghĩ rằng,” tôi ngắt lời, “tất cả các ngài đều bị mù nặng rồi đấy!”